PHÁT HUY VAI TRÒ TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG VÀ SÁNG TẠO
CỦA HỌC SINH TRONG DẠY – HỌC NGỮ VĂN
I. ĐẶT VẤN ĐỀ :
Trong công cuộc đổi mới toàn diện quá trình dạy học, môn Ngữ văn
có một vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường Trung
học cơ sở : góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn phổ
thông chuẩn bị cho họ ra đời hoặc tiếp tục học ở bậc cao hơn. Đó là những
con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương quý trọng gia đình, bè
bạn, có lòng yêu nước, yêu Chủ Nghĩa Xã Hội, hướng tới những tư tưởng
tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công
bằng, lòng căm thù, ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con người biết rèn
luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ
các giá trị chân, thiện, mỹ trong nghệ thuật, trước hết là trong văn học, có
năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng việt như một công cụ để
giao tiếp ; cùng với quá trình đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tích cực hoá hoạt động học tập giúp học sinh phương pháp tự học, thực
chất là tự tìm kiếm và giải quyết vấn đề, thực hiện các nhiệm vụ nhận thức
một cách có hiệu quả nhất.
Bên cạnh thành quả tốt đẹp nhờ một tinh thần trách nhiệm cao và
phương pháp dạy học tiến bộ thích hợp vẫn còn tồn tại một cách dạy có
1
nhiều điểm cần bàn, chính cách dạy này đã góp một phần không nhỏ làm
cho học sinh chán nản học môn Ngữ văn và nhìn chung kết quả học sinh
học môn Ngữ văn có chiều hướng sút kém, việc học của học sinh càng trở
nên phó thác, chỉ biết đến lớp nhiều khi không biết hôm nay học bài gì,
chuẩn bị như thế nào,(trừ một số học sinh có ý thức tự giác chủ động ). Qua
kinh nghiệm ít ỏi từ thực tế dạy học cho thấy cần có một động cơ, một biện
pháp nào đó để giúp học sinh phát huy vai trò tích cực, chủ động và sáng
tạo của mình vào học môn Ngữ văn, nhằm khắc phục tình trạng trên, góp
phần tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh để đem lại hiệu quả như
mong muốn.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Học sinh trường THCS Nguyễn Viết Xuân
- Qua hai năm thực dạy trên lớp 7E năm học 2005 – 2006 và lớp 8E năm
học 2006 – 2007.
III. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN :
1. Nhìn lại một vài cách dạy môn ngữ văn :
Nói như trên cũng do quá trình dạy học chỉ chú trọng thời gian dạy
học trên lớp, đến mức có lúc có người cho rằng hoạt động của thầy trò trên
lớp là quyết định tất cả chất lượng dạy học Ngữ văn. Vì chú trọng như thế
nên giáo viên đã hầu như không đầu tư thích đáng công sức, thời gian vào
việc hướng dẫn học sinh học ở nhà, chuẩn bị trước ở nhà … còn học sinh
2
do vậy cũng không dành thì giờ vào việc tìm hiểu bài truớc khi đến lớp và
ôn luyện củng cố phát triển kết quả học tập trên lớp thích đáng.
Hoạt động của thầy và trò trên lớp thường tập trung theo một qui
trình thầy nói, đọc và ghi lên bảng, trò nghe nhìn và cố nhặt cho được một
số câu chữ của thầy ghi vào vở, nhiều khi để nhấn mạnh ý mình và cũng
thể theo ý nguyện học sinh, giáo viên đã không ngần ngại nói đi nói lại như
đọc chậm từng đoạn, phần bài giảng của mình để học sinh nghe rõ, chép
cho đủ. Về sau, lúc kiểm tra học sinh cố học thuộc bài đã ghi, rồi chép từng
đoạn bài ghi ấy theo một đoạn văn nói hay một đoạn bài văn viết để giáo
viên chấm điểm và giáo viên nhận ra dấu vết suy tư cảm nhận diễn đạt của
mình thật rõ qua các giờ trả bài của học sinh, nhưng ít ai lấy làm phiền lòng
mà thường tán thành ngay thậm chí còn cho điểm cao đối với học sinh đã
lặp lại ý mình một cách suông sẻ nữa. Cũng chính vì thế nhiều giáo viên và
học sinh hầu như không quan tâm gì đến hoạt động ngoại khoá vốn có khả
năng kích thích hứng thú dạy học cho cả thầy và trò và cũng có lợi thế
trong việc mở rộng kiến thức cho học sinh. Kết quả chung cũng là kết quả
cao nhất mà cách dạy này đạt được là tạo một loạt bài nói viết của học
sinh có nhiều điểm giống nhau về nội dung, cách trình bày lập luận dẫn
dắt, và cố nhiên giống cả về cách cảm nhận suy nghĩ đối với từng chi tiết
cụ thể. Rõ ràng với cách dạy nặng yếu tố chủ quan, tính chất phiên bản
trong việc cảm thụ văn chương của từng học sinh đã không có được nữa
3
( ngoại trừ một số học sinh có năng khiếu và học giỏi văn). Người dạy
không hề thấy rằng trong các em đang nghe mình kia tuy còn bé thơ thật
nhưng dù ít dù nhiều các em đã có một vốn liếng văn chương chữ nghĩa
riêng, các em đang nghe mình với tất cả sự thành kính và tất cả cái vốn
liếng ấy và mỗi em bên cạnh phần khác nhau nhất định cũng đang có sự
hình dung rất riêng về từng nhân vật, từng chi tiết nghệ thuật trong tác
phẩm, cũng đang có những liên tưởng thật khác nhau về số ngôn từ, hình
ảnh, nhịp điệu, cấu trúc ngôn ngữ tác phẩm, các đơn vị kiến thức đang
được giáo viên giảng bình. Chúng ta lâu nay không biết hay là quên đi sự
thực như vậy còn học sinh thì cũng tự coi việc nói theo sao cho trơn tru là
đủ, là hay mà không tự cho rằng khi đến với một áng văn hay một đơn vị
kiến thức … mình cần và có thể có cách tiếp cận ra sao, mình nên thâm
nhập mổ xẻ để hiểu kỹ về nó như thế nào và lúc trình bày ý kiến của mình
về nó thì cần nói theo cách riêng nào cho đúng nhất, hay nhất như mình
hằng nghĩ. Đó cũng là nhược điểm của cách dạy không thấy không phát
huy vai trò tích cực chủ động sáng tạo vốn có của học sinh.
2. Ý nghĩa của việc phát huy vai trò tích cực, chủ động và sáng tạo của
học sinh :
Do tính chất đặc thù của môn Ngữ văn, nguyên tắc phát huy chủ thể
học sinh càng có tầm quan trọng đặc biệt. Học văn đối với học sinh là
4
thưởng thức và khám phá, trước hết là thưởng thức tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ. Tiếp nhận cảm thụ tác phẩm nghệ thuật không thể thiếu được.
Nhận thức lí tính, tư duy lý luận, nhưng đó không phải là chủ yếu ; sự tiếp
nhận nghệ thuật diễn ra chủ yếu bằng những rung động tự nhiên tươi mát
của tâm hồn bằng xúc động tình cảm. Đó là sự tiếp nhận mang đậm tính
chủ quan và màu sắc cá nhân. Có thể nói thưởng thức, cảm thụ nghệ thuật
là hoạt động không thể làm thay không thể áp đặt. Vì vậy chỉ có phát huy
đầy đủ vai trò tích cực của chủ thể học sinh mới là con đường đúng đắn
nhất để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học ngữ văn. Mặt khác còn phải
hiểu rằng tác phẩm văn chương tuy miêu tả và thể hiện cuộc sống toàn vẹn
và sinh động nhưng vẫn còn nhiều “ điểm mơ hồ ” chưa rõ. Người đọc phải
quan sát, tri giác để làm nổi lên những nét mơ hồ, khôi phục những chỗ bị
bỏ lửng, nhận ra mối liên hệ của những phần xa nhau ý thức được sự chi
phối, tác động của chỉnh thể đối với các bộ phận. Điều này thể hiện rõ
trong việc đọc tác phẩm thơ trữ tình, nhất là thơ cổ. Còn như trong tác
phẩm tự sự, ví dụ như trong truyện ngắn
“ Lão Hạc ” của Nam Cao,
những lời nhận xét thoáng qua của vợ ông Giáo, của ông Giáo, của Binh
Tư nếu đọc qua tưởng như không có quan hệ gì đến thái độ, tình cảm, cách
nhìn, cách đánh giá con người của tác giả qua tính cách, số phận của lão
Hạc. Có bài thơ bài ca dao trữ tình rõ ràng có một tiếng nói nhưng không rõ
là lời của ai và nói gì. Tính chất đặc biệt đó của hiện tượng nghệ thuật ngôn
từ đòi hỏi người đọc người thưởng thức, khám phá phải chủ động tích cực,
5
phải huy động vốn sống vốn kinh nghiệm, tri thức văn học nghệ thuật phải
nỗ lực tư duy tập trung xúc cảm rung động để bổ sung làm cho tác phẩm
hiện lên một cách đầy đặn hoàn chỉnh. Vì vậy, chỉ có phát huy tính tích cực
chủ động của chủ thể học sinh việc dạy học ngữ văn mới có hiệu quả chất
lượng.
3. Một số phương thức cần và có thể làm theo để thực hiện phát huy vai
trò tích cực chủ động và sáng tạo của học sinh
Để thực hiện tư tưởng dạy học tập trung vào người học, phát huy
tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập, các biện pháp dạy học
tích cực được vận dụng là thực hành giao tiếp, phân tích ngôn ngữ, thảo
luận, giải quyết vấn đề. Cùng với các hình thức tổ chức học tập : học theo
lớp, học theo nhóm, học cá nhân. Hình thức học theo nhóm tạo nhiều điều
kiện cho học sinh hợp tác, học hỏi nhau trong quá trình tìm hiểu, vận dụng
kiến thức và rèn luyện kỹ năng. Tuy nhiên khi sử dụng các phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học cần tránh khuynh hướng tuyệt đối hoá một vài
phương pháp hoặc một hình thức tổ chức dạy học. Cần vận dụng linh hoạt
một số phương pháp, hình thức dạy học trong mỗi bài học để khơi dậy
được niềm hứng thú học tập ở học sinh.
6
Trên cơ sở tập hợp tình hình đối tượng học sinh nhiều lớp được dạy
như lớp 7E, 7D, 8D năm học 2005 – 2006 và lớp 7D, 7C, 8E năm 2006 –
2007 sau đây chỉ xin nêu một số phương thức thực hiện :
a) Trong quá trình giảng dạy trên lớp :
Giáo viên luôn có ý thức và biện pháp khơi dậy, nuôi dưỡng tính tự giác
chủ động, niềm say mê hứng khởi và nhiệt tình sáng tạo trong khám phá
kiến thức mới. Vai trò chủ thể học sinh chỉ được phát huy khi học sinh
được đặt trong sự đối diện với tác phẩm, với những yêu cầu cần đạt tới và
khả năng có thể đạt tới. Vì vậy việc cá thể hoá chủ thể học sinh trong quá
trình dạy học chính khoá cũng như trong hoạt động ngoại khoá có ý nghĩa
lớn.
Trong quá trình thực hiện bài dạy nhất là khâu tổ chức dạy học trên
lớp, giáo viên hình thành ở học sinh những kiến thức công cụ, những hiểu
biết và phương pháp để cảm thụ, phân tích để chiếm lĩnh tác phẩm văn
chương hay một đơn vị kiến thức. Chủ thể học sinh sẽ không được phát
huy nếu các em thấy bất lực trước đối tượng hoặc là đối tượng trở thành xa
lạ, vô cảm đối với các em. Để tránh tình trạng ấy, thông qua hướng dẫn tìm
hiểu tác phẩm giáo viên phải từng bước hình thành ở học sinh những khái
niệm lý luận sơ giản nhưng cần thiết, đồng thời bước đầu giúp các em có
phương pháp và kỹ năng tiếp nhận tác phẩm. Bởi cái quan trọng nhất trong
giảng dạy nói chung dạy văn nói riêng là rèn luyện bộ óc, là rèn luyện
7
phương pháp suy nghĩ, phương pháp vận dụng kiến thức của mình. Để chủ
thể học sinh được phát huy đầy đủ trong suốt quá trình cảm nhận suy ngẫm
tác phẩm, giáo viên càng phải phát huy vai trò chủ đạo của mình, phải
khẳng định rằng cùng hệ thống câu hỏi để dẫn dắt học sinh những đoạn văn
hoặc cả bài văn ngân vang lên qua giọng đọc diễn cảm của giáo viên,
những câu giảng những lời bình thấm thía của thầy khi cần thiết, những hệ
thống, khái quát của thầy về những kiến thức học sinh đã tìm hiều phát
hiện… không những không vi phạm nguyên tắc phát huy chủ thể học sinh
mà ngược lại còn có tác dụng khơi sâu cảm thụ, kích thích nỗ lực trí tuệ và
óc sáng tạo của các em trong giờ văn – điều cơ bản vẫn là trình độ và tài
năng sư phạm của giáo viên
b) Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà :
Qua thực tế giảng dạy cho thấy khâu chuẩn bị bài ở nhà của học sinh
thường rất bị coi nhẹ, giáo viên không hướng dẫn cụ thể cho học sinh.
Trước hết cần coi đây là một công việc tuy không thực mới lạ nhưng thực
ra, hướng dẫn sao cho đúng mức nếu giáo viên không suy ngẫm cẩn thận,
mấy phút còn lại của giờ học giáo viên tiến hành vội vã, chiếu lệ, dặn học
sinh soạn những câu hỏi sách giáo khoa. Việc chuẩn bị của học sinh thường
không ăn khớp hoặc không liên quan gì mấy đến hoạt động của thầy và trò
trên lớp. Ở đây có vấn đề nhận thức về ý nghĩa và nội dung của việc học
8
sinh chuẩn bị ở nhà. Chuẩn bị ở nhà là bước tập dượt cho sự cảm thụ trên
lớp sâu sắc hơn. Bằng kinh nghiệm sống và kinh nghiệm văn học của bản
thân, học sinh trực tiếp đi vào thế giới tác phẩm trên cơ sở đó, giáo viên sẽ
khơi sâu phát triển những ấn tượng đúng đắn và loại trừ những cảm xúc và
những suy nghĩ ban đầu còn chủ quan lệch lạc. Việc chuẩn bị ở nhà của học
sinh có nhiều mặt đa dạng : có thể là tập đọc tìm hiểu từ ngữ khó ( điển cố )
suy nghĩ về một chi tiết nghệ thuật, một kiến thức cụ thể cần thiết có liên
quan đến việc tiếp nhận tác phẩm … nhưng nội dung chủ yếu vẫn là nhằm
khơi dậy hứng thú học sinh đối với tác phẩm và định hướng học sinh vào
những vấn đề then chốt của tác phẩm mà giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh
đi sâu phát hiện trên lớp. Câu hỏi chuẩn bị tuyệt đối không tuỳ tiện mỗi câu
hỏi vừa có tác dụng khơi dậy hứng thú vừa đi vào thế giới trọng tâm cảm
hứng của tác giả, vừa có tác dụng chuẩn bị cho hoạt động giáo viên và học
sinh. Đến lớp giáo viên phải kiểm tra việc chuẩn bị ở nhà, đây không
những chỉ là công việc thường lệ của nhà giáo trước khi bắt tay vào giảng
dạy một tác phẩm mới, đây còn là bước cần thiết tạo tâm thế chủ động, tạo
tiền đề tâm lý cần có cho học sinh để thâm nhập bài học. Thực tế giảng dạy
cho thấy có một truờng hợp như sau : giáo viên dặn học sinh chuẩn bị bài
nhưng đến lớp giáo viên ít kiểm tra sự chuẩn bị đó, nên có một học sinh
quen lệ đã không chuẩn bị bài và chờ khi nào thầy kiểm tra thì đối phó
bằng cách lấy bài chuẩn bị của bạn khác trình ra và khi thầy phát hiện sự
việc thì vỡ lẽ …
9
- Khi hướng dẫn học sinh học ở nhà cần chú ý hai nội dung với
những yêu cầu cách học khác nhau :
+ Đối với những bài đang học dở hay vừa học xong :
Việc hướng dẫn học ở nhà là nhằm cho học sinh hiểu sâu, vững hơn
những gì đã ghi và nghe trên lớp, trên cơ sở đó mà bắt dầu vận dụng những
điều đã hiểu chắc chắn ấy vào quá trình tìm tòi suy nghĩ, phân tích những
bài học những phần kiến thức và thực tế cuộc sống liên quan gần gũi. Vì
thế khi hướng dẫn học sinh học ở nhà trong các trường hợp này cần hướng
các em vào hai hoạt động : một là suy ngẫm kỹ lưỡng hơn với một loạt thao
tác so sánh, đối chiếu liên hệ, kiến giải, phân tích … quá trình suy ngẫm
thường dẫn đến việc để cho các em tập viết tập nói các bài ngắn có tính
chất thu hoạch và về giá trị văn chương của tác giả, tác phẩm, về giá trị tu
từ biểu cảm của nghệ thuật ngôn ngữ ; hai là cùng với việc suy ngẫm như
thế yêu cầu học sinh làm bài tập dưới dạng hệ thống hoá kiến thức cơ bản,
tiến tới so sánh, liên hệ tri thức Ngữ văn trong bài với cuộc sống của mình
trong quan hệ đối với mọi người xung quanh.
+ Đối với những bài sắp học :
Hướng dẫn học sinh tập trung xung quanh yêu cầu tìm hiểu bài mới,
việc tìm hiêu này cần tránh cả hai phương hướng : hoặc là quá sơ lược, quá
dễ dãi vì các yêu cầu đưa ra chung chung, đơn điệu hoặc là quá tỉ mỉ chi
10
tiết vì yêu cầu đưa ra đã nhiều phần nặng nề đòi hỏi phải qui luận ngay.
Một điều nữa cần chú ý là : việc hướng dẫn tìm hiểu bài mới này nên được
đạt ra một cách chu đáo mà tự nhiên, nhẹ nhàng có sự hấp dẫn gợi mở, gợi
cảm nghĩ và ít nhiều có chất định hướng cho quá trình dạy học trên lớp bài
đó ít hôm sau.
Như chúng ta đã biết những dấu hiệu đặc trưng cơ bản của cách dạy
học theo hướng tích cực là : dạy học thông qua tổ chức các hoạt động của
học sinh, dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tăng cường học
tập cá thể với học tập hợp tác cần đặc biệt chú ý đến phương pháp tự học,
tự học không chỉ học ở nhà mà ngay cả trong tiết dạy dưới sự định hướng
của giáo viên. Cần nhận thức rằng 45 phút trong giờ học chủ yếu là 45 phút
giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh thâm nhập khám phá bài học theo
kinh nghiệm và tài năng của giáo viên. Sau 45 phút tiết học kết thúc nhưng
bài học chưa kết thúc mà nó sẽ còn là đối tượng khám phá của học sinh
suốt cuộc đời. Việc coi trọng phương pháp tự học được thể hiện trong rất
nhiều khâu của quá trình dạy là cách đặt vấn đề xây dựng hệ thống câu hỏi
giúp học sinh chiếm lĩnh tác phẩm không chỉ trong tiết học mà cả sau tiết
học. Không chỉ hướng dẫn học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mà cả về kỹ
năng. Để việc dạy học đạt kết quả tốt cần phát huy sức mạnh tổng hợp của
việc kết hợp sử dụng các hình thức dạy học khác nhau : dạy học đồng loạt,
theo nhóm, theo chuyên đề thảo luận. Vì thế vai trò người dạy cần đầu tư
11
về cách tổ chức lên lớp, tổ chức các hoạt động của học sinh phát huy tính
sáng tạo, kịp thời uốn nắn những biểu hiện chệch ra ngoài những nguyên
tắc, những qui luật tiếp nhận.
- Muốn phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh nhất
thiết phải tăng cường hỏi đáp và ra bài tập nhỏ trên lớp. Đây là hình thức
trực tiếp làm học sinh tham gia vào quá trình thu nhận kiến thức, khiến cho
việc học của các em không còn thụ động theo một chiều nữa, làm như thế
phải chuẩn bị công phu và khi đã thành thạo thì việc nắm chắc bài và khả
năng vận dụng của học sinh trở nên chủ động linh hoạt hơn.
- Để có một hệ thống câu hỏi tốt cần chú ý những yêu cầu sau :
+ Số lượng câu hỏi vừa phải, hỏi những vấn đề cần hỏi.
+ Câu hỏi gọn, rõ, có dẫn dắt gợi mở bằng những câu hỏi nhỏ phù hợp với
tâm lý lứa tuổi và khả năng tiếp nhận của từng đối tượng học sinh.
+ Câu hỏi cần có tính chất kích thích cảm xúc, tư duy. Đặc biệt phải xác
định được những câu hỏi then chốt, những câu hỏi tạo tình huống có vấn
đề, có khả năng khám phá chiều sâu nội dung bài dạy.
Ví dụ : ở văn bản “ Tiếng gà trưa ” ( Ngữ văn 7 tập I) ở khổ thơ cuối bài
:
“ Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
12
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ ”
Giáo viên nêu tình huống giả định : nếu nhà thơ không dùng cách nhắc
đi nhắc lại như vậy thì còn có thể diễn đạt khác đi như thế nào ? Nếu diễn
đạt khác đi như thế thì tác dụng sẽ ra sao ?
+ Cần có nhiều câu hỏi có tính chất giao nhiệm vụ như : “ Em thử tưởng
tượng …” , “ Em suy nghĩ gì …” ; “ Em đồng ý hay không đồng ý … tại
sao ?” ; “ Em thử đặt nhan đề cho tác phẩm ? ” …
Đối với những loại câu hỏi hay và khó cần cho học sinh thời gian suy
nghĩ.
+ Hướng học sinh yếu vào việc nhận biết, tìm hiểu kiến thức. Hướng học
sinh khá vào việc phân tích tác dụng, làm như vậy cuối tiết học học sinh
yếu cũng biết phân tích tác dụng của một đơn vị kiến thức. Điều này tuỳ
bài, tuỳ mức độ tình huống giao tiếp khả năng tiếp nhận của học sinh.
+ Câu hỏi sau kết thúc bài cũng cần thiết đặt ra để học sinh tiếp tục suy
ngẫm nhằm khắc sâu kiến thức.
Để thực hiện tư tưởng dạy học tập trung vào người học, phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh trong học tập. Đề tài coi trọng phương
pháp tổ chức hoạt động học tập phù hợp với đặc điểm của học sinh, các
biện pháp dạy học tích cực được vận dụng là thực hành giao tiếp, phân tích
ngôn ngữ, thảo luận, giải quyết vấn đề.
13
Từ ý nghĩa và yêu cầu của việc phát huy vai trò tích cực, chủ động
và sáng tạo của học sinh, dựa vào đặc điểm đối tượng học sinh, phương
tiện dạy học ở trường ; sau đây xin trình bày một số hoạt động của thầy và
trò trong quá trình tìm hiểu văn bản : “ Bài toán dân số ” ( Bài 13 Ngữ
văn 8 tâp I ) đã được sự góp ý của anh chị đồng nghiệp trong tổ chuyên
môn, để quý thầy cô đồng nghiệp cùng tham khảo góp ý.
* Để thực hiện bài dạy này giáo viên và học sinh cùng chuẩn bị trước các
yêu cầu sau :
- Đối với giáo viên :
+ Nắm chắc nội dung văn bản, soạn giáo án, chuẩn bị bảng phụ.
+ Dự kiến các khả năng tích hợp cho bài học (Văn bản nhật dụng, phương
pháp thuyết minh …, thực tế hiểu biết về tình hình gia tăng dân số ở địa
phương, trong nước, trên thế giới)
+ Dự kiến các hình thức dạy học tích cực ( Hệ thống câu hỏi, đọc, giảng,
bình, phát phiếu học tập, thảo luận nhóm … )
- Đối với học sinh :
+ Đọc diễn cảm văn bản và chuẩn bị trả lời câu hỏi đọc – hiểu văn bản sách
giáo khoa.
+ Đọc thêm phần đọc thêm trong sách giáo khoa, tìm hiểu dân số của Việt
Nam hiện nay. Chuẩn bị phần luyện tập trong sách giáo khoa.
+ Nhớ lại kiểu văn bản nhật dụng ở lớp 6
14
* Giáo viên kiểm tra bài cũ và chuẩn bị bài mới của học sinh như đã dặn ở
phần chuẩn bị.
* Bài mới :
Văn bản : BÀI TOÁN DÂN SỐ
( Bài 13 Ngữ văn 8 tâp I )
15
Hoạt
Hoạt động của giáo viên
động của
Nội dung
học sinh
Hoạt động 1 :
I. Đọc, tìm hiểu
- GV hướng dẫn đọc rõ, chú ý các con số,
chú thích :
tên nước, câu cảm.
- GV đọc mẫu 1 lần
HS nghe
- Gọi học sinh đọc
HS đọc
văn bản
- GV sửa sai cách đọc (nếu có)
- GV hướng dẫn một số chú thích khó.
- GV hỏi : Em có thể chia văn bản thành HS trả lời
mấy phần ? Nội dung chính mỗi phần là
gì ?
- GV chuẩn bị bảng phụ cho phần bố cục –
Bố cục : 3 phần
treo bảng phụ
a) Mở bài
Hỏi : Hãy chỉ ra các ý lớn (luận điểm) ở HS trả lời
Từ đầu đến “sáng
phần thân bài ?
mắt ra ” : Nêu vấn
(GV định hướng có 3 ý lớn)
đề dân số và kế
Hỏi : Em nhận xét gì về bố cục của văn HS trả lời
hoạch hoá gia đình.
bản ?
b) Thân bài :
(Định hướng : bố cục 3 phần liên kết chặt
Tiếp theo đến “ô
16
chẽ logic – tích hợp với phần tập làm văn)
thứ 31 của bàn cờ”:
Tốc độ gia tăng dân
số thế giới là hết sức
nhanh chóng.
c) Kết bài :
Phần còn lại : bày tỏ
thái độ về vấn đề
này.
Hoạt động 2 :
II. Tìm hiểu văn
bản :
Hỏi : Dựa phần đầu văn bản em cho biết
bài toán dân số thực chất là vấn đề gì ?
1) Nêu vấn đề dân
HS trả lời
số và kế hoạch hoá
gia đình :
Hỏi : Em hiểu thế nào về dân số và kế
hoạch hoá gia đình ?
Bài toán dân số thực
(GV nhận xét sửa sai cho các nhóm )
HS thảo
luận
Hỏi : Bài toán dân số được đặt ra từ lúc
nào ?
nhóm, trả
lời
chất là vấn đề dân số
và kế hoạch hoá và
gia đình.
- Nêu hai ý kiến :
HS trả lời + Từ thời cổ đại
+ Mới vài chục năm
Hỏi : Từ hai ý kiến nêu ra tác giả có thái
17
nay.
độ như thế nào về vấn đề này ?
- “sáng mắt ra”:
HS trả lời
cách nói ẩn dụ
tượng trưng, tạo bất
ngờ, gây chú ý
Hỏi : Theo em cách đặt vấn đề như vậy có
người đọc.
tác dụng gì ?
- GV nêu vấn đề : ngoài phương thức lập HS trả lời
luận văn bản còn kết hợp nhiều phương
thức khác em thử chỉ ra các phương thức HS trả lời
kết hợp ấy ?
Hỏi : Em chỉ ra đoạn văn tự sự đầu tiên và
tóm tắt câu chuyện từ bài toán cổ.
2) Tốc độ gia tăng
HS tóm
dân số thế giới.
tắt trả lời
a) Vấn đề dân số
- GV dùng bảng phụ kẽ ô bàn cờ - giải
được nhìn nhận từ
nghĩa “cấp số nhân ”.
bài toán cổ :
- Số thóc tăng theo
HS trả lời
cấp số nhân con
người sinh ra trên
Hỏi : Câu chuyện kén rể của nhà thông
thái có vai trò ý nghĩa như thế nào trong
việc làm nổi bật vấn đề chính mà tác giả
18
trái đất con số
tăng lên chóng mặt.
Gây hứng thú, dễ
muốn nói đến ?
HS trả lời
hiểu, so sánh sự gia
- GV chốt lại nội dung sau khi học sinh
tăng dân số quá
nêu.
nhanh
- Hỏi : Dựa vào văn bản em tóm tắt bài
toán dân số từ trong kinh thánh ?
b) Vấn đề dân số từ
Hỏi : Cách chứng minh của tác giả ở phần
HS tóm
chuyện trong kinh
này có gì thay đổi ?
tắt trả lời
thánh :
- Lúc đầu chỉ có hai
HS trả lời
người, nếu mỗi gia
đình chỉ sinh hai con
đến năm 1995 dân
Hỏi : Các tư liệu thuyết minh cùng với
số thế giới là 5,63 tỷ
cách tính toán dân số như vậy có tác dụng
người.
như thế nào đối với người đọc ?
Gia tăng dân số
HS trả lời
nhanh chóng ; gây
Hỏi : Ở ý 3 của phần thân bài tác giả dùng
lòng tin dễ thuyết
phép tính như thế nào để tính gia tăng dân
phục.
số ?
c) Vấn đề dân số từ
(phương pháp thống kê và thuyết minh tích HS trả lời
khả năng sinh sản
hợp tập làm văn )
của phụ nữ
Hỏi : Dùng phép thống kê thuyết minh dân
19
số tăng từ khả năng sinh con của phụ nữ ở
một số nước nhằm mục đích gì ?
- Giải nghĩa được
HS trả lời
- GV dùng phiếu học tập nêu câu hỏi 4
vấn đề
- Cảnh báo nguy cơ
sách giáo khoa. (Định hướng trả lời cho
HS thảo
Vấn đề cơ bản
các nhóm)
luận trả
sinh đẻ có kế hoạch
lời
3) Thái độ của tác
Hỏi : Dựa đoạn cuối văn bản em cho biết
tác giả kêu gọi gì ?
giả :
HS trả lời
- “Đừng để mỗi con
người còn diện tích
1 hạt thóc”
Muốn còn đất
sống phải sinh đẻ có
Hỏi : Từ đó em thấy thái độ và quan điểm
của tác giả ở đây như thế nào ?
kế hoạch.
HS trả lời
(GV liên hệ tình hình hiện nay về đất đai
và dân số )
Nhận thức được
hiểm hoạ gia tăng
dân số có trách
nhiệm với cộng
đồng.
Hỏi : Em học tập được gì từ cách lập luận
20
- Xem thêm -