Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật việt nam về hợp đồng đại lý luận văn ths. luật 60 38 50...

Tài liệu Pháp luật việt nam về hợp đồng đại lý luận văn ths. luật 60 38 50

.PDF
141
10
56

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ------------- NGUYỄN MAI CHI PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ------------- NGUYỄN MAI CHI PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGÔ HUY CƢƠNG Hà Nội – 2012 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC.............................................................................................................. 1 MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 2 Chƣơng 1 – LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ ................................ 8 1.1 Khái niệm, đặc điểm và phân loại Đại lý thương mại ........................................ 8 1.1.1 Khái niệm Đại lý thương mại .......................................................................... 8 1.1.2 Một số đặc điểm của đại lý thương mại ......................................................... 16 1.1.2.1 Đặc điểm .................................................................................................. 16 1.1.2.2 Phân loại ................................................................................................... 24 1.1.3 Phân biệt đại lý thương mại với một số loại hình trung gian thương mại ...... 30 1.1.3.1 Đại diện cho thương nhân ........................................................................... 30 1.1.3.2 Môi giới thương mại ................................................................................... 33 1.1.3.3 Ủy thác mua bán hàng hóa .......................................................................... 35 1.2 Khái niệm Hợp đồng đại lý .............................................................................. 38 1.2.1 Khái niệm ..................................................................................................... 38 1.2.2 Đặc điểm pháp lý của Hợp đồng đại lý......................................................... 45 1.2.2.1 Chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đại lý thương mại ............................... 45 1.2.2.2 Giao kết hợp đồng đại lý ............................................................................. 48 1.2.2.3 Hình thức và nội dung hợp đồng đại lý........................................................ 48 1.2.2.4 Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đại lý .......... 51 1.2.2.5 Chấm dứt hợp đồng đại lý ........................................................................... 54 1.2.3 Một số nguyên tắc cơ bản của Hợp đồng đại lý ............................................ 56 1.2.3.1 Nguyên tắc tự do, tự nguyện và bình đẳng ................................................... 56 1.2.3.2 Nguyên tắc thiện chí, trung thực.................................................................. 56 1.2.3.3 Nguyên tắc đảm bảo cam kết ...................................................................... 56 1.2.3.4 Nguyên tắc không xâm phạm đến lợi ích hợp pháp khác ............................ 57 1.2.4 Vai trò và ý nghĩa của HĐĐL ...................................................................... 57 Chương 2 - PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ ......................... 60 2.1. Pháp luật điều chỉnh hoạt động đại lý thương mại và hợp đồng đại lý thương mại ........................................................................................................................ 60 2.1.1 Pháp luật Việt Nam ....................................................................................... 60 2.1.1.1 Sơ lược lịch sử pháp luật điều chỉnh hoạt động đại lý và hợp đồng đại lý ... 60 2.1.1.2 Pháp luật chuyên ngành ............................................................................. 67 2.1.2 Pháp luật nước ngoài .................................................................................... 81 2.2 Một số tranh chấp liên quan tới hợp đồng đại lý .............................................. 91 Chương 3 – KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ....................................................................................................................... 105 3.1 Thực trạng và định hướng xây dựng khung quy định pháp lý về hợp đồng đại lý .. 105 3.2 Giải pháp và đề xuất: ..................................................................................... 110 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 128 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 131 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thương mại hàng hóa và dịch vụ càng phát triển, vai trò của trung gian thương mại càng được coi trọng vì nó hỗ trợ đắc lực cho thương nhân trong khâu phân phối, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ được nhanh chóng, ít rủi ro, chi phí thấp và dễ dàng gia nhập hoặc từ bỏ thị trường. Là một loại hình động trung gian thương mại nhưng khái niệm đại lý thương mại ở Việt Nam có sự khác biệt và đặc thù so với các hình thức trung gian thương mại trong pháp luật các nước. Ở Việt Nam, bắt đầu từ thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung mô hình đại lý thương mại ngày càng được được sử dụng phổ biến. Trong những năm gần đây, hoạt động đại lý thương mại ngày càng phát triển và số lượng đại lý hoạt động tại Việt Nam tăng nhanh. Đại lý thương mại có mặt trên toàn quốc từ nông thôn đến thành thị, từ trung du đến miền núi hoặc những khu vực xa xôi hẻo lánh. Đại lý thương mại đa dạng về loại hình và phát triển nhanh chóng trong hầu hết mọi lĩnh vực và ngành nghề, cả về doanh số bán hàng và phạm vi cung cấp dịch vụ. Để thừa nhận về mặt pháp lý sự tồn tại của loại hình hoạt động thương mại này, để bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đại lý cũng như bảo đảm cho việc giao kết, thực hiện hợp đồng đại lý thương mại trong một trật tự ổn định, cần có pháp luật điều chỉnh hoạt động đại lý thương mại và hợp đồng đại lý thương mại. Xét về mặt nội dung, pháp luật về hoạt động trung gian thương mại nói chung và về đại lý thương mại nói riêng điều chỉnh không tách rời hai nhóm quan hệ: (i) quan hệ hợp đồng giữa bên thuê dịch vụ (bên giao đại lý) với bên đại lý và (ii) quan hệ giữa bên giao đại lý, bên đại lý và bên thứ ba. Hợp đồng đại lý là căn cứ pháp lý cho thỏa 2 thuận đại lý thương mại được thực hiện trong một hành lang pháp lý an toàn vì nó ghi nhận sự tự do thể hiện ý chí của các bên trong quan hệ hợp đồng, đồng thời là căn cứ pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đối với tranh chấp phát sinh trong và liên quan tới quá trình thực hiện hoạt động đại lý. Hiện nay ngoài Luật thương mại 2005, pháp luật điều chỉnh hoạt động đại lý ở Việt Nam còn được đề cập trong nhiều văn bản luật như Bộ luật Hàng Hải, Luật kinh doanh bảo hiểm…và các văn bản dưới luật khác. Không thể phủ nhận những đóng góp nhất định trong việc xây dựng và ban hành hệ thống các quy định nêu trên, tuy nhiên hiện nay nhận thức của thương nhân và nhiều chủ thể khác về hoạt động đại lý còn khá mơ hồ, chưa hiểu rõ bản chất pháp lý của đại lý thương mại và mối quan hệ của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đại lý với bên thứ ba. Mặt khác, hệ thống pháp luật hiện hành về hoạt động đại lý chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu thực tiễn đặt ra. Các quy định pháp luật điều chỉnh đại lý thương mại còn bộc lộ nhiều mâu thuẫn, chồng chéo. Một số quy định còn thiếu tính cụ thể hoặc chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây là một trong những nguyên nhân làm ảnh hướng tới sự phát triển của hoạt động đại lý của nước ta. Trước nhu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế, trước thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động đại lý ở Việt Nam đang cần bổ sung, hoàn thiện, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý” cho luận văn với mong muốn nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật điều chỉnh lĩnh vực hợp đồng này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong khoa học pháp lý, pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý là một lĩnh vực pháp luật thương mại ít được các nhà khoa học quan tâm. Đã có một số sách nghiên cứu về các chế định trung gian thương mại, đặc biệt về đại diện 3 và ủy quyền thương mại như Giáo trình Luật thương mại của một số cơ sở đào tạo Luật (Trường đại học Luật Hà Nội, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội v.v…), PGS.TS Nguyễn Như Phát và TS. Phan Thảo Nguyên Pháp luật thương mại dịch vụ Việt Nam và Hội nhập kinh tế quốc tế, PGS.TS Phạm Duy Nghĩa Chuyên khảo Luật kinh tế… Ngoài các sách chuyên khảo, ở phạm vi và mức độ khác nhau có một số bài viết, công trình nghiên cứu của các nhà luật học bàn về một vài khía cạnh pháp luật liên quan (trong đó đề cập đại lý thương mại với tính chất là một loại hình trung gian thương mại và chủ yếu trong lĩnh vực mua bán hàng hóa) được công bố qua các tài liệu, báo cáo và tạp chí chuyên ngành như “Chế định đại diện thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam, nhìn từ góc độ luật so sánh” của TS. Ngô Huy Cương – Tạp chí nhà nước và pháp luật (2009); “Tìm hiểu khái niệm đại lý thương mại” của Nguyễn Thị Vân Anh – Tạp chí Luật Học (2006), “Báo cáo hỗ trợ Bộ Công thương xây dựng Nghị định về Đại lý thương mại trong lĩnh vực phân phối” của dự án EU – Việt Nam Mutrap III Dự án hỗ trợ thương mại đa biên (2011), luận án tiến sĩ “Pháp luật điều chỉnh hoạt động trung gian thương mại ở Việt Nam” của ThS. Nguyễn Thị Vân Anh (2007)… song chưa có công trình khoa học chuyên sâu nào nghiên cứu hợp đồng đại lý thương mại ở bình diện lý luận cơ bản cũng như thực trạng ban hành và thực thi pháp luật về hợp đồng đại lý ở Việt Nam. 3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng đại lý cũng như vai trò và ý nghĩa của hợp đồng đại lý đối với hoạt động kinh doanh, thương mại và sự phát triển của nền kinh tế. Mặt khác, luận văn nghiên cứu và phân tích một số vấn đề liên quan đến bản chất pháp lý của hợp đồng đại lý theo quy định của pháp luật Việt Nam trong 4 tương quan so sánh với pháp luật một số nước và thực trạng pháp luật điều chỉnh về hợp đồng đại lý để đề xuất các giải pháp bước đầu góp phần hoàn thiện chế định pháp luật về hợp đồng đại lý ở nước ta. Hợp đồng đại lý xuất hiện trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong nhiều nhóm ngành hoạt động từ phân phối, môi giới, tài chính tiền tệ, du lịch, lữ hành…Chính vì vậy việc nghiên cứu toàn diện và sâu sắc mọi khía cạnh pháp lý của hợp đồng đại lý trong tất cả lĩnh vực, nhóm ngành mà hiện tại pháp luật Việt Nam quy định trong luận văn này là khó, đòi hỏi nhiều thời gian. Để đảm bảo cho luận văn có phạm vi nghiên cứu hợp lý, giải quyết được các nội dung pháp lý theo mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn tập trung vào những nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại theo Luật thương mại năm 2005 và một số luật chuyên ngành khác có quy định về đại lý mua bán hàng hóa và đại lý cung ứng dịch vụ trong tương quan so sánh với các quy định về hợp đồng trung gian thương mại của một số nước theo hai hệ thống luật lớn trên thế giới là Common Law và Civil Law. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài được cụ thể hóa trong việc giải quyết những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về hợp đồng đại lý thương mại và pháp luật điều chỉnh loại hợp đồng này. - Nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý trong tương quan so sánh với pháp luật một số nước điều chỉnh về vấn đề hợp đồng trung gian thương mại, từ đó đánh giá những ưu nhược điểm và những vấn đề còn tồn tại của pháp luật hiện hành. - Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý, đưa ra một số đề xuất cụ thể để hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý ở Việt Nam. 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu trên, luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn. Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực hiện trên nền tảng của phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng và các quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam. 6. Đóng góp của Luận văn Về mặt lý luận Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về hợp đồng đại lý dưới giác độ luật học với những điểm mới chủ yếu sau: - Luận văn đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động đại lý và hợp đồng đại lý, theo đó phân tích kỹ về khái niệm, đặc điểm pháp lý và đã so sánh, luận giải một cách có hệ thống và chiều sâu giữa hoạt động đại lý với các hoạt động trung gian thương mại khác nhằm làm rõ bản chất pháp lý của đại lý thương mại trong mối liên hệ với ủy quyền hay đại diện, vấn đề mà từ trước đến nay còn nhiều ý kiến khác nhau trong quá trình giải thích và áp dụng luật, từ đó lý giải được vấn đề trách nhiệm pháp lý của chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đại lý với bên thứ ba phù hợp với pháp luật quốc tế. - Luận văn đã chỉ ra được các quy định hiện hành điều chỉnh hoạt động đại lý ở Việt Nam còn một số nội dung không thống nhất: khái niệm đại lý trong các luật chuyên ngành được hiểu khác với khái niệm đại lý trong Luật Thương mại; Các quy định về hình thức của hợp đồng, quyền hưởng thù lao của bên đại lý cũng như các quy định về sở hữu hàng hóa, hạn chế cạnh tranh, chấm dứt hợp đồng phát sinh trong hoạt động đại lý còn bộc lộ một số bất 6 cập, chưa đảm bảo quyền tự do giao kết, thực hiện hợp đồng cũng như lợi ích của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. - Luận văn đã nghiên cứu chuyên sâu về hợp đồng đại lý thương mại theo quy định của luật Việt Nam trong tương quan so sánh với pháp luật của một số nước theo hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới, Common Law và Civil Law để phát hiện những điểm tương đồng và khác biệt, chỉ ra những kinh nghiệm pháp lý làm cơ sở quan trọng cho việc đề xuất một số kiến nghị bước đầu góp phần hoàn thiện chế định pháp luật về hợp đồng đại lý ở Việt Nam. - Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát thực trạng thực thi pháp luật về hợp đồng đại lý ở Việt Nam, luận văn đã chỉ rõ nguyên nhân của những tồn tại trong hệ thống pháp luật hiện hành cũng của những tranh chấp trong giao kết và thực hiện hợp đồng đại lý, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp cụ thể để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đại lý thương mại và hợp đồng đại lý ở Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và xu thế hội nhập của thị trường. Về mặt thực tiễn - Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo giúp cho việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện chế định pháp luật về hợp đồng đại lý ở Việt Nam hiện tại và trong tương lai. - Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong ngành luật. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm ba chương: Chương 1. Lý luận chung về hợp đồng đại lý. Chương 2. Pháp luật điều chỉnh hợp đồng đại lý. Chương 3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đại lý. 7 Chƣơng 1 – LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ 1.1 Khái niệm, đặc điểm và phân loại Đại lý thƣơng mại 1.1.1 Khái niệm Đại lý thƣơng mại Theo từ điển Hán - Việt “đại lý” là từ Hán - Việt có nguồn gốc là từ tiếng Hán. Trong tiếng Hán “đại” có nghĩa là “thay thế”; “lý” có nghĩa là quản lý, thu xếp, xử lý. Từ điển tiếng Việt giải thích các hoạt động,trong đó một người thay mặt người khác để làm một việc được gọi là đại lý, do đó theo nghĩa này, từ đại lý và đại diện có cùng nghĩa. Theo từ điển bách khoa Việt Nam, đại lý được hiểu là quan hệ pháp lý, trong đó một bên cho bên kia thay mình thực hiện việc quản lý một số công việc thường dùng trong hoạt động mua bán, giao dịch hoặc xử lý các công việc theo sự uỷ thác của đơn vị sản xuất, thương nghiệp. So với “đại diện”, “đại lý” có nhiều nét giống nhưng cũng có những điểm khác. Dưới phương diện kinh tế, “đại lý” là phương thức kinh doanh hay một cách thức giao dịch. Điều này xuất phát và là kết quả của quá trình phân công lao động xã hội và trao đổi hàng hóa có từ lâu trong lịch sử thế giới. Ban đầu việc mua bán, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ thương mại được thực hiện trực tiếp giữa người mua và người bán hay, người cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ. Dần dần khi quy mô kinh doanh mở rộng, nhu cầu tiêu thụ lớn trong khi thời gian có hạn và điều kiện địa lý cách xa (từ nước này sang nước khác qua đường biển) khiến thương nhân nhận ra cách thức giao dịch trực tiếp là kém hiệu quả và cần tới sự hỗ trợ của những người trung gian. Họ là những người chuyên nghiệp và tạo điều kiện để thương nhân thực hiện giao dịch với bạn hàng, thực hiện các công việc phân phối sản phẩm, hàng hóa. Theo Robert Baldi, xuất hiện sớm nhất trong lĩnh vực trung gian mua bán, trao đổi hàng hóa (từ thế kỷ XIII và phát triển phổ biến trong khoảng thời gian từ giữa 8 thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX) là người làm ủy thác hoa hồng [31, tr.3]. Đây là khởi nguồn của các hoạt động trung gian thương mại khác như đại diện, môi giới, và đại lý. Ở Việt Nam, các hoạt động trung gian như ủy thác, đại lý, môi giới đã bắt đầu được áp dụng đối với các cơ sở kinh tế quốc doanh từ thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung mà ủy thác mua bán hàng hóa được ghi nhận là một trong những hoạt động trung gian sớm nhất. Đối với hoạt động đại lý mua bán hàng hóa, sau giải phóng miền Nam thương nghiệp quốc doanh đã bắt đầu sử dụng các thương nghiệp tư nhân phía Nam để bán lẻ hàng hóa. Mô hình đại lý thương mại được sử dụng phổ biến hơn khi nhu cầu mua bán hàng hóa của các nhà sản xuất từ quy mô nhà máy, xí nghiệp đến các công ty, tập đoàn lớn đòi hỏi nguồn cung nguyên, nhiên liệu hay tiêu thụ sản phẩm ổn định và có hệ thống [13]. Ngoài ra, trong các lĩnh vực vận tải đường biển, bảo hiểm, nông nghiệp cũng xuất hiện các đại lý tàu biển, đại lý bảo hiểm, đại lý thu mua nông sản…[3, tr.15]. Dưới giác độ pháp lý, hiện tượng thương nhân nhận ủy quyền của người khác để tiến hành các hoạt động vì lợi ích của bên ủy quyền để mua, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ thương mại được pháp luật một số nước khái quát bằng khái niệm “trung gian tiêu thụ” hoặc “đại diện thương mại”. Có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự khác nhau giữa pháp luật của các nước trên thế giới thuộc 02 hệ thống luật Anh – Mĩ (common law) và Châu Âu lục địa (Civil law) liên quan đến cách phân loại các hoạt động trung gian thương mại, điều mà có ảnh hưởng tới sự ghi nhận và quy định về đại lý thương mại ở những nước này so với Việt Nam. Có quan điểm cho rằng, Bộ luật Thương mại Đức năm 1908 là bộ luật đầu tiên đưa ra các quy định đặc biệt về “đại lý thương mại” (Handlungsagenten) – là tiền thân của chế định về đại diện thương mại ngày nay. Rất nhiều quốc gia trên thế giới đã đi theo xu hướng này trong đó có Thụy Điển, Na uy, Đan Mạch năm 1914, Áo năm 1921, Hà Lan năm 1936, 9 Italy năm 1942, Thụy Sỹ năm 1944…Sau khi ra đời, các quy định về “đại lý thương mại” đã đòi hỏi phải được sửa đổi vì không xác định rõ ràng được địa vị pháp lý của người đại lý với các quan hệ pháp lý gần gũi với nó như người giúp việc thương mại hoặc đại diện thương mại với tính chất giống như người làm công…Vì vậy, hầu hết các quy định về đại lý thương mại đã được sửa đổi ở Châu Âu và chế định đại diện thương mại ra đời [22, tr.112]. Ở một nghiên cứu khác, TS. Nguyễn Thị Vân Anh cho rằng khó có thể tìm thấy một định nghĩa chính thức về hoạt động trung gian thương mại nói chung cũng như khái niệm đại lý thương mại nói riêng trong pháp luật nước ngoài [2, tr.5]. Căn cứ vào pháp luật thực định của các nước theo truyền thống luật Châu Âu lục địa (điển hình là Cộng hòa Pháp và Cộng hòa liên bang Đức) cho thấy, các nước này có quy định tương đối cụ thể về những loại người trung gian chuyên nghiệp với chức năng giúp đỡ, tạo điều kiện để các bên thiết lập giao dịch thương mại với nhau. Luật thương mại của nước Cộng hòa Pháp năm 2005 quy định về 03 loại người hành nghề dịch vụ trung gian thương mại chuyên nghiệp là: người môi giới, người nhận ủy thác và đại diện thương mại. Điều L132-1 quyển 1 Bộ luật thương mại Pháp quy định người nhận ủy thác là người hành động với danh nghĩa của mình hoặc công ty mình vì lợi ích của người ủy thác. Điều L134 quy định người đại diện thương mại là bên được ủy quyền và chịu trách nhiệm tiến hành thường xuyên với tính chất hoạt động nghề nghiệp độc lập và không bị ràng buộc bởi một hợp đồng dịch vụ, các hoạt động đàm phán và nếu có thể, giao kết hợp đồng mua bán, thuê hoặc cung ứng dịch vụ với danh nghĩa và vì lợi ích của người sản xuất, người hoạt động công nghiệp, thương nhân hoặc các đại lý thương mại khác. Đại diện thương mại có thể là thể nhân hoặc pháp nhân. Đối với các nước cùng theo hệ thống pháp luật này như Bỉ, Nhật Bản, Thái Lan đều có những quy định tương tự về người đại diện ủy quyền, người môi giới và người nhận ủy thác 10 hoa hồng. Bộ luật dân sự của Liên Bang Nga (phần 2 ban hành năm 1995) có nhiều quy định về người đại diện thương mại, người nhận ủy thác thương mại và đại lý. Khác với cá nước theo hệ thống luật Châu Âu lục địa, các nước Anh, Mỹ, Australia theo truyền thống thông luật (Common law) không có sự phân biệt rõ rệt từng loại người trung gian trong hoạt động thương mại. Luật Anh – Mĩ gọi những người này là “agency” [19, 24]. Theo đó, hoạt động agency được hiểu là việc một người (thụ ủy) tiến hành các hoạt động thương mại (trong phạm vi ủy quyền) nhân danh người giao đại diện/đại lý (chủ ủy) hay nhân danh chính mình, vì lợi ích của người giao đại điện, thông qua thỏa thuận (agreement), được tạo ra và xác định bởi các nghĩa vụ (obligations) giữa các bên [32, 2.-1]. Từ “agency” trong tiếng Anh, Mỹ có nhiều nghĩa nhưng trong lĩnh vực hoạt động trung gian có thể dịch ra Tiếng Việt là đại lý hoặc đại diện để chỉ một người thay mặt cho một người khác (the principal) giao dịch với bên thứ ba. Như vậy, pháp luật các nước theo hệ thống thông luật không có sự tách bạch giữa đại lý và đại diện thương mại. Tất cả các hoạt động ủy quyền thương mại thông qua bên trung gian được xác định là hoạt động đại diện. Lý giải cho điều này, có thể thấy các nước theo hệ thống Common law coi các hoạt động thương mại qua trung gian mang bản chất của đại diện, thay mặt và vì lợi ích của bên giao đại diện. Hai giáo sư Konrad Zweigert và Hein Koetz khi tìm hiểu về luật so sánh cũng đã giải thích rằng Luật La Mã không có khái niệm về đại diện hoàn hảo (agency) như ở các nước theo truyền thống thông luật. Sau này, vào thế kỷ XVIII vấn đề đại diện được thúc đẩy ở Châu Âu lục địa bởi các luật gia theo trường phái luật tự nhiên trong bối cảnh thương mại phát triển với sự xuất hiện các vấn đề như giao một con tàu cho thuyền trưởng điều khiển và quản lý, hay cho hoạt động kinh doanh thông qua sự điều hành 11 của một người khác [29, tr.432]. Bên cạnh đó, chỉ thị số 86/653/EEC ngày 18/12/2986 của Hội đồng Châu Âu nhằm hài hòa hóa luật của các nước thành viên về người đại diện thương mại để áp dụng chung cho toàn khối EEC đã quy định [24, tr.83]: commercial agent (đại diện thương mại) là người trung gian độc lập, được ủy quyền để giao dịch mua hoặc bán hàng hóa thay mặt một người hoặc để giao dịch và ký kết hợp đồng thay mặt và nhân danh bên ủy quyền (principal). So với pháp luật của nhiều nước trong việc xác định các hình thức hoạt động trung gian thương mại, pháp luật Việt Nam ngoài việc quy định ba hình thức hoạt động trung gian thương mại là đại diện, ủy thác và môi giới, Luật thương mại 2005 của Việt Nam còn quy định thêm một hình thức là đại lý thương mại. Điều này đồng nghĩa với việc khó để tìm thấy khái niệm tương ứng và chuẩn xác về loại hình đại lý thương mại của pháp luật Việt Nam trên thế giới. Khi dịch ra tiếng Anh, mặc dù mang bản chất khác hoàn toàn với hoạt động agency (đại diện thương mại theo luật của các nước nhân danh bên giao đại diện để quan hệ với bên thứ ba trong phạm vi ủy quyền, còn bên đại lý nhân danh chính mình để quan hệ với bên thứ ba theo yêu cầu của bên giao đại lý) nhưng thuật ngữ đại lý thương mại vẫn được dịch là commercial agency. Do đó, khi nghiên cứu các khía cạnh pháp lý liên quan đến đại lý thương mại và hợp đồng đại lý (HĐĐL) ở luận văn này, chúng tôi đề cập tới khái niệm và bản chất pháp lý của đại lý thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam trong tương quan so sánh với các hình thức đại diện nói chung và đặc biệt là đại diện thương mại (agency) và ủy thác thương mại. Ở Việt Nam, khái niệm hoạt động trung gian thương mại được hiểu là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương 12 nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại” (Khoản 11 Điều 3 Luật thương mại 2005). Như vậy, với tính chất là một loại hình hoạt động trung gian thương mại, khái niệm “đại lý thương mại” được ghi nhận tại Điều 166 Luật thương mại 2005 như sau: “Đại lý thương mại là hoạt động thương mại theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao”. Định nghĩa đại lý thương mại theo Luật thương mại 2005 đã thể hiện rõ đại lý thương mại là hoạt động dịch vụ thương mại dưới hình thức thuê và nhận làm dịch vụ mua bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ trong đó bên giao đại lý là bên có nhu cầu mua bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ nhưng không trực tiếp thực hiện công việc này mà giao cho một bên khác (bên đại lý) thay mặt mình mua bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ hộ mình. Đại lý thương mại là khái niệm có ngoại diên bao gồm nhiều đại lý trong nhiều lĩnh vực như đại lý mua bán hàng hoá, đại lý cung ứng các loại dịch vụ bảo hiểm, quảng cáo, du lịch, vận tải, bưu chính, viễn thông…do vậy, tại các luật chuyên ngành có những định nghĩa khác nhau về khái niệm đại lý, ví dụ: Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định: “Đại lý bảo hiểm là tổ chức, cá nhân được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền trên cơ sở lập hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. Bộ Luật Hàng hải Việt Nam định nghĩa đại lý tàu biển là dịch vụ mà người đại lý tàu biển nhân danh chủ tàu hoặc người khai thác tàu tiến hành các dịch vụ liên quan đến tàu biển hoạt động tải cảng. Qua khái niệm của Luật, có thể thấy khi thực hiện hoạt động, bên đại lý là chủ thể trung gian nhân danh chính mình để mua bán hàng hoá hoặc cung 13 ứng dịch vụ với bên thứ ba, vì lợi ích của bên giao đại lý và được hưởng thù lao. Do đó, trong hoạt động đại lý thương mại tồn tại hai nhóm quan hệ: quan hệ giữa bên giao đại lý và bên đại lý; quan hệ giữa bên đại lý và bên thứ ba. Theo quy định của Luật thương mại 2005, đại lý thương mại có phạm vi hoạt động rất rộng, bao gồm hoạt động đại lý được thực hiện trong nhiều lĩnh vực hoạt động thương mại đó là: mua bán hàng hoá cho bên giao đại lý và các hoạt động đại lý cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho bên thứ ba như đại lý bảo hiểm, đại lý du lịch lữ hành…Như vậy, Luật thương mại 2005 đã mở rộng phạm vi hoạt động đại lý chứ không bó hẹp ở hoạt động đại lý mua bán hàng hoá như quy định tại Luật thương mại 1997. Mặt khác, phạm vi của hoạt động đại lý mua bán hàng hoá được mở rộng hơn so với Luật thương mại 1997, bởi khái niệm hàng hoá trong Luật thương mại 2005 cũng đã mở rộng, theo đó đại lý mua bán hàng hoá không chỉ giới hạn ở hoạt động đại lý mua bán máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hàng tiêu dùng, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua, bán, mà bao gồm hoạt động đại lý mua bán các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai. Nguyên nhân của sự thay đổi này bắt nguồn từ sự chuyển biến của nền kinh tế đất nước ta sang nền kinh tế thị trường từ sau Đại hổi Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Luật thương mại 1997 ra đời quy định cơ bản về hoạt động đại ý và một số hoạt động trung gian thương mại khác, tuy nhiên sau hơn 7 năm thi hành Luật thương mại 1997 đã bộc lộ nhiều bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung để tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của thương mại trong nước bắt nhịp cùng thương mại quốc tế. Đại lý cung cấp dịch vụ là trung gian thương mại dịch vụ, theo đó một thương nhân nhân danh chính mình để cung cấp dịch vụ cho nhà cung cấp dịch vụ đến với khách hàng. Đây là hành vi trung gian rất phổ biến trong thương mại dịch vụ, được xem như cánh tay nối dài của nhà cung cấp dịch vụ 14 đến cho khách hàng. Với tính chất của dịch vụ là vô hình, không lưu kho bãi, quá trình cung cấp dịch vụ diễn ra đồng thời, nên đại lý trong thương mại dịch vụ là trung gian giúp nhà cấp dịch vụ cung ứng dịch vụ cho người sử dụng dịch vụ, điều này khác với đại lý trong thương mại hàng hóa luôn gồm đại lý mua hàng và đại lý bán hàng. Đại lý bảo hiểm, đại lý du lịch lữ hành, địa lý dịch vụ bưu chính, đại lý dịch vụ viễn thông, đại lý làm thủ tục hải quan, đại lý xăng dầu, đại lý sổ xố…Ứng với mỗi loại hình dịch vụ, pháp luật chuyên ngành quy định khác nhau về cách thức thực hiện hành vi đại lý cung cấp dịch vụ [20]. Đặc điểm khác biệt giữa đại lý mua bán hàng hóa và đại lý cung cấp dịch vụ sẽ được phân tích rõ hơn trong mối quan hệ pháp lý giữa bên giao đại lý và bên đại lý; quan hệ giữa bên đại lý và bên thứ ba ở mục 2 của Chương này. Tiểu kết Thương mại hàng hóa và dịch vụ càng phát triển, vai trò của trung gian thương mại càng được coi trọng vì nó hỗ trợ đắc lực cho thương nhân trong khâu phân phối, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ được nhanh chóng, ít rủi ro, chi phí thấp và dễ dàng gia nhập hoặc từ bỏ thị trường. Đại lý, đại diện hay ủy thác được quy định khác nhau ở mỗi nước tuy nhiên hầu hết pháp luật các nước đều thừa nhận về bản chất, chúng đều là hành vi thương mại được thực hiện qua trung gian. Theo đó, người thụ ủy thực hiện công việc mua bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ vì lợi ích của bên chủ ủy để nhận thù lao theo thỏa thuận. Mang bản chất của hoạt động trung gian nhưng đặt chúng trong mối liên hệ giữa người chủ ủy và người thụ ủy, giữa người thụ ủy và bên thứ ba cho thấy, các loại hình trung gian thương mại này không đồng nhất. Là một dạng hoạt động trung gian thương mại nhưng khái niệm đại lý thương mại ở Việt Nam có sự khác biệt và đặc thù so với các hình thức trung gian thương 15 mại trong pháp luật các nước. Vì vậy, để có cái nhìn toàn diện, luận văn sẽ nghiên cứu cụ thể các đặc điểm của đại lý thương mại. 1.1.2 Một số đặc điểm của đại lý thƣơng mại 1.1.2.1 Đặc điểm Là một loại hình hoạt động trung gian thương mại theo luật thương mại của Việt Nam, do đó đại lý thương mại trước hết mang những đặc điểm chung của trung gian thương mại. Nói đến đặc điểm của đại lý thương mại, ta sẽ xem xét đặc điểm pháp lý của trung gian thương mại. Chế định trung gian thương mại ở các nước không hoàn toàn giống nhau do sự khác biệt về điều kiện kinh tế, chính trị và truyền thống lập pháp. Ở Việt Nam, Luật thương mại 2005 đưa ra định nghĩa về hoạt động trung gian thương mại, đó là cơ sở pháp lý để xác định các hoạt động đại diện chi thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại. Căn cứ định nghĩa tại Luật và các điều khoản quy định về từng loại hoạt động trung gian thương mại (chương V Luật thương mại 2005) thì có thể rút ra những đặc điểm tương đồng của hoạt động trung gian thương mại theo pháp luật Việt Nam và các nước như sau: *Hoạt động trung gian thương mại là loại hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại, người trung gian được bên thuê dịch vụ trao quyền tham gia vào việc xác lập, thực hiện giao dịch thương mại với bên thứ ba vì lợi ích của bên thuê dịch vụ để hưởng thù lao [2, tr.9]. Hoạt động trung gian thương mại trước hết có nội hàm là hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại. Bên thuê dịch vụ là bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ và phải có nghĩa vụ trả thù lao cho bên thực hiện dịch vụ còn bên cung ứng dịch vụ (bên trung gian) là bên có nghĩa vụ thực hiện một số công việc cho bên thuê dịch vụ và được nhận thù lao. Qua đó ta thấy sự khác biệt giữa cung ứng dịch vụ trong dân sự và hoạt động trung gian thương mại là ở chỗ, trong dân sự, việc trả thù lao thực hiện 16 dịch vụ không phải là nghĩa vụ bắt buộc đối với bên thuê dịch vụ trừ trường hợp các bên có thỏa thuận tại hợp đồng. Tuy nhiên, các hoạt động trung gian thương mại có điểm khác biệt so với các hoạt động cung ứng dịch vụ khác ở phương thức thực hiện. Các hoạt động cung ứng dịch vụ theo phương thức giao dịch trực tiếp, tức là chỉ cần có sự tham gia của hai bên. Các bên tham gia quan hệ trực tiếp giao dịch với nhau, bàn bạc thỏa thuận nội dung giao dịch. Trong hoạt động dịch vụ trung gian thương mại có sự tham gia của ba bên, trong đó bên trung gian nhận sự ủy nhiệm của bên thuê dịch vụ để quan hệ với bên thứ ba [24, tr.78]. Điều này có nghĩa là bên trung gian làm cầu nối giữa bên thuê dịch vụ và bên thứ ba. Trong các hoạt động dịch vụ trung gian thương mại này, bên được thuê làm dịch vụ là người trung gian nhận sự ủy nhiệm của bên thuê dịch vụ và có thể thay mặt bên thuê dịch vụ thực hiện các hoạt động thương mại với bên (hoặc các bên) thứ ba. Khi giao dịch với bên thứ ba, thương nhân trung gian có thể sử dụng danh nghĩa của mình hoặc danh nghĩa của bên thuê dịch vụ, tùy theo loại hình dịch vụ mà họ cung ứng. Theo quy định của Luật thương mại năm 2005, trong trường hợp thực hiện dịch vụ đại lý thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa hoặc môi giới thương mại, thương nhân trung gian sử dụng danh nghĩa của chính mình khi giao dịch với bên thứ ba. Trong các hoạt động trung gian thương mại, bên thuê dịch vụ sẽ yêu cầu bên thực hiện dịch vụ thay mặt mình hoặc giúp mình quan hệ với bên thứ ba để mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại. Do đó, bên trung gian sẽ có nhiệm vụ tìm hiểu thị trường, tìm hiểu đối tác, đàm phán giao dịch với bên thứ ba để thực hiện việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho bên chủ ủy (bên thuê dịch vụ) theo yêu cầu của họ. Hoạt động dịch vụ trung gian thương mại khác với các hoạt động dịch vụ có liên quan đến bên thứ ba như: Dịch vụ vận tải, dịch vụ giao nhận hàng hóa…ở chỗ những dịch vụ này được thực 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan