BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
LƯƠNG KHÔI NGUYÊN
LƯƠNG KHÔI NGUYÊN
LUẬT KINH TẾ
LUẬT KINH TẾ
LƯƠNG KHÔI NGUYÊN
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ
CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ
KHÓA: 32
KHÓA: 32
TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 8/2022
LƯƠNG KHÔI NGUYÊN
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ
CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
NGÀNH: 8380107
Người hướng dẫn khoa học
Học viên
MSHV
Lớp
Khóa
: Pgs.Ts Nguyễn Văn Vân
: Lương Khôi Nguyên
: 19320710269
: Luật Kinh tế
: 32
TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 8/2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này do tác giả - học viên cao học nghiên cứu độc lập và hoàn toàn
chịu trách nhiệm về nội dung. Các trích dẫn đều được tác giả trích dẫn đúng quy định
của nhà trường; các số liệu đều được tác giả trích dẫn từ nguồn xác minh và được sử
dụng một cách trung thực; các lập luận, đánh giá, phân tích, kiến nghị đều đều dựa
trên kết quả nghiên cứu và quan điểm cá nhân của người viết.
Tác giả
Lương Khôi Nguyên
DANH MỤC VIẾT TẮT
Ý Nghĩa
Chữ viết tắt
VAMC
Công ty TNHH một thành viên quản lý tài sản của các tổ chức tín
dụng Việt Nam
DATC
Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam
(VietNam Debt and Asset Trading Corporation)
TAMC
Công ty quản lý tài sản Thái Lan
(Thai Asset Management Corporation)
IBRA
Cơ quan Tái cấu trúc Ngân hàng Indonesia
(Indonesia Bank Restructuring Agency)
TCTD
Tổ chức tín dụng
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu .......................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu đề tài ..............................................................................4
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu ........4
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài ......................................................4
4.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài .............................................................5
5. Kết cấu luận văn ...............................................................................................6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG ..............................7
1.1. Một số vấn đề lý luận về hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng.....7
1.1.1. Khái niệm nợ của tổ chức tín dụng ..........................................................7
1.1.2. Khái niệm hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng ...........................8
1.1.3. Đặc điểm hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng ..........................10
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật của hoạt động mua bán nợ của tổ chức
tín dụng.....................................................................................................................13
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng ....13
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng
...............................................................................................................................15
1.2.3. Vai trò pháp luật về hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng ..........17
1.2.4. Nguồn của pháp luật về hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng ...19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ
CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG .................................................................................22
2.1. Chủ thể hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng ..............................22
2.1.1. Bên bán nợ ..............................................................................................22
2.1.2. Bên mua nợ.............................................................................................25
2.2. Đối tượng của hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng ....................33
2.2.1. Đối tượng của hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng...................33
2.2.2. Chuyển giao khoản nợ trong hoạt động mua bán nợ của tổ của tổ chức tín
dụng ......................................................................................................................36
2.3. Xác định giá chuyển nhượng khoản nợ trong hoạt động mua bán nợ của
tổ chức tín dụng .......................................................................................................38
2.3.1. Phương pháp xác định giá chuyển nhượng theo giá trị sổ sách .............38
2.3.2. Phương pháp xác định giá chuyển nhượng theo giá thị trường .............39
2.4. Thanh toán trong hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng..............42
2.4.1. Thanh toán bằng tiền ..............................................................................42
2.5.2. Thanh toán bằng trái phiếu, trái phiếu đặc biệt ......................................44
2.5. Hợp đồng mua bán nợ của tổ chức tín dụng .............................................51
2.5.1. Hình thức hợp đồng mua bán nợ của tổ chức tín dụng ..........................51
2.5.2. Hiệu lực của hợp đồng mua bán nợ của tổ chức tín dụng ......................52
2.5.3. Chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng mua bán nợ của tổ chức tín dụng .............56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................60
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM ...62
3.1. Giải pháp về chủ thể tham gia hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng
...................................................................................................................................63
3.2. Giải pháp về đối tượng của hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng
...................................................................................................................................67
3.3. Giải pháp về xác định giá chuyển nhượng khoản nợ của tổ chức tín dụng
...................................................................................................................................68
3.4. Giải pháp về thanh toán trong hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng
...................................................................................................................................69
3.5. Giải pháp về hợp đồng trong hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng
...................................................................................................................................71
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................74
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................77
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các tổ chức tín dụng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nền
kinh tế. Các tổ chức tín dụng có thể kết nối lại với nhau, tạo thành huyết mạch của cả
nền kinh tế. Thông qua hệ thống các tổ chức tín dụng, dòng vốn được hình thành và
luân chuyển một cách dể dàng, thông suốt trong nền kinh tế. Hệ thống này hoạt động
càng thông suốt thì nền kinh tế càng phát triển. Tuy nhiên, không phải lúc nào, mọi
thứ cũng diễn ra như vậy. Khủng hoảng tín dụng 2008 ở Mỹ bắt nguồn từ những
khoản cho vay thế chấp bất động sản dưới chuẩn. Khi bong bóng bất động sản đạt
đến cực đại và vỡ. Bất động sản không bán được, người đi vay mất khả năng thanh
toán, tổ chức tín dụng cho vay gặp khó khăn trong việc thu hồi gốc và lãi, và các
khoản nợ này trở thành nợ xấu. Rủi ro tín dụng luôn gắn liền với các khoản nợ không
có khả năng thu hồi. Ở giai đoạn khủng hoảng kinh tế trầm trọng này, việc mua bán
các khoảng nợ đã giúp nước Mỹ giải cứu được những tổ chức tín dụng sắp “chết”.
Hay việc thành lập công ty Danaharta – Công ty AMC của Malaysia đã giải phóng
thành công 70% nợ xấu nhờ trao cho tổ chức này khung pháp lý đặc biệt. Trong những
năm gần đây, nhu cầu giải quyết ngay bài toán nợ xấu không còn cấp thiết như thời
điểm trước. Tuy nhiên, để ổn định và phát triển kinh tế, thì giải quyết nợ xấu luôn là
một trong những nội dung ưu tiên hàng đầu trong chính sách kinh tế.
Nợ xấu là thước do cơ bản nhất để phản ánh hiệu quả hoạt động của tổ chức
tín dụng có tốt hay không cũng như phản ánh chính sách pháp luật và cơ chế quản lý
của cơ quan chức năng. Tỷ lệ nợ xấu cao và kéo dài của toàn bộ hệ thống tín dụng sẽ
làm suy yếu về mặt tài chính của quốc gia, ảnh hưởng đến nhu cầu vốn của doanh
nghiệp và cả thu nhập, việc của cá nhân,… Vì thế việc ngăn ngừa nợ xấu xảy ra, xử
lý nợ xấu đang có là nhu cầu cấp thiết để phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng và
nền kinh tế của quốc gia.
Cũng vì thế, ngày 19 tháng 07 năm 2017, Thủ tướng chính phủ phê duyệt
Quyết định số 1058/QĐ-TTg để thông qua ”Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức
tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020”. Quyết định đã xác định mục
tiêu chính chính là tiếp tục cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với trọng tâm
là xử lý triệt để nợ xấu và các tổ chức tín dụng yếu kém. Đồng thời phải xử lý, kiểm
soát nợ xấu để đến năm 2020 đưa tỷ lệ nợ xấu nội bản của các tổ chức tín dụng, nợ
xấu đã bán cho Công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC)
2
là nợ đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ xuống dưới 3%.1 Đồng thời ban hành
Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các Tổ chức tín dụng.
Ngày 30/9/2020, Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức diễn đàn Toàn cảnh ngân
hàng Việt Nam 2020 với chủ đề “Tái cơ cấu, xử lý nợ xấu: Kết quả và khuyến nghị
chính sách”. Trong buổi lễ, đã chỉ ra những kết quả khả quan khi thực hiện đề án.
Chỉ tính riêng Công ty quản lý tài sản (VAMC) thì đã xử lý được 67.612 tỷ đồng nợ
xấu của các tổ chức tín dụng. Để đạt được kết quả này, đã có sự phối hợp từ các cơ
quan có thẩm quyền cùng với các tổ chức tín dụng. Cụ thể là những chính sách đồng
bộ và giải thích tích cực từ cả 2 phía, đồng thời phải liên tục hoàn thiện khuôn khổ
pháp lý về cơ chế, chinh sách xử lý nợ xấu, tài sản đảm bảo,… để phát triển thị trường
mua bán nợ từ đó đảm bảo an toàn tín dụng.
Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, có nhiều cách để xử lý nợ nói chung và nợ
xấu nói riêng, ví dụ như: tiến hành cơ cấu lại khoản nợ (điều chỉnh kì hạn trả nợ, gia
hạn nợ); trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro; xử lý tài sản bảo đảm; chuyển nợ thành
vốn góp cổ phần; tái cơ cấu lại doanh nghiệp nợ;… Biện pháp mua bán nợ được xem
là biện pháp có hiệu quả nhất và được đẩy mạnh trong những năm gần đây. Vì thế,
việc xây dựng một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng
là nhu cầu tất yếu để hoạt động này được diễn ra trơn tru. Tuy nhiên, hoạt động mua
bán nợ của các tổ chức tín dụng từ trước đến đây còn bộc lộ nhiều bất cập khi triển
khai, thiếu quy trình thống nhất. Các quy định điều chỉnh hoạt động mua bán nợ của
tổ chức tín dụng nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau và chứa những nội dung gây
mâu thuẫn, không thống nhất.
Với mong muốn biến hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng thành công
cụ hiệu quả trong việc xử lý nợ nói chung và nợ xấu nói riêng. Tác giả đã lựa chọn
đề tài: “PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA TỔ CHỨC TÍN
DỤNG” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hoạt động mua bán nợ không phải là một hoạt động mới hay xa lạ của các tổ
chức tín dụng. Vì thế cũng có những đề tài đã nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng. Cụ thể như sau:
1
Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 (Ban hành kèm
quyết định số1058/QĐ-TTg ngày 19 tháng 7 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ
3
- Lê Thu Uyên, “Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của doanh nghiệp kinh
doanh hoạt động mua bán nợ”, Khóa luận tốt nghiệp Trường đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh, 2020.
Tác giả Lê Thu Uyên tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
áp dụng với các quy định pháp luật liên quan đến: (i) bản chất và vai trò của hoạt
động mua bán nợ của doanh nghiệp kinh doanh hoạt động mua bán nợ của doanh
nghiêp kinh doanh hoạt động mua bán nợ; (ii) điều kiện kinh doanh hoạt động mua
bán nợ và (iii) phương thức mua bán nợ và quá trình xử lý nợ, tài sản bảo đảm đi kèm
với khoản nợ. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài, tác giả không tiến hành phân tích sâu
từng biện pháp xử lý tài sản bảo đảm, thay vào đó tập trung chỉ ra những rủi ro cho
bên mua nợ khi thực hiện các phương thức xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa thuận.
- Hoàng Ngọc Lam, “Hợp đồng mua bán nợ giữa ngân hàng thương mại và
công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng”, Luận văn Thạc sĩ Trường đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2019.
Luận văn của tác giả Hoàng Ngọc Lam nghiên cứu là đưa ra một số vấn đề
liên quan đến hợp đồng mua bán nợ giữa NHTM và VAMC, từ đó tiến hành nghiên
cứu, phân tích các quy định pháp luật liên quan về các vấn đề đã đặt ra nhằm làm
sáng tỏ thực trạng pháp luật hiện hành, lý giải những tồn tại, vướng mắc trong quá
trình thực hiện hợp đồng. Trong luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu về chủ thể, đối
tượng của hợp đồng, phương thức thanh toán và quyền và nghĩa vụ của các bên trong
hợp đồng mua bán nợ giữa ngân hàng thương mại và VAMC, và tập trung nghiên cứu
về chủ thể VAMC.
- Nguyễn Thị Bích Mai, “Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của các ngân
hàng thương mại ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng”, Luận văn thạc sĩ Trường đại học
luật thành phố Hồ Chí Minh, 2010.
Tác giả tập trung nghiên cứu với đối tượng chính là chủ thể bán nợ là các ngân
hàng thương mại hoặc các tổ chức có nhiệm vụ thực hiện việc mua bán nợ trực thuộc
ngân hàng thương mại. Và các khoản nợ được mua bán là khoản nợ mà các ngân hàng
thương mại cho khách hàng vay theo hợp đồng tín dụng. Vấn đề nổi bật luận văn đã
làm sáng tỏ bản chất pháp lý hoạt động mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở
Việt Nam thông qua so sánh giữa hoạt động này với hoạt động mua bán nói chung,
với giao dịch chuyển giao quyền yêu cầu, với chuyển nhượng hợp đồng và với các
hoạt động tín dụng.
4
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xây dựng các giải pháp đồng bộ, khả thi,
hiệu quả để hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng có thể diễn ra thuận lợi, từ đó
góp phần ổn định và phát triển đất nước.
Từ mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ đi theo những mục tiêu cụ thể như
sau:
Thứ nhất, luận văn sẽ hệ thống hóa những lý luận cơ bản về các loại nợ của tổ
chức tín dụng. Nghiên cứu và đưa ra cái nhìn tổng quát về các loại nợ và đặc điểm
của chúng. Đồng thời là vai trò của hoạt động mua bán nợ và các nguyên tắc của hoạt
động này.
Thứ hai, đánh giá các quy định pháp luật Việt Nam của hoạt động mua bán nợ
của tổ chức tín dụng và thực tiễn áp dụng. Từ đó nhận diện những điểm hạn chế khi
áp dụng những quy định pháp luật về mua bán nợ của tổ chức tín dụng.
Thứ ba, đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động
mua bán nợ của tổ chức tín dụng Việt Nam
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn tập trung nghiên thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật vào hoạt
động mua bán nợ với bên bán là tổ chức tín dụng. Với phạm vi:
Thứ nhất, khung pháp lý điều chỉnh hoạt động mua bán nợ, trong đó bên bán
nợ là tổ chức tín dụng – đề tài không nghiên cứu về việc hoạt động mua bán nợ đã
được bán lại và không đi sâu vào việc nghiên cứu việc mua bán khoản nợ bằng việc
thế quyền yêu cầu giữa các chủ thể mua bán nợ
Thứ hai, đối tượng hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng phát sinh từ
hoạt động cấp tín dụng (thông qua các nghiệp vụ như: cho vay, chiết khấu, bao thanh
toán, bảo lãnh,...). Tuy nhiên, phần lớn các khoản nợ cần thu hồi của tổ chức tín dụng
phát sinh từ hoạt động cho vay dựa trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín
dụng và khách hàng vay là cá nhân, doanh nghiệp. Vì thế, trong phạm vị luận văn,
tác giả tập trung nghiên cứu về hoạt động mua bán nợ phát sinh từ hoạt động cho vay
(không nghiên cứu hoạt động mua bán nợ phát sinh từ hoạt động cấp tín dụng khác)
Thứ ba, bên mua nợ theo pháp luật Việt Nam hiện nay khá đa đạng, như:
VAMC (Công ty Quản lý Tài sản của các tổ chức tín dung), DATC (Công ty TNHH
mua bán nợ Việt Nam – trực thuộc Bộ Tài chính – doanh nghiệp nhà nước hạng đặc
biệt), các AMC (Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản ngân hàng thương mại trực
5
thuộc các ngân hàng) và các tổ chức, cá nhân khác. Mỗi chủ thể được thành lập với
mục tiêu, nhiệm vụ và có cách thức hoạt động khác nhau. Vì thế, tác giả tập trung
nghiên cứu, đánh giá thực trạng quy định pháp luật về hoạt động mua bán nợ của tổ
chức tín dụng với chủ thể chính của bên bán nợ là Công ty Quản lý Tài sản của các
tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Bên cạnh đó sẽ so sánh với các chủ thể như
DATC và các AMC trực thuộc ngân hàng thương mại để có góc nhìn đầy đủ.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu, khái quát phái luật về hoạt động mua bán nợ của tổ chức
tín dụng, từ đó phân tích những thực trạng, bất cập và đưa ra phương hướng giải
quyết. Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn đã vận dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu khác nhau, kết hợp giữa truyền thống với hiện đại và các phương
pháp này thường được sử dụng trong nghiên cứu khoa học pháp lý, cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích kết hợp bình luận, đánh giá: Mục đích nhằm làm rõ
những quy định của pháp luật về pháp luật mua bán nợ của tổ chức tín dụng. Thông
qua lý thuyết, quan điểm khoa học về pháp luật mua bán nợ của tổ chức tín dụng,
thông qua các tài liệu như hợp đồng mua bán nợ, tình huống thực tiễn áp dụng, bản
án và phán quyết của tòa án,… tác giả vận dụng để làm sáng tỏ những vấn đề về pháp
luật về hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng. Tác giả đã thực hiện theo quy
trình: bắt đầu từ lý thuyết nền, xây dựng, hệ thống các vấn đề lý luận dựa trên các
quan điểm pháp lý tại Việt Nam và trên thế giới, từ đó đánh giá, phân tích và rút ra
kết luận để giải quyết các vấn đề đã đặt ra. Phương pháp này được tác giả vận dụng
xuyên suốt luận văn.
Phương pháp so sánh luật học: Mục đích nhằm so sánh, đánh giá các quy định
pháp luật ở cac văn bản khác nhau mà chúng đều điểu chỉnh các vấn đề xung quanh
hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng. Bằng phương pháp này, luận văn tập
trung làm sáng tỏ sự tương đồng và những khác biệt giữa các vấn đề lí luận giữa quan
điểm của các nhà nghiên cứu trong nước và trên thế giới, đồng thời là so sánh sự
tương đồng và khác biệt giữa các văn bản về pháp luật về hoạt động mua bán nợ của
tổ chức tín dụng. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở chương I và II của luận
văn.
Phương pháp tổng hợp: Mục đích của phương pháp nhằm rút ra những kết
luận tổng quan, những quan điểm, các đề xuất, kiến nghị về mặt lý luận và kinh
nghiệm điều chỉnh pháp lý đối với hoạt động mua bán nợ trong hoạt động mua bán
nợ của tổ chức tín dụng. Tác giả thực hiện bằng cách liên kết, cô động những yếu tố
6
liên quan giữa các vấn đề pháp lý được đề cập, từ đó phân tích, khái quát hóa,… nhằm
chứng minh các luận điểm mà tác giả đưa ra. Phương pháp này được sử dụng xuyên
suốt luận văn.
Ngoài ra, luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp tiến cận về điều
kiện, hoàn cảnh của mỗi quốc gia, tác giả nghiên cứu, tìm hiểu xem xét dưới góc nhìn
Việt Nam. Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt luận văn.
5. Kết cấu luận văn
Luận văn “PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA TỔ
CHỨC TÍN DỤNG”. Được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán
nợ của tổ chức tín dụng
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng
Chương 3: Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua bán
nợ của tổ chức tín dụng ở Việt Nam
7
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NỢ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1. Một số vấn đề lý luận về hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng
1.1.1. Khái niệm nợ của tổ chức tín dụng
Tổ chức tín dụng (sau đây gọi tắt là TCTD) kinh doanh các dịch tài chính,
thông qua các sản phẩm chủ yếu từ hoạt động cấp tín dụng. Có thể xem, nợ phát sinh
từ hoạt động cấp tín dụng của TCTD cũng giống như nghĩa vụ tài chính trong quan
hệ dân sự - kinh tế,. Tuy nhiên, vì tính chất đặc thù, nên cũng có nhiều sự khác biệt
giữa chúng, cụ thể:
Theo Khoản 2, Điều 3 Thông tư 02/2013/TT-NHNN về phân loại tài sản có,
mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài quy đinh khoản nợ là số tiền tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã gửi, giải ngân từng lần theo thỏa thuận đối với
khoản nợ quy định tại Thông tư này. Cũng trong thông tư này, thì Điều 1 Khoản 1
quy định nợ được phát sinh từ hoạt động cho vay; cho thuê tài chính; chiết khấu; tái
chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá trị khác; bao thanh toán; các
khoản cấp tín dụng dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng…Thông tư 02/2013/TTNHNN đã chỉ rõ “nợ” phát sinh từ hoạt động kinh doanh của TCTD chính là số tiền
mà TCTD đã gửi, hoặc giải ngân cho khách hàng, đối tác thông qua hoạt động cấp
tín dụng.
Về mặt lý luận thì nợ là một loại nghĩa vụ tài sản giữa bên cấp tín dụng và bên
nhận tín dụng (khách hàng vay). Con nợ phải có nghĩa vụ trả khoản nợ bằng tài sản
của mình và bên chủ nợ có quyền thu hồi nợ. Nợ sẽ đi kèm với quyền đòi nợ, đây là
một loại tài sản thể hiện dưới dạng quyền tài sản và vì thế có thể định giá và chuyển
giao. Chủ nợ, cụ thể ở đây là TCTD có thể chuyển giao quyền đòi nợ thông qua các
giao dịch dân sự, thương mại với các chủ thể có nhu cầu. Mặc dù nợ nói chung và nợ
của TCTD nói riêng mang bản chất rủi ro, tiềm ẩn nguy cơ không thể thu hồi, nhưng
nếu được đánh giá khách quan thì nợ vẫn là một loại tài sản, khách thể của giao dịch
mua bán, chuyển nhượng,… và đem lại lợi nhuận cho các tổ chức, cá nhân có khả
năng khai thác.
Dưới góc độ pháp lý, thì nợ phát sinh từ số tiền mà TCTD cấp cho bên nhận
tín dụng với mục đích, thời gian,… theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Khoản
8
nợ này sẽ bao gồm gốc, lãi và các chi phí để khoản vay được hoàn tất. Nợ của TCTD
là một quan hệ pháp luật giữa TCTD và bên nhận tín dụng và được pháp luật công
nhận, bảo vệ. Pháp luật cung cấp cho TCTD các quyền xử lý đối với khoản nợ hoặc
chuyển giao khoản nợ khi bên nợ không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. TCTD
có quyền khởi kiện con nợ ra các cơ quan tài phán để bảo vệ quyền lợi và đồng thời
có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành khi bản án có hiệu lực. Vì
thế, quyền đòi nợ đi kèm theo khoản nợ cũng được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Quyền đòi nợ của TCTD là một quyền đối nhân, vì TCTD chỉ có quyền yêu cầu con
nợ thanh toán, chứ không có quyền thi hành, xử lý trực tiếp đối với tài sản của con
nợ.
Bên cạnh đó, thanh toán khoản nợ cho TCTD là nghĩa vụ của con nợ. Nghĩa
vụ này phát sinh từ thời điểm hợp đồng tín dụng có hiệu lực và khách hàng nhận được
khoản giải ngân từ TCTD. Xét trên khía cạnh pháp lý thì nghĩa vụ thanh toán khoản
nợ của bên nhận tín dụng gắn liền với quyền đòi nợ của TCTD. Nợ của TCTD phản
ánh bản chất trái ngược nhau của hai chủ thể về cùng một đối tượng, một bên có nghĩa
vụ thanh toán khoản nợ và bên còn lại có quyền đòi nợ. Khách hàng được cấp tín
dụng bởi TCTD thì TCTD có quyền thực hiện nghiệp vụ của mình để thu hồi khoản
nợ hoặc chuyển nhượng cho bên thứ ba để thu hồi khoản nợ. TCTD bán nợ thì quyền
đòi nợ sẽ chuyển giao cho bên mua nợ. Khi chuyển giao chỉ thay đổi chủ thể có quyền
chứ không làm thay đổi bản chất nghĩa vụ của con nợ và quyền thu hồi nợ này.
Như vậy, bản chất pháp lý nợ của TCTD thì xoay quanh 3 yếu tố: (i) quyền
đòi nợ là quyền tài sản; (ii) nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay; (iii) quyền đòi nợ
của TCTD. Vì thế, qua phân tích, thì có thể định nghĩa như sau: “Nợ của tổ chức tín
dụng là một quyền tài sản bao gồm gốc, lãi và các chi phí để khoản vay được hoàn
tất mà cá nhân, tổ chức phải có nghĩa vụ thanh toán tại một thời điểm xác định theo
thỏa thuận với tổ chức tín dụng”
1.1.2. Khái niệm hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng
Trong nhiều năm qua, hệ thống các TCTD Việt Nam và trên thế giới đã có
những bước phát triển vượt bậc, kéo theo đó là những hệ lụy, rủi ro luôn tiềm ẩn,
chực chờ đó là những khoản nợ nghi ngờ có khả năng mất vốn – hay còn gọi là nợ
xấu. Chính vì thế, nhiệm vụ trọng tâm của toàn bộ hệ thống các TCTD trong xuyên
suốt gần 20 năm qua luôn là hướng tới giải quyết các khoản nợ nghi ngờ có khả năng
mất vốn này, đưa tỷ lệ nợ xấu về mức an toàn. Việc hoạt động mua bán nợ của TCTD
9
hình thành như một hoạt động tất yếu để giải quyết tình trạng này hoặc đôi lúc chỉ để
giảm tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro, tăng giới hạn cho vay của TCTD.
Theo Bộ luật Dân sự thì nợ được xem là nghĩa vụ, thì hoạt động mua bán nợ
là chuyển giao quyền yêu cầu. Trong quan hệ nghĩa vụ, thì chuyển giao quyền yêu
cầu là sự thỏa thuận giữa bên thứ ba (bên thế quyền) nhằm chuyển giao quyền yêu
cầu cho bên thứ ba đó. Bên thế quyền là chủ thể mới, có quyền yêu cầu bên có nghĩa
vụ phải thực hiện nghĩa vụ của họ đối với mình2. Hoạt động mua bán nợ phát sinh từ
hoạt động tín dụng chính là mua bán tài sản vì nợ chính là tài sản hay cụ thể hơn là
quyền tài sản. Với quy định pháp luật về chuyển giao quyền yêu cầu hiện nay thì quan
hệ này được xây dựng trên nền tảng thống nhất ý chí giữa các bên chủ thể, ở đây là
TCTD bán nợ và bên mua nợ. Tức là trong quan hệ này, thì TCTD có nghĩa vụ chuyển
giao quyền đòi nợ và quyền yêu cầu con nợ thanh toán tiền mua nợ, đồng thời bên
mua nợ có nghĩa vụ thanh toán tiền mua nợ và có quyền quyết định đối với khoản nợ.
Đây là quan hệ song vụ và theo pháp luật hiện nay quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ
được thể hiện trong hợp đồng.
Trong khi đó, theo quy định pháp luật ngân hàng tại Khoản 1 Điều 3 Thông tư
09/2015/TT-NHNN quy định về hoạt động mua, bán nợ của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài thì mua bán nợ là thỏa thuận bằng văn bản về việc
chuyển giao quyền đòi nợ đối với skhoarn nợ phát sinh từ nghiệp vụ cho vay, khoản
trả thay trong nghiệp vụ bảo lãnh, theo đó bên bán nợ chuyển giao quyền sở hữu
khoản nợ cho bên mua nợ và nhận tiền thanh toán từ bên mua nợ. Tức là dưới góc độ
pháp lý, thì hoạt động mua bán nợ của TCTD là việc thỏa thuận bằng văn bản việc
chuyển giao lại một phần hay toàn bộ quyền đòi nợ của khoản nợ từ bên TCTD sang
cho bên mua nợ và trở thành chủ nợ mới. Cụ thể hơn, thì việc chuyển giao quyền đòi
nợ này đối với các khoản nợ còn dư nợ hoặc đang theo dõi tại ngoại bảng của TCTD
cho tổ chức, cá nhân có nhu cầu trở thành chủ sở hữu mới của khoản nợ.
Quyền đòi nợ của TCTD chính là một loại tài sản, thế nên việc chuyển giao
quyền đòi nợ phải được thực hiện như một giao dịch mua bán tài sản như Bộ luật Dân
sự và các quy định của pháp luật về ngân hàng. Đối tượng của việc chuyển giao và
việc chuyển giao mang đầy đủ tính chất của một giao dịch mua bán tài sản. Như vậy,
lúc này, có sự xuất hiện đầy đủ của chủ thể (hai bên giao kết hợp đồng), khách thể
(tài sản – quyền đòi nợ), nội dung (quyền và nghĩa vụ các bên theo quy định pháp
2
Lê Đình Nghị (2011), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam Nxb Giáo dục Việt Nam Hà Nội
10
luật) như vậy có thể kết luật hoạt động mua bán nợ của TCTD là một quan hệ pháp
luật.
Qua phân tích trên, thì có thể thấy bản chất pháp lý của hoạt động này thì xoay
quanh ba yếu tố: (i) Đối tượng chuyển giao: là khoản nợ phát sinh từ hoạt động cho
vay của các TCTD; (ii) Chủ thể tham gia: TCTD bán nợ và bên mua nợ; (iii) Quyền
và nghĩa vụ của TCTD bán nợ và bên mua. Qua phân tích, tác giả xin cho rằng hoạt
động mua bán nợ của TCTD có thể được hiểu là: “Hoạt động mua bán nợ của tổ
chức tín dụng là sự thỏa thuận bằng hợp đồng giữa bên bán nợ là tổ chức tín dụng
và bên mua nợ, trong đó đối tượng được chuyển giao là một phần hoặc toàn bộ quyền
đòi nợ của tổ chức tín dụng và quyền đối với tài sản bảo đảm (nếu có)”
1.1.3. Đặc điểm hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng
Hoạt động mua bán nợ của TCTD với chủ thể chính ở đây là TCTD có những
đặc điểm như sau:
- Thứ nhất, sự xuất hiện của TCTD là mang tính bắt buộc và là chủ thể trung
tâm của hoạt động.
Hoạt động mua bán nợ của TCTD phải gắn liền với TCTD – được thành lập
và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng. Các quy định được ban hành liên quan
đến hoạt động này đều được thiết kế để phù hợp với chủ thể bên bán nợ là TCTD.
Trong hoạt động mua bán nợ này TCTD tham gia với vai trò là bên bán nợ với mục
đích chính là ngăn ngừa, xử lý rủi ro tài chính chuẩn bị hoặc đang hoặc đã xảy ra. Khi
mà tỷ lệ nợ xấu tăng lên thì sẽ dẫn đến hiệu hậu quả như các TCTD, giảm uy tín, tỷ
lệ trích lập dự phòng tăng theo làm giảm lượng tiền có thể sử dụng để cấp tín dụng,…
đối với các TCTD và những tài sản đang cầm cố không được sử dụng tạo ra giá trị
thăng dư, giảm khả năng cung cấp vốn cho thị trường,… ảnh hưởng lớn toàn bộ nền
kinh tế quốc gia.
Mặc khác, thị trường mua bán nợ của TCTD có trở nên hấp dẫn, tăng khả năng
tham gia của các chủ thể mua nợ hay không phụ thuộc vào quy mô nợ mà các TCTD
tạo ra. Mặc dù hoạt động này ở Việt Nam và trên thế giới đều có sự điều tiết hay can
thiệp của nhà nước thông qua các chính sách, thông qua các doanh nghiệp nhà nước
chuyên kinh doanh dịch vụ mua bán nợ. Tuy nhiên, xu hướng phát triển trên thế giới
hiện nay thì những doanh nghiệp này tồn tại để mang tính hình mẫu định hướng cho
thị trường hoặc giải quyết nhu cầu nợ xấu cấp thiết trong thời gian ngắn. Khi sứ mệnh
hoàn thành thì những doanh nghiệp này sẽ giải thể hoặc chuyển đổi mô hình để
nhường lại vai trò chính cho các TCTD.
11
Vì thế, hoạt động mua bán nợ của TCTD thì TCTD là hạt nhân trung tâm trong
việc xử lý nợ, các tổ chức khác là vệ tinh xung quanh hổ trợ để TCTD có thể hoàn
thành nhiệm vụ chính trong hoạt động này.
- Thứ hai, đối tượng của hoạt động mua bán nợ của TCTD là quyền đòi nợ của
TCTD với khách hàng.
Trong quá trình hoạt động, quyền đòi nợ sẽ phát sinh thông qua các hợp đồng
cấp tín dụng giữa TCTD với khách hàng. Quyền đòi nợ ở đây chính là quyền đòi
những khoản nợ phát sinh trong hoạt động cấp tín dụng này. Hay nói cách khác, là
TCTD đang nắm quyền sở hữu đối với khoản nợ. Mỗi hoạt động cấp tín dụng sẽ có
những đặc trưng cơ bản khác nhau nhưng đều sẽ phát sinh quyền đòi nợ. TCTD sử
dụng quyền đòi nợ để mua bán từ đó thanh lý khoản nợ, giảm tỷ lệ trích lập dự phòng,
tăng nguồn tiền để tiếp tục hoạt động cấp tín dụng.
Quyền đòi nợ này phát sinh từ các kể cả những khoản nợ thanh toán đúng kỳ
hạn và những khoản nợ quá hạn. Mặc dù là khoản nợ đang được thanh toán đúng hạn
nhưng thực tế được các TCTD xem là rủi ro chưa xuất hiện chứ không phải là không
xuất hiện, vì thế TCTD vẫn sẽ bán những khoản nợ như thế để tránh tình trạng khoản
nợ chuyển sang nhóm khác, mặc dù cũng hiếm khi TCTD bán những khoản nợ thế
này.
Quyền đòi nợ là quyền tài sản nên có thể trị giá được bằng tiền. Tuy nhiên, giá
trị của quyền đòi nợ sẽ không được định giá bằng giá trị khoản nợ (gốc+lãi) mà được
định giá bằng giá trị thị trường hoặc dựa trên sổ sách kế toán. Bên mua nợ sẽ chỉ mua
quyền đòi nợ này với giá trị nhỏ hơn giá trị được định giá của khoản nợ, phần chênh
lệch này sẽ là là lợi nhuân hoặc là sự bù đắp cho rủi ro mà bên mua nợ phải đối mặt
khi ký hợp đồng mua bán nợ.
- Thứ ba, hoạt động mua bán nợ của TCTD là một hoạt động có tính rủi ro cao
cho tất cả các bên tham gia, đặc biệt là bên mua nợ
Theo quy định tại Điểm a Khoản 24 Điều 2 Thông tư 41/2016/ TT-NHNN về
tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì“Rủi ro tín
dụng là rủi ro do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một
phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng hoặc thỏa thuận với ngân hàng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trừ các trường hợp quy định tại điểm b khoản
này;”. Khi khách hàng không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ
trả nợ thì sẽ phát sinh khoản nợ. Như vậy, có thể xem nợ là rủi ro khi tổ chức tín dung
cho vay. Mức độ rủi ro này sẽ được đánh giá dựa trên tình trạng pháp lý của bên nợ
12
thông qua xếp hạng tín dụng. Và những khoản nợ phần lớn mang ra giao dịch thường
là nợ xấu nên xếp hạng tín dụng của bên nợ cũng thường là không tốt. Khi những
khoản nợ này được mua, thì những rủi ro sẽ chuyển giao cho bên mua nợ hay cách
nói cách khác là khi mua nợ thì bên mua đã chấp nhận rủi ro này.
Trong một số trường hợp để dể dàng bán đi các khoản nợ khó thu hồi hoặc để
tạm thời giảm tỷ lệ nợ xấu, TCTD sẽ sử dụng phương thức bán nợ có truy đòi. Tức
là nếu bên mua nợ không xử lý được thì khoản nợ sẽ được TCTD mua lại sau một
thời gian thỏa thuận. Khi nhiều khoản nợ cùng truy đòi 1 lúc sẽ dẫn đến tình trạng tỷ
lệ nợ xấu của TCTD tăng cao, vượt ngưỡng quy định làm suy giảm sức khỏe của toàn
bộ hệ thống tín dụng. Mặc dù quy định hiện nay, thì các TCTD vẫn phải trích lập dự
phòng đối với các khoản nợ đang được bán có truy đòi, tuy nhiên về bản chất phần
lớn những khoản nợ này chỉ tạm thời chuyển giao cho chủ thể khác và thường không
trực tiếp mua bằng tiền nên rủi ro khoản nợ này quay ngược lại TCTD khá cao.
Qua một số phân tích, có thể thấy hoạt động mua bán nợ của TCTD tiềm ẩn
nhiều nguy cơ cho TCTD và cả bên mua.
- Thứ tư, hoạt động mua bán của TCTD vận động theo nguyên tắc thị trường
nhưng vẫn cần có sự can thiệp của Nhà nước.
Một nền kinh tế muốn phát triển vững mạnh thì phải dựa trên quy luật cung
cầu, các nguyên tắc thị trường. Hoạt động mua bán nợ của TCTD cũng không thể
nằm ngoài quy luật tất yếu này. Tức là, một giao dịch mua bán nợ của TCTD phải
được xây dựng trên cơ sở thỏa thuận, tôn trọng tự do ý chí, không ép buộc hay lừa
dối… Các yếu tố như giá cả, phương thức thanh toán, công cụ thanh toán,… đều có
thể thỏa thuận dựa trên cơ sở pháp luật.
Tuy nhiên, hoạt động mua bán nợ của TCTD có sự đặc thù từ chủ thể là TCTD
và đặc thù từ tính chất của loại tài sản giao dịch, nên trong thời kỳ đầu hoặc một số
trường hợp đặc biệt thì vẫn cần có sự can thiệp của Nhà nước. Sự can thiệp này thể
hiện ở những chính sách, quy định mang tính bắt buộc hoặc định hướng để thị trưởng
phát triển theo mong muốn. Thực tiễn trên thế giới hiện nay, khi tình trạng nợ xấu
của một quốc gia vượt ngưỡng, tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng kinh tế,… thì Nhà nước
sẽ thành lập các công ty xử lý nợ xấu tham gia vào thị trường mua bán nợ để nhanh
chóng kéo tỷ lệ nợ xấu về mức an toàn. Các công ty này được xây dựng không chỉ
với mục đích xử lý nợ xấu bằng cách mua bán nợ với TCTD mà nó còn định hướng,
xây dựng cách thức,… để các chủ thể khác khi tham gia vào thị trường có tiêu chuẩn
mà hướng theo.
13
- Thứ năm, lợi nhuận không phải là mục tiêu chính của TCTD khi bán nợ mà
là kiểm soát tỷ lệ nợ xấu, ngăn ngừa rủi ro.
Trong gần như tất cả các giao dịch mua bán tài sản thì mục tiêu của người bán
luôn là tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên với với sản phẩm đặc thù là nợ thì mục đích
chính của TCTD không phải là lợi nhuận. Phần lớn các khoản nợ được đem ra trao
đổi thường thuộc nhóm nợ xấu, có nguy cơ mất vốn nên giá bán thực tế thường thấp
hơn số tiền mà bên nợ phải thanh toán hay nói cách khác là khi khoản nợ được đem
bán thì TCTD đã bị lỗ so với số tiền phải thu tại thời điểm đó. Cá biệt vẫn có những
trường hợp, TCTD thu được lợi nhuận từ việc bán khoản nợ, nhưng đây là những
khoản nợ đang được thanh toán đúng hạn, tuy nhiên những khoản nợ này không hấp
dẫn với người mua và không phải là đối tượng mà các công ty mua bán nợ Nhà nước.
Mục đích chính khi TCTD bán nợ và các công ty mua bán nợ Nhà nước hướng tới
luôn là đưa tỷ lệ nợ xấu của các TCTD về ngưỡng an toàn nhằm đảm bảo tính ổn định
của toàn bộ hệ thống và nền kinh tế quốc gia.
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật của hoạt động mua bán nợ của tổ
chức tín dụng
1.2.1. Khái niệm pháp luật về hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng
Pháp luật được xây dựng để điều chỉnh những quan hệ xã hội trong cuộc sống.
Quy phạm pháp luật được thiết kế để phù hợp với quy phạm xã hội và được Nhà nước
sử dụng để quản lý xã hội thông qua quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp. Chính vì
thế, mỗi quan hệ xã hội khác nhau, cần được xây dựng, thiết kế với một quy phạm
pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, quy phạm xã hội ngày càng phức tạp, nó không chỉ
được điều chỉnh bởi một quy phạm pháp luật trong lĩnh vực cụ thể mà còn thể hiện
những khía cạnh hay sự tác động của quan hệ xã hội khác, kéo theo sự cần thiết của
việc sử dụng quy phạm pháp luật khác để điều chỉnh. Trong quan hệ pháp luật về hoạt
động mua bán nợ của TCTD, ngoài việc chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp
luật của TCTD, quy phạm pháp luật của ngân hàng, thì còn phải chịu sự điều chỉnh
của hệ thống quy phạm pháp luật dân sự, pháp luật doanh nghiệp, pháp luật về tố tụng
dân sự,… Chính vì thế, việc xây dựng pháp luật về hoạt động mua bán nợ của TCTD
cần có sự hoà quyện, bổ trợ giữa các quy phạm pháp luật khác nhau, các văn bản pháp
luật khác nhau, tránh sự sung đột gây mâu thuẫn, chồng chéo.
Việc xây dựng pháp luật về hoạt động mua bán nợ của TCTD là phải giải quyết
các vấn đề nợ xấu trong hệ thống các TCTD, đảm bảo tính ổn định của nền kinh tế,…
nhưng bên cạnh đó, phải bảo vệ các quyền lợi của các chủ thể tham gia vào thị trường
- Xem thêm -