Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở việt nam
Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương
mại ở Việt Nam : Luận văn ThS. Luật:
60 38 50 / Đinh Cảnh Tiến ; Nghd. : TS.
Lê Thị Thu Thủy
1.3.3.1.
1.3.3.2.
1.4.
2.2.
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẾ CHẤP TÀI
1
6
SẢN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.2.1.
1.1.2.2.
1.1.3.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
1.2.3.1.
1.2.3.2.
1.3.
1.3.1.
1.3.2.
1.3.3.
Ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
Vị trí, vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
Khái niệm đặc điểm hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại
Phân loại cho vay
Rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Một số biện pháp bảo đảm tiền vay cơ bản
Khái niệm bảo đảm tiền vay
Sự cần thiết phải có bảo đảm tiền vay
Phân loại bảo đảm tiền vay
Bảo đảm đối nhân và bảo đảm đối vật
Bảo đảm bằng tài sản và bảo đảm không bằng tài sản bảo đảm
Thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
Khái niệm thế chấp tài sản
Đặc điểm thế chấp tài sản
Phân loại thế chấp tài sản
6
6
9
9
13
14
16
16
20
21
21
22
28
28
29
31
2.2.1.
2.2.1.1.
2.2.1.2.
2.2.2.
2.2.2.1.
2.2.2.2.
2.2.2.3.
2.2.2.4.
2.2.2.5.
2.2.3.
2.2.3.1.
2.2.3.2.
2.2.3.3.
2.2.4.
2.2.4.1.
2.2.4.2.
2.2.5.
2.2.5.1.
2.2.5.2.
2.2.5.3.
2.2.6.
2.3.
Khái quát quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về
thế chấp tài sản ở Việt Nam
Pháp luật hiện hành về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng
Chủ thể trong quan hệ thế chấp
Bên thế chấp
Bên nhận thế chấp
Tài sản thế chấp và định giá tài sản thế chấp
Tài sản thế chấp
Các điều kiện đối với tài sản thế chấp
Định giá tài sản thế chấp
Phạm vi bảo đảm nghĩa vụ của tài sản thế chấp
Quản lý và thụ hưởng tài sản thế chấp
Nội dung thế chấp
Quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp
Quyền và nghĩa vụ của bên nhận thế chấp
Các quyền và nghĩa vụ của bên thứ ba giữ tài sản thế chấp
Hình thức thế chấp
Hợp đồng thế chấp
Yêu cầu về công chứng, xác nhận hợp đồng thế chấp, đăng ký
thế chấp
Xử lý tài sản thế chấp
Các nguyên tắc cơ bản để xử lý tài sản thế chấp
Phương thức và thủ tục xử lý tài sản bảo đảm
Thanh toán thu nợ từ việc xử lý tài sản thế chấp
Chấp dứt thế chấp
Một số vấn đề đặt ra là từ thực tiễn áp dụng pháp luật về thế
chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT THẾ CHẤP TÀI SẢN TRONG
1
31
31
32
34
SẢN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
2.1.
MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Thế chấp toàn bộ bất động sản và thế chấp một phần
Thế chấp bảo đảm nghĩa vụ cho chính mình và thế chấp
bảo đảm nghĩa vụ cho người thứ ba
Mối liên hệ giữa thế chấp tài sản và hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI
2
34
41
41
41
47
47
47
49
62
55
56
59
59
62
65
66
66
68
72
72
74
78
79
80
87
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
3.1.
3.2.
3.3.
Cơ sở để hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Định hướng hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Một số kiến nghị - đề xuất cụ thể về pháp luật thế chấp tài sản
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
3
87
88
93
100
101
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế thị trường thì nhu cầu về vốn
cho phát triển, mở rộng đầu tư, sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp, thành phần kinh tế là rất lớn, cùng với các định chế tài chính như:
Các công ty tài chính, thị trường chứng khoán,… thì hệ thống ngân hàng
(đại diện là các ngân hàng thương mại) là các "kênh" cung cấp vốn chủ
yếu cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế…
Với vai trò, vị trí của mình, các ngân hàng thương mại có chức năng
đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc gia, nó là đòn bẩy cho
nền kinh tế phát triển. Các ngân hàng thương mại - với tư cách là một
trung gian tài chính - là nơi được thực hiện huy động tiền gửi từ phía
công chúng - có trách nhiệm hoàn trả vốn vay của người gửi, thực hiện
cho vay đối với khách hàng có nhu cầu về vốn.
Cho vay là hoạt động đem lại lợi nhuận chủ yếu cho các ngân hàng
thương mại. Để đảm bảo cho ngân hàng thương mại có thể duy trì và
phát triển vững chắc đòi hỏi hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại phải an toàn và hiệu quả. Để bảo đảm vốn vay của mình, thì toàn bộ
các khâu trong quy trình cho vay phải được tuân thủ nghiêm ngặt (từ
khâu nhận hồ sơ vay vốn đến ra quyết định cho vay, kể cả việc xử lý tài
sản bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ…).
cho vay không có bảo đảm… Đây là các cơ sở pháp lý bảo đảm cho phía
các ngân hàng thương mại thu hồi được vốn (gốc + lãi) theo thời hạn đã
thỏa thuận trước, qua đó cũng phân biệt quan niệm cho vay với việc cấp
phát của ngân sách nhà nước bởi đặc trưng của cho vay là việc phải có sự
hoàn trả.
Hoạt động cho vay luôn luôn tiềm ẩn các rủi ro, bởi đây là yếu tố
gắn liền với mọi hoạt động kinh doanh nói chung. Nhằm đảm bảo an
toàn, hiệu quả và hạn chế đến mức tối đa rủi ro trong hoạt động cho vay,
ở tất cả các nước trên thế giới đều có các quy định chặt chẽ nhằm đảm
bảo an toàn trong hoạt động cho vay, trong đó đặc biệt chú trọng đến các
vấn đề cho vay có bảo đảm bằng việc thế chấp tài sản. Trong trường hợp
này thì tài sản bảo đảm tiền vay là tài sản của khách hàng vay, của bên
bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Cần lưu ý rằng sự bảo đảm này
là cơ sở để ngân hàng có thêm nguồn thu nợ thứ hai (bởi nếu nguồn thu
từ hiệu quả dự án đầu tư, quá trình sản xuất kinh doanh đưa lại) không
đạt kết quả cao, việc cho vay có bảo đảm bằng tài sản chỉ áp dụng với
những khách hàng không có uy tín không cao đối với các ngân hàng.
Thông qua việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về thế chấp
tài sản bảo đảm tiền vay trong các ngân hàng thương mại có thể tiếp cận một
cách có hệ thống các quy định pháp luật quốc tế cơ bản điều chỉnh về vấn
đề này.
Trong mối quan hệ này thì các ngân hàng thương mại là người cho
vay. Có quyền lựa chọn khách hàng (người vay) để cho vay dựa trên các
điều kiện, yêu cầu nhất định, có thể là yêu cầu về tài sản bảo đảm hoặc
Đặc biệt hiện nay chúng ta đang thực hiện những cam kết quốc tế về
lĩnh vực ngân hàng trong Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã và đang đặt ra cho hệ thống
ngân hàng thương mại Việt Nam những thách thức vô cùng to lớn.
Trong đó, ngân hàng là lĩnh vực hoàn toàn mở trong cam kết gia nhập
WTO của Việt Nam. Đến năm 2010, lĩnh vực ngân hàng sẽ mở cửa
hoàn toàn các dịch vụ cho khối ngân hàng nước ngoài. Vì vậy, việc
nghiên cứu về hợp đồng cho vay thuộc ngân hàng thương mại nói
chung và thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay thuộc ngân hàng
5
6
Cấp tín dụng dưới hình thức cho vay là hoạt động của ngân hàng
thương mại, thông qua việc cho vay ngân hàng thực hiện việc điều hòa
vốn trong sản xuất kinh doanh dưới hình thức phân phối vốn nhàn rỗi
huy động được từ tiền gửi trong công chúng (có thời hạn) nhằm đáp ứng
nhu cầu về vốn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh, đời sống xã hội.
thương mại nói riêng là rất cấp thiết, trên cơ sở đó chỉ ra những bất cập
của pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại; đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại. Với lý do trên, tôi đã chọn đề tài "Pháp luật về thế
chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở
Việt Nam" để thực hiện luận văn thạc sĩ Luật học.
vay ngày càng tăng, nhu cầu mở rộng cho vay của các ngân hàng thương
mại luôn đòi hỏi tính an toàn, hiệu quả, tính cạnh tranh trong xu thế hội
nhập giữa các ngân hàng.
+ Làm rõ các vấn đề lý luận về thế chấp tài sản như: khái niệm, đặc
điểm, vai trò, thủ tục xử lý tài sản thế chấp theo pháp luật Việt Nam; có
so sánh với pháp luật quốc tế.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài, đó là: Các quy định pháp luật về
thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở
Việt Nam và mối quan hệ giữa pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt
động cho vay với các quy định khác về bảo đảm tiền vay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về biện pháp bảo đảm
tiền vay nói chung và thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay đã được đề cập ở
rất nhiều công trình nghiên cứu trong: sách, báo, tạp chí như: Tạp chí
ngân hàng, báo Diễn đàn doanh nghiệp, Thời báo ngân hàng, sách
chuyên khảo: "Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ
chức tín dụng" do TS. Lê Thị Thu Thủy làm chủ biên, Nxb Tư pháp,
2006 - Nội dung tác giả đã đề cập một cách có hệ thống, các biện pháp
bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, chỉ ra những thiếu sót và
hướng khắc phục, hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay của các tổ
chức tín dụng, có so sánh với các biện pháp bảo đảm tiền vay của các
nước trên thế giới như: Nhật Bản, Liên bang Nga, Mỹ, Pháp… Cuốn
sách: "Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của ngân hàng thương mại
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam", của TS. Ngô Quốc Kỳ, Nxb
Tư pháp, 2005, tác giả đã đề cập đến các hoạt động có tính chất nghiệp
vụ của ngân hàng thương mại và pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân
hàng thương mại kiến nghị và đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật về
hoạt động của ngân hàng thương mại. Mặc dù vậy, các đề tài, công trình
nghiên cứu trên do thời gian nghiên cứu cách đây nhiều năm do đó không
đáp ứng được tính thực tiễn. Mặt khác, nhu cầu về vốn của khách hàng
7
Do đó, việc nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp
luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của các ngân hàng
thương mại có ý nghĩa rất lớn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về thế chấp
tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại: khái niệm,
đặc điểm, thực tiễn áp dụng, trên cơ sở đó chỉ ra những bất cập của
pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại; có đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp thống kê, phân tích, đánh giá, đối chiếu, so sánh, tổng
hợp… dựa trên nền tảng cơ bản đó là: Phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thế chấp tài sản trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại.
8
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
1.1.2.2. Phân loại cho vay
Phân loại cho vay dựa theo các tiêu chí sau đây:
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
- Dựa vào mục đích sử dụng vốn vay, ta có: Cho vay tiêu dùng, vay
sản xuất kinh doanh, vay bổ sung vốn lưu động.
Chương 1
- Dựa vào thời hạn vay của khách hàng, ta có: Cho vay ngắn hạn,
cho vay trung hạn, cho vay dài hạn.
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại.
1.1.1. Vị trí,vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
Như chúng ta đã biết, ngân hàng là một tổ chức quan trọng đặc biệt đối
với nền kinh tế ở mỗi quốc gia. "Sự hình thành và phát triển của ngân hàng
gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa, đến lượt mình, sự
phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế".
Trên thực tế, mặc dù thuật ngữ "ngân hàng" đã xuất hiện từ rất sớm.
Song, quan niệm về ngân hàng luôn thay đổi qua mỗi thời kỳ, bởi lẽ do
sự biến đổi và phát triển không ngừng của nền kinh tế mỗi quốc gia, cả
trên phạm vi toàn cầu dẫn đến các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng
ngày một đa dạng, phức tạp.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
1.1.2.1. Hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại.
1.1.3. Rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
- Cũng giống như bất kỳ hoạt động kinh doanh nào, lĩnh vực kinh
doanh ngân hàng luôn tiềm ẩn những rủi ro. Tuy nhiên, đây là hoạt động
kinh doanh rủi ro có tính toán trước.
- Các loại rủi ro cơ bản mà ngân hàng luôn gặp phải, đó là: rủi ro tín
dụng, rủi ro thanh toán, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái và các loại rủi ro khác...
1.2. Một số biện pháp bảo đảm tiền vay cơ bản
1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay
Bảo đảm tiền vay (theo nghĩa hẹp) là những biện pháp mà các tổ
chức tín dụng áp dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế tới mức thấp nhất
những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động cho vay của mình, cụ thể là
đảm bảo cho việc thu hồi vốn và lãi suất vay
1.2.2. Sự cần thiết phải có bảo đảm tiền vay
Về nguyên tắc, bất kỳ khoản cho vay nào của ngân hàng thương mại
đều yêu cầu phải có bảo đảm. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại có
thể yêu cầu khách hàng vay phải có tài sản bảo đảm hoặc có thể cho vay
không cần có tài sản bảo đảm.
1.2.3. Phân loại bảo đảm tiền vay
Hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại là một trong số
các hoạt động cơ bản và mang lại nguồn thu chủ yếu (khoảng 70% lợi
nhuận) hàng năm. Thông qua việc cho vay, các ngân hàng thương mại đã
thực hiện việc điều hòa nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời (nguồn vốn mà ngân
hàng có được thông qua việc huy động từ công chúng).
- Bảo đảm đối nhân: là loại bảo đảm mà theo đó khách hàng vay
hoặc người thứ ba đứng ra bảo lãnh cho việc thực hiện nghĩa vụ trong
hợp đồng tín dụng.
9
10
Có một số hình thức phân loại bảo đảm tiền vay cơ bản sau đây:
- Bảo đảm đối vật: Các biện pháp bảo đảm đối vật bao gồm: Cầm
cố, thế chấp, bảo lãnh, đặt cọc…
- Bảo đảm tiền vay bằng tài sản và bảo đảm tiền vay không bằng tài
sản bảo đảm.
1.3 . Thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thương mại
1.3.1. Khái niệm thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại
Theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam (sửa đổi và bổ sung)
năm 2005, tại Điều 342 thì: "Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây
gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)
và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp".
1.3.2. Đặc điểm thế chấp tài sản
1.3.3. Phân loại thế chấp tài sản
Việc phân loại thế chấp tài sản được xem xét dựa trên rất nhiều tiêu
chí khác nhau. Có thể dựa vào một số nội dung chính được thỏa thuận
giữa các bên làm cơ sở để phân loại thế chấp tài sản...
1.3.3.1. Thế chấp toàn bộ bất động sản và thế chấp một phần
Theo quy định tại Điều 342 khoản 1 Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy
định về các trường hợp thế chấp một phần hoặc toàn bộ bất động sản.
1.3.3.2. Thế chấp bảo đảm nghĩa vụ cho chính mình và thế chấp bảo
đảm nghĩa vụ cho người thứ ba
- Thế chấp bảo đảm nghĩa vụ cho chính mình: trong trường hợp này đó
là sự cam kết của chính bên thế chấp về việc dùng tài sản thuộc sở hữu hợp
pháp của mình để bảo đảm nghĩa vụ đối với bên nhận thế chấp. Ví dụ:
Khách hàng A dùng tài sản thế chấp là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cùng với tài sản gắn liền với nó là nhà xưởng, máy móc, dây chuyền sản xuất
để bảo đảm cho khoản vay của mình tại ngân hàng thương mại cổ phần B.
Quan hệ thế chấp tài sản là một trong số các biện pháp bảo đảm
cho việc thực hiện nghĩa vụ, được thiết lập trên cơ sở thỏa thuận giữa
hai bên hoặc do luật định. Nghĩa vụ của bên thế chấp trong quan hệ này
là cam kết trả nợ vay đúng thời hạn (cả nợ gốc và lãi). Mục đích của
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (bảo đảm tiền vay), một mặt nhằm nâng
cao trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của bên vay. Mặt khác nhằm
phòng ngừa rủi ro khi phương án trả nợ dự kiến của bên vay không
được thực hiện, hoặc xảy ra các rủi ro ngoài ý muốn và nhằm phòng
ngừa gian lận… trong trường hợp này bên nhận thế chấp cần thỏa thuận
trước với khách hàng vay về lợi tức và các quyền phát sinh từ việc thế
chấp tài sản sẽ thuộc về người nhận thế chấp nếu pháp luật không có
quy định khác. Đồng thời, nếu tài sản thế chấp được bảo hiểm thì số
tiền bảo hiểm này cũng thuộc tài sản thế chấp... nhằm tránh các xung
đột về lợi ích không cần thiết có thể xảy ra trong quá trình thực hiện
hợp đồng thế chấp tài sản.
Như vậy, có thể thấy rằng giữa thế chấp tài sản và hoạt động cho vay
của các ngân hàng thương mại có mối liên hệ chặt chẽ, vừa tạo tiền đề cơ
sở cho việc mở rộng, cấp tín dụng cho khách hàng có nhu cầu vay vốn.
Mặt khác, là cơ sở để bảo đảm, dự phòng rủi ro cho các ngân hàng
thương mại khi khách hàng vay không còn khả năng trả nợ…
11
12
- Thế chấp bảo đảm nghĩa vụ cho người thứ ba:
Thực ra, đây là hình thức bảo lãnh bằng thế chấp (bảo lãnh đối vật).
1.4. Mối liên hệ giữa thế chấp tài sản và hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại
Mục đích của việc thế chấp tài sản bảo đảm tiền vay là tạo cơ sở bảo
đảm an toàn cho hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, bản
chất của bảo đảm tiền vay là sử dụng những giá trị của những tài sản làm
bảo đảm để trả nợ thay cho các khoản vay mà người vay đã dùng vào sản
xuất kinh doanh nhưng không có khả năng trả nợ ngân hàng.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM
2.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của pháp luật
về thế chấp tài sản ở Việt Nam
Như vậy, có thể thấy rằng, cho đến khi Bộ luật Dân sự năm 2005 ra
đời (có hiệu lực từ ngày 1/1/2006), hệ thống các quy định của pháp luật
điều chỉnh và thế chấp tài sản bảo đảm vốn vay tại các ngân hàng thương
mại đã phát huy được những hiệu quả ban đầu, tạo điều kiện cho việc lưu
thông đồng vốn, phát triển kinh tế. Nhưng việc phân tán, tản mạn, thiếu
tập trung của các quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề trên đã dẫn đến
khó khăn cho các ngân hàng thương mại khi cùng một lúc phải tham
khảo nhiều văn bản và của nhiều cơ quan liên quan khác nhau mới có đủ
thông tin về tình trạng pháp lý của các tài sản đảm bảo. Ví dụ: Bộ luật
Dân sự năm 2005 đã loại bỏ hẳn khái niệm bảo lãnh bằng quyền sử dụng
đất. Bởi việc dùng quyền sử dụng đất nhằm bảo đảm nghĩa vụ dân sự cho
mình hoặc cho người khác đều được gọi chung là thế chấp. Như vậy bảo
lãnh bằng quyền sử dụng đất trong Luật Đất đai năm 2003 và Nghị định
số 18/2004/NĐ-CP được chuyển thành việc thế chấp quyền sử dụng đất.
Sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 2005 đã hủy bỏ hiệu lực của Pháp
lệnh Hợp đồng kinh tế, do đó, kể từ 1/1/2006, về mặt pháp lý, các giao
dịch dân sự nói chung và giao dịch bảo đảm nói riêng được xác lập giữa
các doanh nghiệp với nhau để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp, hoặc các giao dịch giữa các cá nhân với nhau vì mục
đích sinh hoạt, tiêu dùng đều được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự năm
2005. Pháp luật chuyên ngành phải đảm bảo tính thống nhất với các quy
định của Bộ luật Dân sự. Với việc thống nhất pháp luật về nghĩa vụ dân
sự và hoạt động dân sự, trong đó có các giao dịch bảo đảm và bãi bỏ
13
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế dẫn đến trong trường hợp các văn bản pháp
luật chuyên ngành ví dụ về đất đai, thương mại… nếu không có quy định
thì áp dụng các quy định tương ứng trong Bộ luật Dân sự năm 2005.
Cụ thể hóa quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, ngày 29/12/2006 về giao dịch
bảo đảm, đồng thời bãi bỏ Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999
của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và Nghị
định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 của Chính phủ về sửa đổi, bổ
sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP... và việc tiến tới xây dựng Luật
Đăng ký giao dịch bảo đảm (trừ tài sản bảo đảm là bất động sản được đề
cập trong luật đăng ký bất động sản mà không được đề cập trong luật
này, các cơ quan đăng ký giao dịch sẽ có trách nhiệm cập nhật thông tin
về giao dịch bảo đảm vào hệ thống dữ liệu quốc gia).
Việc xây dựng thống nhất, đồng bộ các văn bản pháp luật điều chỉnh
các giao dịch bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, đặc biệt liên quan đến
vấn đề thế chấp tài sản bảo đảm vốn vay của các ngân hàng thương mại
đã tạo điều kiện cho việc thúc đẩy hoạt động kinh tế nói chung phát triển,
bảo đảm hài hòa quyền và lợi ích hợp pháp của các bên (ngân hàng và
khách hàng vay).
2.2. Pháp luật hiện hành về thế chấp tài sản trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thương mại tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng
2.2.1. Chủ thể trong quan hệ thế chấp
Các chủ thể tham gia gồm có: Bên thế chấp là khách hàng vay, bên
thứ ba (có thể tham gia với tư cách là người bảo lãnh); và bên nhận thế
chấp là ngân hàng thương mại (có thể là các ngân hàng cùng tham gia
đồng tài trợ cho một khoản vay có giá trị lớn..).
2.2.1.1. Bên thế chấp
Trường hợp là khách hàng vay, có thể là cá nhân, tổ chức Việt Nam
hoặc nước ngoài, phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện cơ bản như:
14
+ Có nhu cầu vay vốn.
+ Phương án sản xuất kinh doanh khả thi.
+ Có khả năng trả nợ.
Việc xác định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay được lập thành văn bản
riêng biệt, nhất là đối với các trường hợp tài sản bảo đảm là tài sản có giá
trị lớn, giá cả luôn có biến động hoặc đó là quyền sử dụng đất.
2.2.2.4. Phạm vi bảo đảm nghĩa vụ của tài sản thế chấp
2.2.1.2. Bên nhận thế chấp
Đó là các tổ chức tín dụng, trong đó ngân hàng thương mại là loại
hình tổ chức tín dụng chủ yếu. Trong phạm vi luận văn tác giả chỉ đề cập
đến loại hình cơ bản đó là các ngân hàng thương mại.
2.2.2. Tài sản thế chấp và định giá tài sản thế chấp
2.2.2.1.Tài sản thế chấp
Theo quy định tại Điều 3.2.2 và Nghị định 163/2006/ NĐ-CP của
Chính phủ ngày 29/12/2006 hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự năm
2005 về các giao dịch bảo đảm... có danh mục các loại tài sản thế chấp.
2.2.2.2. Các điều kiện đối với tài sản thế chấp
Quy định tại Điều 820 Bộ luật Dân sự năm 2005, Nghị định 163 về
giao dịch bảo đảm theo đó tài sản dùng để bảo đảm tiền vay nói chung và
tài sản thế chấp nói riêng phải đáp ứng đủ 04 điều kiện
- Tài sản phải thuộc quyền quản lý, sở hữu, sử dụng của khách hàng
vay hoặc bên bảo lãnh.
- Tài sản phải được phép giao dịch.
- Không có tranh chấp tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm.
- Bên thế chấp phải mua bảo hiểm cho tài sản thế chấp (nếu pháp
luật có quy định).
2.2.2.3. Định giá tài sản thế chấp
Theo nguyên tắc chung, tài sản bảo đảm tiền vay phải được xác định
giá trị tại thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm. Việc xác định giá trị tài
sản tại thời điểm này chỉ để làm cơ sở xác định mức cho vay và không áp
dụng khi xử lý tài sản để thu hồi nợ.
15
Nghĩa vụ dân sự có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo
thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
Phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định tại Điều 319
Bộ luật Dân sự năm 2005:
- Khoản 1: nghĩa vụ dân sự có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ
theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật, nếu không có thỏa
thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như
được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại.
- Khoản 2: các bên được thỏa thuận các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự để bảo đảm thực hiện các loại nghĩa vụ, kể cả nghĩa vụ
hiện tại, nghĩa vụ tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện.
2.2.2.5. Quản lý và thụ hưởng tài sản thế chấp
Theo tinh thần mới của Bộ luật Dân sự năm 2005, việc phân biệt giữa
cầm cố và thế chấp dựa trên tiêu chí cơ bản: - Khác với cầm cố, bên cầm cố
phải chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố giữ. Trong hợp đồng thế chấp,
bên thế chấp vẫn được giữ tài sản thế chấp để tiếp tục khai thác, sử dụng.
Như vậy, bên thế chấp có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi,
lợi tức từ tài sản, trừ trường hợp hoa lợi, lợi tức cũng thuộc tài sản thế
chấp theo thỏa thuận, được đầu tư để làm tăng giá trị của tài sản thế chấp,
được bán, thay thế tài sản thế chấp, nếu tài sản đó là hàng hóa luân
chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh.
2.2.3. Nội dung thế chấp
Nội dung chính của quan hệ thế chấp là những quyền và nghĩa vụ
của bên thế chấp và các ngân hàng thương mại trong quan hệ thế chấp.
16
Bên cạnh đó, xuất phát từ bản chất của việc thế chấp, tài sản có thể do
người thứ ba giữ bất động sản theo thỏa thuận giữa bên thế chấp và bên
nhận thế chấp.
2.2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp
Nghĩa vụ của bên thế chấp được quy định tại Điều 348 Bộ luật Dân
sự năm 2005,
Theo quy định tại Điều 349 Bộ luật Dân sự năm 2005,các quyền của
bên thế chấp tài sản được quy định rất cụ thể.
2.2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận thế chấp
Theo quy định tại Điều 351 Bộ luật Dân sự năm 2005, bên nhận thế
chấp tài sản có các quyền sau đây:
1. Yêu cầu bên thuê, bên mượn tài sản thế chấp (theo quy định tại
khoản 5 Điều 349 Bộ luật Dân sự năm 2005) phải chấm dứt việc sử dụng
tài sản thế chấp, nếu việc sử dụng làm mất giá trị hoặc làm giảm sút giá
trị của tài sản đó;
2. Được xem xét, kiểm tra trực tiếp tài sản thế chấp, nhưng không
được cản trở hoặc gây khó khăn cho việc sử dụng, khai thác tài sản thế chấp;
Tại Điều 350 Bộ luật Dân sự năm 2005, quy định rõ về nghĩa vụ của
bên nhận thế chấp tài sản.
2.2.3.3. Các quyền và nghĩa vụ của bên thứ ba giữ tài sản thế chấp
Điều 353 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về quyền của bên thứ
ba giữ tài sản thế chấp bao gồm:
1. Được khai thác công dụng của tài sản thế chấp,hưởng hoa lợi, lợi
tức từ tài sản thế chấp, nếu có thỏa thuận.
2. Được trả thù lao và được thanh toán chi phí bảo quản, giữ gìn tài
sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Tài sản thế chấp có thể do bên thế chấp giữ hoặc do bên thứ ba. Trong
trường hợp này, bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận để bên thứ
17
ba giữ tài sản thế chấp. Các quyền và nghĩa vụ của người thứ ba do các
bên trong quan hệ thế chấp thỏa thuận theo quy định của pháp luật.
b. Nghĩa vụ của người thứ ba giữ tài sản thế chấp
Các nghĩa vụ cơ bản của người thứ ba (theo quy định tại Điều 352
Bộ luật Dân sự năm 2005).
2.2.4. Hình thức thế chấp
Trên thực tế, việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản có
thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường
hợp pháp luật có quy định thì văn bản thế chấp phải được công chứng,
chứng thực hoặc đăng ký (Điều 343 Bộ luật Dân sự năm 2005).
2.2.4.1.Hợp đồng thế chấp
Bao gồm: hợp đồng thế chấp tài sản theo quy định của pháp luật và
các giấy tờ có liên quan đến tài sản thế chấp...
2.2.4.2. Yêu cầu về công chứng, xác nhận hợp đồng thế chấp, đăng
ký thế chấp
Trước hết cần khẳng định rằng việc công chứng, chứng thực hay
không công chứng, chứng thực vào văn bản (hợp đồng) thế chấp bất
động sản bảo đảm tiền vay của:
- Cơ quan công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân
dân cấp có thẩm quyền, phòng công chứng tư là do các bên thỏa thuận.
Đối với một số trường hợp nhất định, theo quy định của pháp luật
văn bản thế chấp bất động sản phải có chứng nhận hoặc chứng thực thì
các bên phải tuân theo. Quy định tại Điều 343 Bộ luật Dân sự năm 2005 hình thức thế chấp tài sản: việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn
bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong
trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản thế chấp phải được công
chứng, chứng thực hoặc đăng ký.
18
2.2.5. Xử lý tài sản thế chấp
Tài sản bảo đảm (tài sản thế chấp) được xử lý theo phương thức đã
thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng hoặc theo hợp đồng cầm cố, thế chấp,
bảo lãnh (sau đây gọi chung là hợp đồng bảo đảm). Trường hợp các bên
không xử lý được tài sản bảo đảm theo phương thức đã thỏa thuận, ngân
hàng có quyền chủ động lựa chọn áp dụng một hoặc một số trong các
phương thức xử lý tài sản bảo đảm sau đây để thu hồi nợ.
2.2.5.1. Các nguyên tắc cơ bản để xử lý tài sản thế chấp
- Theo thỏa thuận giữa các bên.
- Trong trường hợp các bên không tự thỏa thuận được thì tài sản thế
chấp sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật.
2.2.5.2. Phương thức và thủ tục xử lý tài sản thế chấp
Đối với việc xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất đã thế chấp trước ngày Nghị định số 178 có hiệu lực theo qui
định của Thông tư 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC.
- Đối với các loại tài sản khác do các bên thỏa thuận hoặc theo quy
định của pháp luật.
2.2.5.3. Thanh toán thu nợ từ việc xử lý tài sản thế chấp
-Thực tế, trong hoạt động của các ngân hàng thương mại, việc xử lý
tài sản thế chấp để thu hồi nợ không phải là mong muốn của các bên khi
tham gia giao kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp... Đây chỉ là
phương án dự phòng trong trường hợp khách vay không trả được nợ hoặc
trả không đủ số tiền vay theo thỏa thuận đã cam kết giữa các bên. Khi
xảy ra sự kiện - khách hàng vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ, tài sản thế chấp
buộc phải xử lý để thu hồi khoản nợ vay.
Thứ tự của việc thanh toán thu nợ như sau:
Các chi phí cần thiết phải thanh toán đó là: danh sách các chi phí cần
thiết cho việc xử lý tài sản thế chấp: chi phí bảo quản, quản lý, định giá,
19
quảng cáo bán tài sản, niêm yết, thông báo công khai về việc bán tài sản,
vận chuyển tài sản, bán tài sản, tiền hoa hồng, chi phí, lệ phí bán đấu giá,
chi phí cho việc làm các thủ tục liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu,
quyền sử dụng (nếu có), cũng như các chi phí cần thiết, hợp lý khác liên
quan đến xử lý tài sản thế chấp. Yêu cầu chi phí này phải có hóa đơn,
chứng từ theo quy định của Bộ Tài chính.
- Thuế và các khoản phí nộp ngân sách nhà nước (nếu có).
- Các khoản nợ gốc, lãi, phạt chậm trả tính đến ngày bên thế chấp
hoặc bên giữ tài sản giao tài sản cho ngân hàng để xử lý...
2.2.6. Chấm dứt thế chấp
Thông thường, việc chấm dứt thế chấp tài sản xảy ra khi các nghĩa
vụ bảo đảm đã được hoàn thành. Ví dụ: các khoản nợ vay bao gồm cả
gốc, lãi, phạt chậm trả và các chi phí khác (nếu có) đã được khách hàng
trả cho ngân hàng. Lúc này ngân hàng (bên nhận thế chấp) có nghĩa vụ
làm các thủ tục chấm dứt thế chấp tài sản (giải chấp). Ngân hàng cùng
với khách hàng tiến hành việc xóa đăng ký thế chấp đối với tài sản thế
chấp đã được đăng ký thế chấp tại các cơ quan đăng ký giao dịch đảm
bảo, và trả lại cho khách hàng các loại giấy tờ, tài liệu liên quan đến tài
sản thế chấp
2.3. Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn áp dụng pháp luật về thế
chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Mặc dù các quy định của pháp luật về thế chấp tài sản được quy
định tại rất nhiều các văn bản luật khác nhau như:
+ Bộ luật Dân sự năm 2005.
+ Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi, bổ sung năm 2004).
+ Luật Doanh nghiệp năm 2005.
+ Luật Hàng hải năm 2005.
20
+ Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2007.
+ Luật Đất đai năm năm 2003.
nhận thế chấp, cụ thể đó là: Bán trực tiếp không cần qua đấu giá, quyền
được tiếp cận hợp pháp để thu giữ tài sản bảo đảm.
Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành đã ghi nhận và khẳng định nguyên
tắc xử lý tài sản thế chấp cụ thể như:
Và các văn bản dưới luật như:
+ Nghị định của Chính phủ;
+ Các thông tư, quyết định của các bộ ngành: ngân hàng nhà nước,
Bộ Tài nguyên - Môi trường, Bộ Tư pháp, Tổng cục Địa chính...
Nhưng giữa những văn bản quy phạm pháp luật này dường như thiếu
tính thống nhất giữa các quy định về những biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ với tư cách là một luật chung (Bộ luật Dân sự) với các định của
pháp luật về bảo đảm tiền vay (Luật Ngân hàng) với tư cách là luật
chuyên ngành.
Trong việc xử lý tài sản thế chấp, các văn bản quy phạm pháp luật
được áp dụng cơ bản bao gồm:
- Bộ luật Dân sự năm 2005 (Các điều từ 342 đến 357)
- Luật Đất đai năm 2003 (Điều 113, 114, 115)
- Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm.
- Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10-3-2000 của Chính phủ về
đăng ký giao dịch bảo đảm.
- Nghị định số 151/2004/ NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về
thi hành Luật Đất đai (Điều 64).
So với giai đoạn trước khi Bộ luật Dân sự năm 2005 ra đời thì trong
việc xử lý tài sản thế chấp các ngân hàng thương mại gặp phải không ít
khó khăn khi phải thu hồi và xử lý tài sản thế chấp do quy trình phức tạp,
thiếu cơ chế khi xử lý tài sản thế chấp.
- Khẳng định nguyên tắc xử lý tài sản trước hết phải được thực hiện
theo thỏa thuận của các bên, thỏa thuận này có thể được ghi nhận tại thời
điểm xác lập giao dịch bảo đảm hoặc tại bất kỳ thời điểm nào khác trong
quá trình thực hiện giao dịch bảo đảm, xử lý tài sản đảm bảo.
- Nếu các bên không có thỏa thuận thì tài sản thế chấp sẽ được xử lý
theo quy định của pháp luật.
- Bảo đảm việc xử lý tài sản thế chấp được tiến hành một cách khách
quan, công khai minh bạch, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên tham gia giao dịch bảo đảm.
- Việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay không phải là hoạt
động kinh doanh của bên nhận thế chấp.
Bên cạnh những kết quả đạt được ban đầu, trong quá trình xử lý tài
sản thế chấp tại các ngân hàng thương mại, các quy định của pháp luật
còn bộc lộ một số vướng mắc như:
Đối với việc xử lý tài sản thế chấp nhằm thu hồi nợ vay cho bên
nhận thế chấp mà tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất đã và đang gặp
nhiều khó khăn, bởi lẽ:
- Việc xử lý này phụ thuộc vào rất nhiều các cơ quan liên quan (có
sự tham gia của nhiều cơ quan nhà nước khác nhau tham gia quá trình thế
chấp quyền sử dụng đất: cơ quan xác nhận đủ điều kiện thế chấp, cơ quan
đăng ký biến động đất đai do thế chấp, cơ quan cho phép đấu giá quyền sử
dụng đất, cơ quan tiến hành đấu giá quyền sử dụng đất, cơ quan làm thủ
tục đăng ký xác lập quyền sử dụng đất cho người nhận đất để xử lý nợ).
Để hạn chế những bất cập đó, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị
định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm ra đời, cùng với những
quy định cụ thể đã phần nào tăng cường khả năng thu hồi nợ cho bên
Theo quy định tại mục B.III.3 thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT/
NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC, để đấu giá quyền sử dụng đất, tổ chức
21
22
tín dụng phải gửi hồ sơ đề nghị cấp có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân
huyện đối với đất đã thế chấp của hộ gia đình, cá nhân, Ủy ban nhân dân
tỉnh đối với đất đã thế chấp của tổ chức).
Tuy vậy, trong trường hợp nếu Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền
không cho phép bán đấu giá quyền sử dụng đất, thì thông tư liên tịch số
03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC lại không đề cập. Do đó
tổ chức tín dụng không thể xử lý được tài sản thế chấp để thu hồi khoản
nợ vay của khách hàng, và kết quả, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ
chức tín dụng không được bảo đảm.
Về thời hạn để hoàn tất việc xử lý một tài sản thế chấp, các tổ chức
tín dụng phải mất 112 ngày làm việc: bao gồm thời hạn thông báo bán đấu
giá, thời hạn đăng ký mua tài sản, thời hạn chuyển quyền sở hữu, quyền
sử dụng tài sản... (theo Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT/NHNNBTP-BCA-BTC-TCĐC. Ngoài ra, thời hạn này có thể phải kéo dài hơn
do tài sản không tìm được người mua, hoặc những trở ngại từ phía
Trung tâm bán đấu giá, chủ sở hữu tài sản gây khó khăn không có thiện
chí hợp tác…
Vấn đề liên quan đến việc đấu giá tài sản thế chấp là quyền sử dụng
đất trong trường hợp doanh nghiệp phá sản cần được xem xét hoàn thiện
để phù hợp với Luật Đất đai năm 2003 (có hiệu lực thi hành từ 1/7/2004).
Việc kê biên và định giá tài sản dưới dạng hiện vật là quyền sử dụng đất
được thực hiện như thế nào?
dụng hay thu hồi để bán đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi vốn cho
doanh nghiệp... Trong trường hợp này, tài sản gắn liền với đất được giải
quyết như thế nào, vấn đề đặt ra là cần phải xem xét sửa đổi, bổ sung
nhằm hoàn thiện các quy định về việc giải quyết quyền sử dụng đất đối
với các doanh nghiệp bị phá sản nói riêng và hoàn thiện luật phá sản nói
chung không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền lợi cho các
doanh nghiệp bị phá sản mà còn cho cả các bên liên quan, trong đó có
các ngân hàng thương mại với tư cách là chủ nợ... Từ thực tế trên có thể
thấy được thực trạng xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trong hoạt động ngân
hàng hiện nay đã và đang gặp phải những tác động, trở ngại không nhỏ
của pháp luật như thế nào khi nó không đáp ứng được các yêu cầu của
thực tiễn. Trong khi hệ thống ngân hàng thương mại còn đang căng thẳng
về nguồn vốn để cấp tín dụng cho nền kinh tế thì hàng tỷ đồng vốn của
nó còn bị đóng băng trong khối tài sản thế chấp của các vụ án đã xét xử
và đang chờ thi hành án.
Chương 3
MỘT SỐ KIỆN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM.
3.1.Cơ sở để hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại ở việt nam
- Chưa có sự thống nhất giữa quy định của Luật Phá sản và Luật Đất
đai: Theo quy định của Luật Phá sản năm 2004 thì trong trường hợp
doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản, tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố
phá sản trong đó, có quyền sử dụng đất, được bán đấu giá để trang trải
các khoản nợ của doanh nghiệp bị phá sản. Nhưng, theo quy định của
Luật Đất đai năm 2003 (Điều 38, Điều 43) thì: Nhà nước sẽ thu hồi đất
đã giao trong trường hợp tổ chức bị giải thể, phá sản nhưng lại không đề
cập đến hậu quả pháp lý của việc thu hồi đó; giao cho tổ chức khác sử
- Xuất phát từ chính nhu cầu của các ngân hàng thương mại trong
việc mở rộng hoạt động cung cấp tín dụng cho nền kinh tế.Một mặt vừa
phải đảm bảo tính an toàn, mặt khác luôn đòi hỏi tính hiệu quả và tính
cạnh tranh cao.
23
24
- Xuất phát từ những bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật về thế
chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
- Xuất phát từ những yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh
vực ngân hàng đã và đang diễn ra.
3.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
- Các quy định của pháp luật cần đề cao nguyên tắc tự chủ, tự do
thỏa thuận, bình đẳng giữa các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng tín
dụng và hợp đồng thế chấp tài sản.
- Các chủ thể trong hợp đồng thế chấp tài sản cần được bình đẳng.
- Các quy định liên quan đến việc thế chấp tài sản cần xác định rõ
những điều kiện, trình tự, thủ tục, yêu cầu đối với tài sản thế chấp… để
khách hàng vay tiếp cận được nguồn vốn vay thuận lợi hơn.
- Pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của ngân
hàng thương mại cần bảo đảm tính đồng bộ với các văn bản pháp luật khác.
- Pháp luật về thế chấp tài sản cần sửa đổi theo hướng phù hợp với
thông lệ quốc tế trong hoạt động ngân hàng.
3.3. Một số kiến nghị,đề xuất cụ thể về pháp luật thế chấp tài sản
trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
-Khắc phục tình trạng thiếu quy định của pháp luật về việc bên nào
có quyền giữ bản chính giấy chứng nhận sở hữu tài sản thế chấp, cầm cố
là phương tiện vận tải, theo quan điểm của tác giả cần lựa chọn cách thỏa
thuận sao cho phù hợp với tính chất của các loại tài sản mà ngân hàng
thương mại nhận cầm cố, thế chấp, nhằm bảo đảm được quyền và lợi ích
của các bên khi tham gia giao kết hợp đồng tín dụng.
KẾT LUẬN
Sau khi nghiên cứu, phân tích các vấn đề cơ bản lý luận, thực tiễn của
các quy định pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động cho vay của
các ngân hàng thương mại, ngoài việc nêu ra những hạn chế, ưu điểm của
hệ thống pháp luật về thế chấp tài sản, tác giả đưa ra một số ý kiến sau:
1. Nhằm bảo đảm cho hoạt động của các ngân hàng thương mại đạt
được các mục tiêu như: an toàn, hiệu quả, tính cạnh tranh các ngân hàng
thương mại cần áp dụng các biện pháp thế chấp tài sản để bảo đảm cho
các khoản vay của khách hàng, nhằm giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra
ở mức thấp nhất.
2. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại luôn được đặt ra cấp thiết
trước yêu cầu cấp tín dụng của ngân hàng cho nền kinh tế, đồng thời bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.
3. Để việc hoàn thiện pháp luật về thế chấp tài sản trong hoạt động
cho vay của ngân hàng thương mại được an toàn, hiệu quả cao cần xây
dựng các quy định có tính chất dự báo, phòng ngừa, hạn chế rủi ro. Đồng
thời kết hợp nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm của nước ngoài trong việc
xây dựng pháp luật điều chỉnh việc thế chấp tài sản.
Tác giả hy vọng những kiến nghị trong luận văn này là tài liệu để các
ngân hàng thương mại, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong việc áp
dụng, xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về thế chấp tài
sản trong hoạt động cho vay của ngân ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
- Cần thống nhất các quy định của pháp luật hiện hành về việc công
chứng, chứng thực hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất để khắc phục tình trạng thiếu thống nhất và không đồng bộ
như hiện nay.
- Yêu cầu về đăng ký giao dịch bảo đảm cần tập trung thống nhất.
25
26
- Xem thêm -