Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Pháp luật việt nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện...

Tài liệu Pháp luật việt nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện

.PDF
49
1
58

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH TRẦN KIỀU THU PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Định hướng ứng dụng Mã số: 8380103 Người hướng dẫn khoa học : Pgs.Ts. Trần Hoàng Hải Học viên Lớp : Trần Kiều Thu : Cao học luật Cần Thơ Khóa 2 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện” là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của Pgs.Ts. Trần Hoàng Hải. Các số liệu, thông tin được đề cập trong luận văn là trung thực, các dữ liệu, luận điểm đều được trích dẫn đầy đủ theo đúng quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam đoan này. Tác giả luận văn Trần Kiều Thu DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TỪ VIẾT TẮT TỪ ĐẦY ĐỦ ASXH An sinh xã hội BHXH Bảo hiểm xã hội BHXHTN Bảo hiểm xã hội tự nguyện NLĐ Người lao động NSDLĐ Người sử dụng lao động MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................1 CHƯƠNG 1. ĐỐI TƯỢNG THAM GIA VÀ ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN .....................................................................................................................7 1.1. Quy định pháp luật về đối tượng tham gia, đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện .....................................................................................................................7 1.1.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện .........................................7 1.1.2. Phương thức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện ...........................................8 1.1.3. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện .........................................................8 1.2. Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về đối tượng tham gia và đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện ..................................................................................10 1.3. Một số đề xuất, kiến nghị và các giải pháp khuyến khích các đối tượng tham gia và đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện ...................................................12 1.3.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ... ..............................................................................................................................12 1.3.2. Các giải pháp khuyến khích các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ..................................................................................................................14 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .........................................................................................20 CHƯƠNG 2. QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VÀ VIỆC QUẢN LÝ QUỸ............................................................................................................................21 2.1. Quy định pháp luật về quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện và việc quản lý quỹ..........................................................................................................................21 2.2. Thực tiễn thực hiện quy định về quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện và việc quản lý quỹ............................................................................................................23 2.2.1. Một số kết quả đạt được ............................................................................23 2.2.2. Những hạn chế, bất cập .............................................................................25 2.3. Một số đề xuất, kiến nghị .............................................................................27 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .........................................................................................29 CHƯƠNG 3. CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN ....................30 3.1. Quy định pháp luật về các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ................30 3.1.1. Chế độ hưu trí ............................................................................................30 3.1.2. Chế độ tử tuất ............................................................................................32 3.2. Thực tiễn thi hành các quy định về các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ...................................................................................................................33 3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ...................................................................................................................35 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .........................................................................................39 KẾT LUẬN ...............................................................................................................40 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài BHXH là một chính sách ASXH rất quan trọng, giúp bảo vệ thu nhập cũng như cuộc sống của bản thân và gia đình người lao động, giúp họ hạn chế những khó khăn về kinh tế - xã hội khi ốm đau, rủi ro, khi lao động cũng như khi không lao động. Chính vì vậy, trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và từng bước hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới thì hệ thống ASXH, nhất là BHXH phải được phát triển và hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của NLĐ, của nhân dân, đây là một trong những nhu cầu rất cơ bản của con người. Bảo đảm ASXH, trước hết là về BHXH là một trong những mục tiêu rất quan trọng, thể hiện tính ưu việt của xã hội văn minh, phù hợp với xu thế chung của cộng đồng quốc tế hướng tới một xã hội phồn vinh, công bằng và an toàn. Mặt khác, mức độ đảm bảo quyền an sinh là một tiêu chí quan trọng đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia, dân tộc. Ở Việt Nam, BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội. BHXHTN là loại hình BHXH mà NLĐ tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm1. Luật BHXH ra đời có hiệu lực từ năm 2007. Riêng chính sách BHXH tự nguyện được áp dụng từ năm 2008. Đây là luật đầu tiên ở Việt Nam đã thể chế hóa ở mức cao một nhu cầu rất cơ bản về ASXH của con người (bao gồm BHXH bắt buộc, BHXHTN, bảo hiểm thất nghiệp), trong đó BHXHTN là chính sách an sinh áp dụng cho đối tượng là NLĐ không thuộc phạm vi tham gia BHXH bắt buộc. Đến ngày 20/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật BHXH số 58/2014/QH13 để sửa đổi bổ sung Luật BHXH năm 2006 quy định về chính sách BHXH bắt buộc và BHXHTN, có hiệu lực từ ngày 01/01/2016. Theo đó, chính sách BHXHTN đã mở rộng về đối tượng tham gia, phương thức đóng, mức đóng và chế độ hưởng nhằm mở rộng, nâng cao quyền tham gia, thụ hưởng chính sách cho đông đảo nhân dân lao động vì mục tiêu an sinh cho mọi NLĐ khi về già. Bên cạnh đó, đồng hành cùng với NLĐ, từ ngày 01/01/2018, Nhà nước sẽ hỗ trợ tiền đóng cho người tham gia BHXHTN theo tỷ lệ phần trăm (%) tháng đóng theo mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn. 1 Điều 3 Luật BHXH năm 2014. 2 Qua 12 năm thực hiện (2008-2020), thực tế cho thấy chính sách BHXHTN đã đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của đông đảo của NLĐ, đặc biệt là đối với những NLĐ đã tham gia đóng BHXH bắt buộc đến tuổi nghỉ hưu (nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi) mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH bắt buộc được tham gia đóng BHXHTN để đủ 20 năm hưởng chế độ hưu trí. Tuy nhiên, chính sách BHXHTN này cũng chưa thực sự thu hút được sự tham gia của người dân, theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2020, số người tham gia BHXHTN đạt khoảng hơn 1 triệu người, đây là con số rất khiêm tốn so với 35 triệu lao động phi chính thức hiện đang là đối tượng tham gia BHXHTN theo quy định pháp luật. Điều này cho thấy cần phải có những sự điều chỉnh để chính sách này hấp dẫn và phù hợp với với NLĐ đặc biệt trong các khu vực phi chính thức. Xuất phát từ thực tiễn trên, tác giả nhận thấy cần thiết phải có một công trình nghiên cứu cơ bản, toàn diện về chính sách BHXHTN. Vì vậy, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện” để làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ. Tác giả mong muốn luận văn này sẽ là công trình nghiên cứu khoa học có giá trị tham khảo nhất định trong việc hoàn thiện quy định pháp luật về BHXHTN và được đưa vào áp dụng trong thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Pháp luật về BHXHTN là đề tài được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như: Về các sách chuyên khảo: Trần Hoàng Hải, Lê Thị Thuý Hương (2011), Pháp luật an sinh xã hội – kinh nghiệm của một số nước đối với Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách là một tài liệu tham khảo nghiên cứu hữu ích về pháp luật ASXH nói chung và pháp luật về BHXHTN nói riêng. Đặc biệt, các tác giả còn phân tích về những kinh nghiệm của một số nước quy định về pháp luật an sinh xã hội và đưa ra những bài học kinh nghiệm cho pháp luật Việt Nam. Lê Thị Thuý Hương (2017), Pháp luật về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp: Cẩm nang tra cứu, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật. Trong cuốn sách này, tác giả đã phân tích, chỉ dẫn, hướng dẫn tra cứu các quy định pháp luật về BHXH của Việt Nam giúp cho người đọc nắm bắt được các quy định tương ứng về các vấn đề có liên quan trong đó có quy định về BHXHTN. 3 Về các luận án, luận văn: Nguyễn Sỹ Đức (2014), Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Tp. HCM năm 2014. Luận văn đã nêu được cơ sở lý luận về BHXHTN (Khái niệm, vai trò, bản chất và nguyên tắc của bảo hiểm xã hội tự nguyện). Thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện giai đoạn đến năm 2014. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện pháp luật BHXHTN và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về BHXHTN. Tuy nhiên, vì đề tài công bố năm 2014, do đó các quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng được tác giả phân tích chủ yếu là Luật BHXH năm 2006 và các văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành. Đến nay, đã có Luật BHXH sửa đổi năm 2014, do vậy, nhiều phân tích có phần đã lỗi thời, một số đề xuất góp ý hoặc đã được tiếp thu, sửa đổi, hoặc đã không còn phù hợp. Phan Thị Liên (2012), Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân, Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh năm 2012. Luận văn cũng đã nêu được cơ sở lý luận về BHXHTN, thực trạng pháp luật về BHXHTN cho nông dân. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện pháp luật BHXHTN cho nông dân và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện. Tuy nhiên, vì chủ yếu tập trung nghiên cứu về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đặc thù đó là nông dân. Do đó, đề tài của tác giả Phan Thị Liên chưa nghiên cứu được một cách toàn diện về bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với người lao động. Mặt khác, những nghiên cứu này cũng được thực hiện từ năm 2012, do vậy, những phân tích pháp luật chưa cập nhật, một số kiến nghị còn chưa chính xác và thiếu tính khả thi, hoặc không còn phù hợp trong tình hình hiện nay. Về các bài viết trên các tạp chí, diễn đàn khoa học pháp lý: Nguyễn Thị Quỳnh Anh (2021), “Mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội tự nguyện đối với khu vực phi chính thức tại Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, số tháng 6/2021 kỳ 1. Trong phạm vi một bài viết ngắn trên tạp chí, bài viết khái quát hoá về tình hình tham gia BHXH tự nguyện hiện nay và đưa ra một số hướng đề xuất đối với việc mở rộng diện bao phủ của BHXH tự nguyện đối với khu vực phi chính thức. Hồng Dương (2021), “Phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện: Hiệu quả từ công tác tuyên truyền”, Tạp chí Lao động và xã hội, số 645. Bài viết này bàn chủ 4 yếu về vai trò và những hiệu quả mà công tác tuyên truyền đã đem lại cho việc phát triển của bảo hiểm xã hội tự nguyện. Lê Thị Hồng Quyên (2020), “Một số kinh nghiệm phát triển và quản lý đối tượng tham gia BHXH tự nguyện”, Tạp chí Lao động và xã hội, số 622. Bài viết này chủ yếu tập trung ở việc phát triển và quản lý đối tượng tham gia BHXH tự nguyện. Bài viết có đề cập đến việc tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia khác. Nguyễn Vân Trang (2019), “Thực tiễn BHXH tự nguyện ở Việt Nam và một số kiến nghị”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 8 (329). Trong bài viết này, tác giả nêu lên thực tiễn BHXH tự nguyện hiện nay ở nước ta và cũng đưa ra một số kiến nghị mang tính gợi mở. Ngọc Minh Châu (2018), “Đề xuất hoàn thiện chính sách, pháp luật về BHXH tự nguyện phù hợp với tình hình mới”, Tạp chí Lao động và xã hội, số 568 + 569. Bài viết này tác giả tập trung vào việc đưa ra một số đề xuất về mặt chính sách và pháp luật để BHXH tự nguyện phù hợp hơn trong điều kiện mới. Bùi Huy Nam (2018), “Pháp luật hiện hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện và kết quả thực hiện ở Việt Nam”, Tạp chí Lao động và xã hội, số 585. Bài viết này tác giả nêu lên các quy định về BHXH tự nguyện hiện nay ở nước ta và một số kết quả thực hiện được. Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2017), “Bảo hiểm xã hội tự nguyện và yêu cầu mở rộng đối tượng tham gia”, Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 254. Bài viết này tác giả tập trung chủ yếu về đối tượng tham gia BHXH tự nguyện và một số gợi mở cho việc mở rộng về đối tượng tham gia. Như vậy, các công trình nghiên cứu, các bài viết trên đã góp phần đưa ra được những cơ sở lý luận nền tảng liên quan đến BHXH tự nguyện, có một số bài viết đã điểm qua được về thực trạng pháp luật hiện nay, thực tiễn áp dụng pháp luật hiện nay, đồng thời có một số gợi mở về các đề xuất, kiến nghị, giải pháp … Tuy nhiên, đây chủ yếu là dưới dạng các bài viết ngắn, mang tính gợi mở, chưa thật sự toàn diện, và sâu sắc đối với các quy định pháp luật hiện nay về BHXH tự nguyện. Do vậy, trong đề tài này, tác giả sẽ kế thừa một số kiến thức, kết quả nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, tác giả sẽ đi sâu vào việc nghiên cứu đối tượng là bảo hiểm xã hội tự nguyện dưới góc độ pháp lý và thực tiễn áp dụng trong giai đoạn hiện nay. Đề tài mà tác giả lựa chọn là một vấn đề hẹp, mang tính chuyên sâu trong toàn bộ 5 những vấn đề liên quan đến bảo hiểm xã hội, cụ thể là bảo hiểm xã hội tự nguyện. Vì vậy, dưới hình thức luận văn thạc sĩ định hướng ứng dụng, việc chọn đề tài của tác giả sẽ có những ý nghĩa riêng biệt. 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài Thực hiện đề tài “Pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội tự nguyện” tác giả không chỉ khái quát được về thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về BHXHTN hiện nay mà còn hướng đến nghiên cứu và đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật và cơ chế pháp lý về BHXHTN. Qua đó, góp phần nâng cao vai trò, và phát huy hiệu quả, ý nghĩa thực sự của BHXHTN. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu Về giới hạn phạm vi nghiên cứu: Tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay (chủ yếu tập trung từ 2015 đến nay và tập trung vào các quy định của Luật BHXH năm 2014 và các văn bản huớng dẫn chi tiết thi hành luật này). Cụ thể như đi sâu vào nghiên cứu những vấn đề pháp lý về đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội tự nguyện, các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện, quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện… Khi nghiên cứu về bảo hiểm xã hội tự nguyện, tác giả đặt dưới góc độ đặc thù của loại bảo hiểm xã hội này và trong mối liên hệ với bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tác giả nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện và hệ thống pháp lý điều chỉnh. Về phương pháp nghiên cứu: Đề tài được xây dựng trên nền tảng chung khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin; nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả phối hợp hợp lý các phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản, chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phối hợp với phương pháp so sánh đối chiếu để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu. Cụ thể như sau: + Phương pháp phân tích, diễn dịch đối với các vấn đề về: cơ sở lý luận; các quy định pháp luật cụ thể về chế độ BHXH tự nguyện, các quy định về chế độ hưu trí, tử tuất. 6 + Phương pháp quy nạp, tổng hợp được áp dụng trong việc hệ thống hoá các quy định pháp luật, hệ thống các quan điểm, ý kiến, hay nhận xét, đánh giá về các quy định pháp luật, các số liệu thống kê, báo cáo về việc giải quyết chế độ BHXH tự nguyện, thực tiễn áp dụng pháp luật. + Phương pháp so sánh, đối chiếu, đặc biệt là tham khảo thêm các quan điểm, cách giải quyết, các giải pháp phù hợp để hoàn thiện các quy định pháp luật hiện nay về thực hiện chế độ BHXH tự nguyện, bổ sung thêm chế độ thai sản và điều chỉnh một số quy định hiện hành nhằm đảm bảo chế độ BHXH tự nguyện thực sự đáp ứng được tính khả thi và ngày càng hoàn thiện hơn. 5. Ý nghĩa của đề tài Kết quả nghiên cứu của luận văn này sẽ là một nguồn tài liệu tham khảo có giá trị đối với những học giả, nhà nghiên cứu pháp lý. Những nội dung được nghiên cứu, đặc biệt là những đề xuất, kiến nghị mà tác giả đề cập trong luận văn nhằm hướng đến việc đóng góp ý kiến cho việc sửa đổi và hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới. 6. Kết cấu, bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có ba chương gồm: Chương 1. Đối tượng tham gia và đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện Chương 2. Quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện và quản lý quỹ Chương 3. Các chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện 7 CHƯƠNG 1 ĐỐI TƯỢNG THAM GIA VÀ ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN 1.1. Quy định pháp luật về đối tượng tham gia, đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện 1.1.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại Khoản 4 Điều 2 của Luật BHXH năm 2014, bao gồm2:  Người lao động làm việc theo HĐLĐ có thời hạn dưới 03 tháng trước ngày 01/01/2018; người lao động làm việc theo HĐLĐ có thời hạn dưới 01 tháng từ ngày 01/01/2018 trở đi;  Người hoạt động không chuyên trách ở thôn, ấp, bản, sóc, làng, tổ dân phố, khu, khu phố;  Người lao động giúp việc gia đình;  Người tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không hưởng tiền lương;  Xã viên không hưởng tiền lương, tiền công làm việc trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã;  Người nông dân, người lao động tự tạo việc làm bao gồm những người tự tổ chức hoạt động lao động để có thu nhập cho bản thân và gia đình;  Người lao động đã đủ điều kiện về tuổi đời nhưng chưa đủ điều kiện về thời gian đóng để hưởng lương hưu theo quy định của pháp luật về BHXH;  Người tham gia khác. Qua quy định trên, có thể thấy rằng, khác với BHXH bắt buộc, đối tượng chủ yếu mà BHXHTN hướng tới là những người lao động không tham gia QHLĐ như: xã viên hợp tác xã, người buôn bán tự do, hành nghề tự do…3 Điều này xuất phát từ bản chất của BHXHTN là loại hình BHXH mà trong đó NLĐ có quyền tự quyết Điều 8 Quyết định 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017, được sửa đổi bổ sung bởi Quyết định số 888/QĐ-BHXH ngày 16/7/2018 và Quyết định số 505/QĐ-BHXH ngày 27/3/2020 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. 3 Lê Thị Hoài Thu (2019), Giáo trình Pháp luật An sinh xã hội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 111. 2 8 định tham gia bảo hiểm trên tinh thần tự nguyện, NLĐ cân nhắc để lựa chọn cho phù hợp với khả năng và nguyện vọng của mình. 1.1.2. Phương thức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện Hiện nay, theo quy định tại khoản 2 Điều 87 Luật BHXH năm 2014, người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được lựa chọn linh hoạt các phương thức đóng:  Hàng tháng;  03 tháng một lần;  06 tháng một lần;  12 tháng một lần. Đặc biệt người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được đóng một lần cho nhiều năm về sau (nhưng không quá 05 năm một lần) hoặc đóng một lần cho những năm còn thiếu đối với người tham gia BHXH đã đủ điều kiện về tuổi để hưởng lương hưu theo quy định nhưng thời gian đóng BHXH còn thiếu không quá 10 năm (120 tháng tham gia BHXH) thì được đóng cho đủ 20 năm để hưởng lương hưu. Điều này có nghĩa rằng, trường hợp người tham gia BHXH đã đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định (nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi) mà thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội còn thiếu không quá 10 năm, có nguyện vọng tiếp tục đóng BHXHTN để hưởng lương hưu, thì được đóng một lần cho thời gian còn thiếu và thời điểm hưởng lương hưu được tính từ tháng liền kề sau tháng đóng đủ số tiền cho những năm còn thiếu. Đây là điểm mở rộng của quy định tại Luật BHXH năm 2014 so với các quy định trước đây. 1.1.3. Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện Mức đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện theo Khoản 1 Điều 87 của Luật BHXH năm 2014 và theo phương thức đóng được quy định như sau: Mức đóng hằng tháng bằng 22% mức thu nhập tháng do người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện lựa chọn. Mức thu nhập tháng do người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện lựa chọn thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn theo quy định của Thủ tướng Chính phủ và cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở tại thời điểm đóng. Mức đóng 03 tháng hoặc 06 tháng hoặc 12 tháng một lần được xác định bằng mức đóng hàng tháng theo quy định trên nhân với 3 đối với phương thức đóng 03 9 tháng; nhân với 6 đối với phương thức đóng 06 tháng; nhân với 12 đối với phương thức đóng 12 tháng một lần. Mức đóng một lần cho nhiều năm về sau theo quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều 9 Nghị định số 134/2015/NĐ-CP này được tính bằng tổng mức đóng của các tháng đóng trước, trường hợp có nguyện vọng đóng bù cho số tháng chậm đóng trước đó thì số tiền đóng bù được tính bằng tổng mức đóng của các tháng chậm đóng, áp dụng lãi gộp bằng lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân tháng do Bảo hiểm xã hội Việt Nam công bố của năm trước liền kề với năm đóng. Mức đóng một lần cho những năm còn thiếu theo quy định tại Điểm e Khoản 1 Điều 9 Nghị định 134/2015/NĐ-CP này được tính bằng tổng mức đóng của các tháng còn thiếu, áp dụng lãi gộp bằng lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân tháng do Bảo hiểm xã hội Việt Nam công bố của năm trước liền kề với năm đóng. Trường hợp người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đã đóng theo phương thức đóng 03 tháng hoặc 06 tháng hoặc 12 tháng một lần hoặc đóng một lần cho nhiều năm về sau theo quy định tại Khoản 2 và 3 Điều này mà trong thời gian đó Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh mức chuẩn hộ nghèo của khu vực nông thôn thì không phải điều chỉnh mức chênh lệch số tiền đã đóng.\ Trường hợp người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện đã đóng theo phương thức đóng 03 tháng hoặc 06 tháng hoặc 12 tháng một lần hoặc đóng một lần cho nhiều năm về sau theo quy định tại các Điểm b, c, d và đ Khoản 1 Điều 9 Nghị định này mà trong thời gian đó thuộc một trong các trường hợp sau đây sẽ được hoàn trả một phần số tiền đã đóng trước đó:  Dừng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện và chuyển sang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc;  Hưởng bảo hiểm xã hội một lần theo quy định tại Điều 7 Nghị định này;  Bị chết hoặc Tòa án tuyên bố là đã chết.  Số tiền hoàn trả cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện trong trường hợp quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản 1 Điều 9 Nghị dịnh 134/2015/NĐ-CP hoặc hoàn trả cho thân nhân người lao động trong trường hợp quy định tại Điểm c 1 Điều 9 Nghị dịnh 134/2015/NĐ-CP được tính bằng số tiền đã đóng tương ứng với thời gian còn lại so với thời gian đóng theo phương thức đóng nêu trên và không bao gồm tiền hỗ trợ đóng của Nhà nước (nếu có). 10 Căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, khả năng ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ để quy định mức hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ và thời điểm thực hiện chính sách hỗ trợ tiền đóng BHXH tự nguyện cho NLĐ. Cụ thể hiện nay, Nhà nước quy định mức hỗ trợ và đối tượng được hỗ trợ khi tham gia BHXH TN như sau: Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện được Nhà nước hỗ trợ tiền đóng theo tỷ lệ phần trăm (%) trên mức đóng bảo hiểm xã hội hằng tháng theo mức chu n hộ nghèo của khu vực nông thôn, cụ thể: • Bằng 30% đối với người tham gia BHXH TN thuộc hộ nghèo; • Bằng 25% đối với người tham gia BHXH TN thuộc hộ cận nghèo; • Bằng 10% đối với các đối tượng khác. Nhà nước khuyến khích các cơ quan, tổ chức và cá nhân hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội cho người tham gia BHXH TN. Căn cứ vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khả năng ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ, Chính phủ sẽ xem xét điều chỉnh mức hỗ trợ tiền đóng cho người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cho phù hợp. Thời gian hỗ trợ tuỳ thuộc vào thời gian tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện thực tế của mỗi người nhưng không quá 10 năm (120 tháng). Như vậy, có thể thấy so với các quy định trước đây, Luật BHXH năm 2014 đã có một số thay đổi linh hoạt như không khống chế tuổi trần tham gia BHXHTN, hạ mức thu nhập tối thiểu làm căn cứ đóng; linh hoạt về phương thức đóng, hỗ trợ tiền đóng cho người tham gia BHXHTN. Đây là những thay đổi góp phần hướng tới mục tiêu gia tăng độ bao phủ của BHXHTN. 1.2. Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về đối tượng tham gia và đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện theo quy định của pháp luật hiện nay là rất rộng. Vì vậy, cùng với BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện đã tạo nên một chính sách BHXH đảm bảo bao phủ gần như toàn bộ đối tượng là người lao động. Chính sách, pháp luật về đối tượng tham gia BHXH tự nguyện về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu của lực lượng lao động muốn tham gia BHXH. Tuy nhiên, trong thực tế việc áp dụng và triển khai thực hiện vẫn còn nhiều bất cập làm hạn chế khả năng tham gia của các đối tượng BHXH tự nguyện. 11 Về mặt số lượng, ngay từ khi chính sách BHXH tự nguyện bắt đầu được triển khai từ năm 2008 (theo quy định của Luật BHXH năm 2006) và đến nay qua hơn 12 năm thực hiện, số người tham gia BHXH tự nguyện đã tăng lên một cách đáng kể, từ trên 6 nghìn người vào năm 2008 lên đến 1,12 triệu người vào tháng 4/20224. Cụ thể qua các năm như sau: Năm 2015, số người tham gia BHXH tự nguyện là: 217.669 người, nhưng đến năm 2019, số người tham gia BHXH tự nguyện đã tăng: 573.943 người. Năm 2020, theo thống kê của BHXH Việt Nam, số người tham gia BHXH tự nguyện trên cả nước là: 1.068.000 người, tăng 494.057 người so với năm 2019. Tính đến hết năm 2020, số người tham gia BHXH tự nguyện đã đạt khoảng 2,2% lực lượng lao động trong độ tuổi là nông dân và lao động khu vực phi chính thức, so với năm 2015 (có 217.669 người tham gia) là tăng 850.331 người (gấp gần 04 lần)5. Tuy nhiên, để đánh giá tốc độ phát triển của đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, ngoài số lượng người tham gia BHXH tự nguyện tăng lên hằng năm, chúng ta phải đo lường được mức độ bao phủ của BHXH tự nguyện đó là tỷ lệ % của đối tượng thực tế tham gia BHXH tự nguyện so với số lượng lao động thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện và toàn bộ lực lượng lao động. Số lượng người tham gia BHXH cũng như tỷ lệ đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trong lực lượng lao động là sự phản ánh mức độ bao phủ của hệ thống BHXH tự nguyện và mức độ tham gia của người lao động đối với chính sách BHXH tự nguyện. Trên thực tế, tỷ lệ tham gia BHXH tự nguyện càng cao thì mức độ an toàn cho tuổi già hoặc khi gặp rủi ro khác càng cao (tức là ASXH càng cao). Mặt khác, mức độ bao phủ của BHXH tự nguyện cũng phản ánh sự tiến bộ xã hội của một quốc gia. Xu hướng chung là BHXH tự nguyện đều hướng tới đảm bảo an toàn cho mọi thành viên trong xã hội, phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro. Tỷ lệ dân số tham gia BHXH tự nguyện cao điều đó cũng đồng nghĩa với khả năng phòng ngừa rủi ro của dân số cao, vì đa số người lao động chủ động tiết kiệm được số tiền cần thiết để phòng ngừa lúc rủi ro và mức độ an toàn của họ sẽ cao hơn. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, sau hơn 12 năm triển khai, về độ bao phủ, tính đến tháng 12/2020, cả nước mới chỉ có 1.068.000 người tham gia BHXH tự nguyện, một con số còn rất khiêm tốn so với khoảng 30 triệu lao động trong khu vực phi chính thức. Độ bao phủ thực tế như vậy là còn quá thấp. Ngọc Dung (2021), “Bảo hiểm xã hội tự nguyện: thêm giải pháp để nhiều người có lương hưu”, Báo Người lao động điện tử, https://nld.com.vn/cong-doan/bao-hiem-xa-hoi-tu-nguyen-them-giai-phap-de-nhieu-nguoico-luong-huu-2021051821545852.htm, truy cập ngày 01/6/2022. 5 Theo số liệu báo cáo thống kê của BHXH Việt Nam, báo cáo đánh giá kết quả 25 năm thực hiện chính sách BHXH, BHYT. 4 12 Một vài nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do: Thứ nhất, người dân hiện nay còn chưa quan tâm, chưa hiểu hết về các chính sách cũng như quyền lợi được hưởng khi tham gia đóng BHXH tự nguyện. Thứ hai, xuất phát từ những quy định pháp luật về BHXH tự nguyện dẫn đến việc chưa hấp dẫn được người dân, chưa có tính khuyến khích so với các bảo hiểm khác, cụ thể là các quy định về thời gian để được hưởng chế độ hưu trí, và quy định của pháp luật hiện hành về các chế độ của BHXH tự nguyện chưa đa dạng. Về thời gian điều kiện để hưởng chế độ hưu trí, một bộ phận người dân, đặc biệt là người dân thuộc khu vực nông thôn có nguồn thu nhập tương đối ổn định nhưng vẫn e ngại tham gia đóng BHXH tự nguyện khi cho rằng thời gian tham gia đóng BHXH tự nguyện để đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí là quá dài, phải đủ 20 năm. Bên cạnh đó, về các chế độ của BHXH tự nguyện, trong khi người tham gia BHXH bắt buộc được hưởng 05 chế độ (chế độ dài hạn gồm hưu trí, tử tuất; ngắn hạn gồm ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp) thì người tham gia BHXH tự nguyện chỉ được hưởng 02 chế độ dài hạn, chưa giải quyết các chế độ ngắn hạn. Trong khi đó chính các chế độ ngắn hạn lại được nhiều người dân quan tâm vì nó giải quyết nhu cầu trước mắt, tác động tức thời và khi người dân tham gia họ cũng được hưởng quyền lợi gần nhất chứ không phải chờ đủ 20 năm để hưởng chế độ hưu trí. Do vậy, bản thân những quy định này chính là yếu tố gây nên tâm lý e ngại, thiếu hấp dẫn người dân ham gia BHXH tự nguyện. Tóm lại, mục tiêu của nhà nước mở rộng phạm vi bao phủ của BHXH tự nguyện, thông qua nhiều giải pháp để gia tăng đối tượng tham gia vẫn còn nhiều thách thức khó khăn ở trước mắt và lâu dài, điều đáng lưu tâm, trở ngại nhất là thái độ của người dân, người lao động đối với chính sách BHXH tự nguyện. Bên cạnh đó là những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại trong chính sách, các quy định pháp luật về BHXH tự nguyện. 1.3. Một số đề xuất, kiến nghị và các giải pháp khuyến khích các đối tượng tham gia và đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện 1.3.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện Thứ nhất, đề xuất nâng mức hỗ trợ tiền đóng BHXH tự nguyện từ 30% lên 50% đối với người thuộc hộ nghèo, từ 25% lên 30% đối với người thuộc hộ cận nghèo và từ 10% lên 20% đối với các đối tượng còn lại. 13 Hiện nay, tại các địa phương, đặc biệt là các tỉnh, thành phố lớn, lực lượng lao động tự do, lao động phi chính thức có số lượng lớn chính là lực lượng mà BHXH tự nguyện hướng đến. Việc tham gia BHXHTN phụ thuộc rất nhiều vào thu nhập của người dân. Với mức đóng phí BHXH tự nguyện hiện nay theo quy định bằng 22% mức tiền lương tối thiểu chung là khá cao so với người có thu nhập thấp, công việc bấp bênh, không ổn định. Do vậy, việc xây dựng và hoàn thiện chính sách hỗ trợ một phần kinh phí đóng BHXHTN cho nhóm lao động này là rất cần thiết để họ có thể tham gia BHXHTN. Lý do có đề xuất này là do các chuyên gia cho rằng số lượng người tham gia BHXH tự nguyện chưa nhiều một phần do người dân chưa hiểu được hết lợi ích của chính sách, một phần có nguyên nhân từ chính sách và do thu nhập của đối tượng lao động tự do bấp bênh, không bền vững. Mặt bằng thu nhập của nhiều NLĐ tự do còn thấp, trong khi đó mức hỗ trợ người tham gia chưa hấp dẫn người dân. Hiện tại, ngân sách nhà nước hỗ trợ 15.400 đồng/tháng tiền đóng BHXH tự nguyện đối với người tham gia không thuộc hộ nghèo và cận nghèo, 38.500 đồng/tháng đối với người thuộc hộ cận nghèo và 46.200 đồng/tháng đối với người thuộc hộ nghèo. Thời gian người tham gia BHXH tự nguyện được nhận hỗ trợ tối đa trong vòng 10 năm từ ngân sách nhà nước6. Do vậy, trên tinh thần đó, tác giả đề xuất nâng mức hỗ trợ tiền đóng BHXH tự nguyện từ 30% lên 50% đối với người thuộc hộ nghèo, từ 25% lên 30% đối với người thuộc hộ cận nghèo và từ 10% lên 20% đối với các đối tượng còn lại. Thứ hai, sửa đổi chính sách, quy định pháp luật về điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện nhằm tăng sức hấp dẫn của loại hình an sinh này. Cụ thể, đối với quy định về điều kiện hưởng chế độ hưu trí, cần tạo điều kiện về thời gian đóng BHXH tự nguyện để được hưởng lương hưu xuống còn 15 năm và tiến tới xuống còn 10 năm để được hưởng lương hưu. Lý do tác giả đưa ra đề xuất này bởi vì như đã phân tích, cách thiết kế chính sách của chương trình bảo hiểm hiện nay có thể không khuyến khích tham gia: những người tham gia cần có đóng góp ít nhất 20 năm để được hưởng chế độ hưu trí, và nếu không đủ 20 năm họ sẽ được trả lợi ích trọn gói một lần cho tuổi già. Và số tiền nhận một lần cho thời gian đóng phí bảo hiểm ngắn tương đương với 1,5 tháng của tiền lương trung bình của người nghỉ hưu một năm đóng góp, đây thực sự là khoản trợ cấp Ngọc Dung (2021), “Bảo hiểm xã hội tự nguyện: thêm giải pháp để nhiều người có lương hưu”, Báo Người lao động điện tử, https://nld.com.vn/cong-doan/bao-hiem-xa-hoi-tu-nguyen-them-giai-phap-de-nhieu-nguoico-luong-huu-2021051821545852.htm, truy cập ngày 01/6/2022. 6 14 nhỏ. Những phụ nữ ở độ tuổi đầu 40 và những người đàn ông ở độ tuổi giữa 40 sẽ có ít động cơ để tham gia. Tỷ lệ tham gia của lao động trẻ cũng rất thấp, có lẽ một phần vì thiếu sự nhận thức của công chúng về chế độ BHXH tự nguyện, một phần là thiếu sự đảm bảo lương hưu tối thiểu, có thể gây ra nhận thức chung rằng các quy định của chế độ BHXH tự nguyện là kém thu hút và kém lôi cuốn hơn so với các quy định của chương trình bắt buộc. Điều này dẫn đến phạm vi bảo hiểm của hệ thống tự nguyện trên thực tế hiện nay còn rất thấp. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm tự nguyện qua nhiều năm vẫn còn ở mức tương đối, chủ yếu người tham gia là những người đã tham gia đóng BHXH bắt buộc nghỉ việc khi đủ tuổi nghỉ hưu (nam đủ 60, nữ đủ 55) mà chưa đủ số năm tham gia đóng BHXH và muốn hoàn thành thời gian đóng bảo hiểm tối thiểu cần thiết (đủ 20 năm) để được hưởng lương hưu. Số lượng người tham gia BHXHTN từ đầu là rất thấp7. Do vậy, việc đề xuất sửa đổi quy đinh về điều kiện hưởng chế độ hưu trí theo hướng giảm thời gian đóng BHXH tự nguyện xuống là một cách thức để tạo nên tính hấp dẫn cho loại hình an sinh này. Thứ ba, cần cân nhắc cần bổ sung thêm quyền lợi cho người tham gia BHXH tự nguyện như các quyền lợi về ốm đau, thai sản... trong quá trình đóng. Mục đích của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách BHXH tự nguyện là nhằm góp phần đảm bảo ASXH, giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước. Do đó, khi xây dựng pháp luật về BHXH tự nguyện phải hài hòa giữa nhu cầu của người tham gia và yêu cầu cân đối quỹ. Mục đích chính của người tham gia BHXH tự nguyện là để có khoản thu nhập khi về già (hết khả năng lao động), khi chết thân nhân được hưởng chế độ tử tuất. Do đó, khi xây dựng pháp luật, phải xem xét đến khả năng đóng (có thu nhập để đóng hay không), đồng thời những quy định về trợ cấp nhất thiết phải đáp ứng được nhu cầu tối thiểu về cuộc sống khi họ không còn khả năng lao động, không còn thu nhập. Về lâu dài có thể mở rộng những quyền lợi ngắn hạn khác khi nguồn quỹ có khả năng đáp ứng. 1.3.2. Các giải pháp khuyến khích các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện Bên cạnh việc điều chỉnh chính sách, các quy định pháp luật, để tiếp tục khuyến khích NLĐ tham gia BHXHTN nhiều hơn nữa, cần có hệ thống các giải pháp đồng bộ và hiệu quả hơn, phối kết hợp nhiều biện pháp hỗ trợ như: Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2017), “Bảo hiểm xã hội tự nguyện và yêu cầu mở rộng đối tượng tham gia”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 254 (3/2017), tr.89. 7
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan