BÀI TẬP NHÓM THÁNG SỐ 1 – K36
MÔN: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
LỚP 3614 – NHÓM B1
Câu 7: Phân tích ba tình huống trong lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy để
làm rõ nội dung và ý nghĩa của quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại.
BÀI LÀM:
I. Cơ sở lý thuyết:
Quy luật lượng đổi - chất đổi là một trong ba quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Nó chỉ ra cách thức chung nhất của sự phát triển, khi cho
rằng sự thay đổi về chất chỉ xẩy ra khi sự vật, hiện tượng đã tích luỹ được
những thay đổi về lượng đã đạt đến giới hạn - đến độ. Quy luật lượng đổi-chất
đổi cũng chỉ ra tính chất của sự phát triển, khi cho rằng sự thay đổi về chất
của sự vật, hiện tượng vừa diễn ra từ từ, vừa có bước nhảy vọt làm cho sự vật,
hiện tượng có thể vừa có những bước tiến tuần tự, vừa có thể có những bước
tiến vượt bậc.
Chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng;
là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật,
hiện tượng làm cho chúng là chúng mà không phải là cái khác.
Lượng dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về các yếu
tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, tổng số các bộ phận, đại lượng; ở trình
độ quy mô và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Lượng
của sự vật, hiện tượng còn được biểu hiện ra ở kích thước dài hay ngắn, quy
mô to hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động
nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt.. vv..
-1-
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối. Tuỳ theo từng
mối quan hệ mà xác định đâu là lượng và đâu là chất; có cái là lượng ở trong
mối quan hệ này, lại có thể là chất ở trong mối quan hệ khác.
Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng.
Hai mặt này tác động biện chứng lẫn nhau theo cơ chế khi sự vật, hiện tượng
đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định. Độ dùng
để chỉ sự thống nhất giữa chất với lượng; là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự
thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật, hiện tượng vẫn
còn là nó, chưa chuyển hoá.
Lượng thay đổi đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện
tượng thay đổi, chuyển thành chất mới- thời điểm, mà tại đó bắt đầu xảy ra
bước nhảy- được gọi là điểm nút.
Bước nhảy dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá cơ bản về chất của sự vật,
hiện tượng do những thay đổi về lượng trước đó gây nên; là bước ngoặt cơ
bản trong sự biến đổi về lượng. Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về
lượng; là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, hiện
tượng.
Quy luật lượng đổi-chất đổi giúp nhận thức được sự phát triển của sự
vật, hiện tượng bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích luỹ dần về lượng. Vì vậy,
phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất.
Quy luật lượng đổi-chất đổi giúp nhận thức được rằng, quy luật xã hội
diễn ra thông qua các hoạt động có ý thức của con người. Vì vậy, khi đã tích
luỹ đầy đủ về lượng phải tiến hành bước nhảy, kịp thời chuyển những thay đổi
về lượng thành những thay đổi về chất; chuyển những thay đổi mang tính tiến
hoá sang bước thay đổi mang tính cách mạng. Chỉ có như vậy chúng ta mới
khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh thường được biểu hiện ở
chỗ coi sự phát triển chỉ là thay đổi đơn thuần về lượng.
Quy luật lượng đổi-chất đổi giúp nhận thức được sự thay đổi về chất
còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện
-2-
tượng. Vì vậy, trong hoạt động của mình, phải biết tác động vào cấu trúc và
phương thức liên kết trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành
sự vật, hiện tượng đó.
II. Ba tình huống trong lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy:
A. TỰ NHIÊN:
Trong lĩnh vực tự nhiên, có nhiều tình huống thể hiện quy luật chuyển hóa
từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại,
mà hiện tượng ô nhiễm nguồn nước là một ví dụ.
Từ khái niệm “chất”, ta hiểu khi xét trong mối quan hệ với các sinh vật
sống thì chất của nước sạch là nhân tố đặc biệt quan trọng và thiết yếu. Nước
là tài nguyên vật liệu quan trọng nhất của loài người và sinh vật trên trái đất.
Nếu cơ thể thiếu nước sẽ gây rối loạn các chất dẫn đến khát nước, rối loạn
nhiệt độ cơ thể, rối loạn tâm thần. Mỗi người cần ít nhất 1,5 lít nước uống mỗi
ngày. Nước chiếm 99% trọng lượng sinh vật sống trong môi trường nước và
44% trọng lượng cơ thể con người. Ngoài ra nước còn cần để tắm, giặt, vệ
sinh, chế biến thực phẩm… Nước còn được tiêu thụ với số lượng lớn trong
nông nghiệp, công nghiệp và để cứu hỏa. Ngoài chức năng tham gia vào chu
trình sống trên, nước còn là tác nhân điều hòa khí hậu, thực hiện các chu trình
tuần hoàn vật chất trong tự nhiên. Có thể nói sự sống của con người và mọi
sinh vật trên trái đất phụ thuộc vào nước.
Lượng của nước sạch ở đây chính là những tác nhân gây ra sự biến đổi về
mặt bản chất của nước sạch. Khiến nước sạch biến thành nước bẩn, gây hại
cho con người và các sinh vật sống xung quanh nguồn nước, sống trong
nguồn nước.
Nguồn nước sạch trên trái đất đang dần bị ô nhiễm nặng nề mà nguyên
nhân chủ yếu là do ý thức của con người. Sự gia tăng dân số; mặt trái của quá
trình công nghiệp hoá, hiện đai hóa; cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu; nhận
-3-
thức của người dân về vấn đề môi trường chưa cao là những nguyên nhân chủ
quan và khách quan dẫn đến ô nhiễm nguồn nước sạch.
Trong hoạt động công nhiệp, nguyên nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước
là việc xả các chất thải công nghiệp chưa qua xử lý vào nguồn nước, trong
hoạt động nông nghiệp là việc sử dụng các loại thuốc trừ sâu với số lượng lớn
khiến cho cây trồng không tích lũy hết mà còn lắng đọng lại trong đất, từ đó
bị nước mưa rửa trôi đi vào nguồn nước, ngay chính ở các hộ gia đình, việc
xả nước thải sinh hoạt trực tiếp ra các sông ở quanh khu vực sống cũng là một
nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước, đặc biệt là ở các đô
thị. Những việc làm hàng ngày của con người làm ô nhiễm nguồn nước như
quá trình thải các chất độc hại chủ yếu dưới dạng lỏng: các chất thải sinh hoạt,
chất thải công nghiệp, chất thải nông nghiệp, chất thải giao thông…vào môi
trường nước là quá trình tích lũy dần về lượng để dẫn tới sự biến đổi về chất
của nước sạch.
Trong một khoảng giới hạn nhất định, khi nước sạch chưa bị biến đổi
được gọi là “độ”. Đến một chừng mực nào đó, nước sạch bị biến chất là điểm
nút và bước nhảy là lúc nguồn nước sạch trở thành nguồn nước bị ô nhiễm.
Lúc này, chất của nguồn nước đó đã thay đổi thành chất gây hại cho sinh vật
sống dựa vào nước. Nước ô nhiễm gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe
con người, tỷ lệ người mắc các bệnh cấp và mãn tính như viêm màng kết, tiêu
chảy, ung thư…ngày càng tăng, các loài thủy sinh sống trong nước và các loại
cây trồng sử dụng trực tiếp nguồn nước bị ô nhiễm không thực hiện được quá
trình đồng hóa chất dinh dưỡng. Nước cần thiết cho cuộc sống nhưng cũng là
phương tiện lan truyền bệnh, làm suy yếu sức khỏe và có thể dẫn đến cái chết.
Theo tổ chức Y tế thế giới, 80% bệnh tật ở các quốc gia đang phát triển có
liên quan đến nước và vệ sinh môi trường.
Khi nước sạch trở thành nước bị ô nhiễm cũng là lúc chất mới ra đời. Sự
ra đời của chất mới đã có tác động trở lại, lúc này nước trở thành nguồn
-4-
truyền bệnh chính cho con người và những sinh vật sống xung quanh nguồn
nước, sinh vật sống trong nước.
Một ví dụ cụ thể ở Việt Nam về việc ô nhiễm nguồn nước, tạo nên sự biến
đổi từ lượng về chất và ngược lại đó là vào ngày 13/9/2008, sau hơn 3 tháng
theo dõi, đoàn kiểm tra liên ngành đã bắt quả tang công ty Vedan( huyện Long
Thành, tỉnh Đồng Nai) xả lén lút một lượng nước thải lớn chưa qua xử lý ra
sông Thị Vải. Theo điều tra, công ty này đã xây dựng hệ thống cống ngầm và
bắt đầu xả thải ra sông từ năm 1994. Theo ước tính, Vedan có thể xả nước thải
tới 5000m3/ ngày ra sông. Trước khi Vedan xả thải, nguồn nước sông Thị Vải
là nguồn sống của biết bao hộ dân sống hai bên dòng sông cùng với các loài
thủy sinh sống trong lòng sông. Sau một thời gian xả thải đã tích lũy dần
lượng chất gây ô nhiễm, vượt qua ngưỡng độ, đến điểm nút và bước nhảy là
dòng sông Thị Vải bị ô nhiễm, trở thành dòng sông “chết”.Theo các số liệu
thu thập được thì chỉ số DO( oxi hòa tan) tại đây thường xuyên dưới 0,5mg/l.
Với giá trị DO gần bằng 0 như vậy, các loài sinh vật không còn khả năng sinh
sống. Hơn nữa, hàm lượng COD vượt tiêu chuẩn cho phép 2-5 lần, hàm lượng
NH3 vượt từ 4-8 lần tiêu chuẩn cho phép. Chất lượng nước sông hiện nay
không thể dùng cho mục đích sinh hoạt và không thể phục vụ việc tưới tiêu
thủy lợi theo quy chuẩn quốc gia về chất lượng nước mặt. Sự biến đổi của
“chất” nước sông Thị Vải từ nước sạch trở thành nguồn nước bị ô nhiễm đã
kéo theo sự thay đổi về “lượng” của nước sông Thị Vải như vậy.
Từ thực tế là vấn đề ô nhiễm môi trường nước ngày càng trầm trọng và
đáng báo động chúng ta cần rút ra bài học nhận thức và hành động. Đó là cần
ngăn chặn những hành vi tích lũy dần về lượng như xả thải vào môi trường
nước, giữ cho chất của nước vẫn nằm trong phạm vi “độ”, tránh các hành
động tạo nên “bước nhảy” của nước từ nước sạch thành nước ô nhiễm. Nhưng
đồng thời cũng cần tăng cường cải tạo chất của nước bị ô nhiễm để tạo nên sự
biến đổi thành nước sạch. Đây là quá trình biến đổi từ lượng về chất mang
tính tích cực. Hiện nay, Việt Nam cũng đã đề ra nhiều biện pháp nhằm giữ cho
-5-
môi trường nước không bị ô nhiễm như: thành lập cục cảnh sát phòng chống
tội phạm về ô nhễm môi trường, đầu tư hàng trăm tỉ đồng vào việc cải tạo
nguồn nước ở những nơi bị ô nhiễm, tổ chức nhiều chương trình nhằm nâng
cao ý thức người dân về bảo vệ môi trường nước như chương trình Go green
cùng với các hoạt động tuyên truyền rộng rãi ở các thôn xóm, khu dân cư…
Những việc làm này đã bước đầu mang lại hiệu quả: các chiến sĩ cảnh sát môi
trường đã phát hiện và ngăn chặn hàng trăm vụ vi phạm về xả thải ra môi
trường nước, chặn đứng nguy cơ đạt đến bước nhảy ô nhiễm của nhiều nguồn
nước. Sự trong xanh đã trở lại trên nhiều dòng sông, cá tôm đã trở lại và ở
những dòng sông ấy nước ô nhiễm đã chuyến hóa thành nước sạch vốn là
nhân tố quan trọng trong cuộc sống của muôn loài.
B. Xã hội:
Như chúng ta đã biết, trong xã hội có rất nhiều những quá trình thúc đẩy
và tác động lẫn nhau. Chúng thể hiện quy luật chuyển hóa giữa lượng và chất.
Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu và làm rõ nội dung, ý nghĩa sự chuyển hóa
lượng và chất trong giai đoạn lịch sử năm 1975 ở miền Nam Việt Nam với ba
chiến dịch cơ bản: Chiến dịch Tây Nguyên; Chiến dịch Huế - Đà Nẵng; Chiến
dịch Hồ Chí Minh.
Chiến thắng mùa xuân năm 1975 là một quá trình chuẩn bị tất yếu và lâu
dài. Trong quá trình ấy, đã có rất nhiều sự thay đổi về lượng, sự tích lũy để
dẫn tới sự thay đổi về chất. Ở đây chúng ta sẽ xét cụ thể hơn về mặt lực lượng
của ta và địch. Vậy, nội dung lượng và chất đã chuyển hóa với nhau như thế
nào ?
Thực hiện chiến dịch Tây Nguyên, quân ta tập trung chủ lực mạnh với vũ
khí, kỹ thuật hiện đại, mở chiến dịch quy mô lớn. Đây là lượng ban đầu để
quân ta đánh thắng trận then chốt ở Buôn Ma Thuột. Chiến thắng ngày
10/3/1975 đã thể hiện một khoảng giới hạn về độ vì chỉ chiếm được Buôn Ma
Thuột, không có nghĩa là chúng ta đã làm thay đổi hoàn toàn cục diện Tây
-6-
Nguyên nói riêng và miền Nam nói chung. Đây có thể xem là sự tích lũy về
lượng của quân ta.
Xét trên mối quan hệ với vận mệnh của toàn miền Nam đang chiến đấu
chống Mỹ - Ngụy cứu nước thì chiến thắng Tây Nguyên là một sự thay đổi về
lượng rất lớn tạo điều kiện chiến thắng cho miền Nam đưa lịch sử miền Nam
Việt Nam sang một chương mới. Từ tiến công chiến lược ở Tây Nguyên đã
tạo điều kiện phát triển thành tổng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam.
Trực tiếp nhất là chiến thắng Tây Nguyên tạo nên sự chuyển hóa về lượng
một cách tích cực cho quân ta làm nên chiến dịch Huế - Đà Nẵng (từ ngày
21/3/1975 đến ngày 29/3/1975).
Sau thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng,
Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định: “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có
điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam”. Từ đó đi đến
quyết định: “Phải tập trung nhanh nhất lực lượng binh khí kỹ thuật và vật chất
giải phóng miền Nam trước mùa mưa.”
Sự tích lũy về lượng một cách nhanh chóng và mạnh mẽ của quân đội ta,
cùng với sự suy yếu của địch đã tạo điều kiện cơ bản để chọc thủng căn cứ
Xuân Lộc, Phan Rang. Đây là hai căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch để bảo
vệ Sài Gòn từ phía Đông, mất hai căn cứ này là bước đầu thất bại của địch và
cũng là bước đầu thắng lợi của ta. Một lần nữa, địch lại có sự thay đổi suy
giảm về lượng, tạo điều kiện cho ta tiến thẳng vào trung tâm Sài Gòn, đánh
chiếm các cơ quan đầu não của chúng.
11h30’ ngày 30/4, lá cờ Cách Mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, báo
hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Ngày 2/5, Châu Đốc là tỉnh ở miền Nam cuối cùng được giải phóng. Đây
là điểm nút cuối cùng, là sự thay đổi về chất cơ bản, là bước nhảy của miền
Nam vào trang lịch sử mới, tự do và đi lên Xã hội chủ nghĩa.
-7-
Bước nhảy sang trang của lịch sử miền Nam ngày 30/4 là kết quả của sự
tích lũy về lượng từ chiến dịch Tây Nguyên đến chiến dịch Huế - Đà Nẵng;
Chiến dịch Huế - Đà Nẵng đến chiến dịch Hồ Chí Minh. Chiến thắng của mỗi
chiến dịch đồng nhất với kết quả của một quá trình tích lũy và thay đổi tích
cực về lượng (đường lối lãnh đạo, phương pháp đấu tranh, lực lượng, lòng
yêu nước, sự đoàn kết, ủng hộ quốc tế) mà cụ thể như ta đã phân tích chủ yếu
ở trên là sự chuyển hóa về lực lượng. Sự kiện miền Nam hoàn toàn giải phóng
là điểm nút, là sự thay đổi về chất căn bản nhất tạo nên một bước nhảy lớn
cho lịch sử đất nước bước vào giai đoạn mới.
Và ngược lại, chất mới cũng tác động lại lượng. Chúng ta có thể thấy một
cách rõ ràng. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Việt Nam
đã bước sang một trang sử mới. Chủ nghĩa xã hội lên ngôi, được nhà nước áp
dụng trên toàn lãnh thổ. Đảng ngày càng trưởng thành và vững mạnh, tạo
niềm tin tuyệt đối trong lòng nhân dân.
C. Tư duy:
Tư duy thực chất là ý thức của con người, là sản phẩm cao cấp của một
dạng vật chất hữu cơ có tổ chức cao, đó chính là bộ não của con người. Thông
qua hoạt động thực tiễn thế giới tự nhiên tác đông vào các giác quan cảm
giác, tri giác và biểu tượng là cơ sở ban đầu của tư duy. Tư duy khái quát
những thu nhận của cảm giác bằng những quan niệm,phạm trù khoa học,
mang lại cho chúng ta những quan điểm sâu hơn, rộng hơn những cảm giác
trực tiếp.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác: “Tư duy là một quá trình phức tạp
và mâu thuẫn của sự tác động qua lại giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lí
tính,giữa hoạt động tư duy và hoạt động thực tiễn,như là một quá trình trong
đó con người không thích nghi một cách thụ động với thế giới bên ngoài,mà
tác động tới nó, cải tạo nó bắt nó phục tùng cho mục đích của mình”. Quá
-8-
trình phát triển của một con người từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành là
một quá trình phát triển của tư duy theo hướng ngày càng phức tạp.
Có thể nói, không ai trên đời sinh ra đã nhận thức đầy đủ về cuộc sống.
Muốn như vậy, mỗi người phải có cả một quá trình học tập, nghiên cứu lâu
dài. Hay nói cách khác, đó là quá trình tích lũy về lượng để biến đổi về chất.
Khi sinh ra, mỗi người hầu như đều là một trang giấy trắng, không có
nhận thức, không có hiểu biết và tất nhiên là không có cả tư duy nữa ! Chúng
ta không thể điều khiển hành vi của mình, mọi công việc như ăn, uống, vệ
sinh cá nhân…… đều được người khác giúp đỡ. Càng lớn, tư duy, nhận thức
của chúng ta càng phát triển. Sau khoảng bảy tháng đầu, chúng ta bắt đầu tập
bò, đến khoảng mười một tháng đã bắt đầu tập đi và bắt đầu khi một tuổi,
chúng ta đã bắt đầu bập bẹ học nói. Tất cả những thay đổi đó đều do quá trình
nhận thức của chúng ta, và những nhận thức đó chúng ta thu nhận được từ thế
giới bên ngoài, mà ở đây là từ xã hội loài người,từ cha mẹ chúng ta, từ những
người xung quanh mà chúng ta tiếp xúc.
Nhưng nếu cũng là một đứa trẻ mà sống trong môi trường tách biệt với
đời sống xã hội loài người sẽ không thể có những thay đổi, biến chuyển đó
được. Điều này đã từng xảy ra, như một số báo đưa tin, từng có nhiều người
bị lạc trong rừng lúc nhỏ, đến khi họ được giúp đỡ và ra khỏi rừng, thậm chí
họ không biết nói, hầu hết chỉ gào thét như dã thú, đi bằng bốn chân, ăn
sống.....Và cõ lẽ tư duy, nhận thức của họ chỉ có thể so sánh với những đứa trẻ
2,3 tuổi !
Vì vậy có thể xem quá trình trưởng thành về tư duy, nhận thức của mỗi
người là một quá trình tích luỹ lượng để dẫn đến sự thay đổi về chất. Trong
lĩnh vực xã hội và tư duy, lượng chỉ được nhận biết bằng tư duy trừu tượng.
Trong tự nhiên và xã hội, có lượng có thể đo, đếm được, nhưng trong tư duy
lại có những lượng khó đo lường bằng những số liệu cụ thể mà chỉ có thể
nhận biết được bằng tư duy trừu tượng.
-9-
Độ dùng để chỉ sự thống nhất giữa chất với lượng; là khoảng giới hạn,
mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất; sự vật,
hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hoá. Tạm coi quá trình trưởng thành
về tư duy, nhận thức của một người từ khi sinh ra đến khi 18 tuổi là độ.
Nhưng như thế không có nghĩa là phải đến 18 tuổi ta mới có tư duy, nhận
thức, mà qua quá trình phát triển, học tập, tư duy chúng ta dần dần phát triển
và trưởng thành.
Và đến khi 18 tuổi, tư duy, nhận thức đã đến bước đột phá, chính thức
thành một người trưởng thành, có thể coi đây là điểm nút trong đời. Hầu hết
nhà nước, xã hội đều công nhận một người trưởng thành về tư duy nhận thức
là khoảng 18 tuổi. Lúc này, lượng thay đổi đạt tới chỗ phá vỡ độ cũ, làm cho
chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới- thời điểm, mà tại
đó bắt đầu xảy ra bước nhảy. Họ chính thức có tư cách pháp lí, phải nhận
trách nhiệm do mọi việc mình gây ra.
Không chỉ xã hội, nhà nước cũng có những công nhận của mình về sự
trưởng thành của tư duy, nhận thức. Có thể thấy rõ điều ấy qua những quy
định của pháp luật vd: người đủ 18 tuổi có quuyền bầu cử, người chưa đủ 18
tuổi chỉ phải chịu mức hình phạt cao nhất là 18 năm tù...... Hay như theo tôi
biết, ở Nhật Bản người dưới 14 tuổi sẽ không phải chịu trách nhiệm pháp lí
trong bất kì trường hợp nào. Đó là sự khác biệt cơ bản giữa người trưởng
thành và người chưa trưởng thành. Khi trưởng thành, tư duy, nhận thức đã
biến đổi sang một “chất” mới, hiểu rõ được những hành động của mình, biết
phân biệt đúng, sai.
Và ngược lại, khi lượng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chất-mà ở đây
là sự trưởng thành của tư duy. Chất cũng tác động ngược lại đến lượng !
Ta có thể thấy một cách rõ ràng trong thực tế, khi tư duy trưởng thành,
mỗi người sẽ biết phân biệt rõ đúng, sai, thiện, ác...... Có đấy đủ năng lực để
- 10 -
tiếp nhận những tri thức trong cuộc sống. Học tập, làm việc, nghiên cứu tốt
hơn những người chưa trưởng thành về tư duy !
Ví dụ điển hình nhất đó là quá trình học tập. Việc chuyển từ học phổ
thông sang học đại học được coi là một bước chuyển về chất. Khi chúng ta
học phổ thông, chúng ta tích lũy kiến thức dần dần, ngày này qua ngày khác,
sau một thời gian dài chúng ta sẽ học hết toàn bộ chương trình, nắm vững các
kiến thức đó, tư duy nhận thức trưởng thành và chúng ta sẽ tiến hành cuộc thi
đại học. Đối với những người đã tích lũy đủ những kiến thức cần thiết họ sẽ
vượt qua kỳ thi và trở thành sinh viên đại học. Đối với những người khác do
việc tích lũy kiến thức chưa đủ lượng, chưa đủ nhiều, chưa sâu sắc thì họ sẽ
chưa vượt qua được kỳ thi, họ có thể sẽ mất thêm thời gian để tích lũy thêm
bằng cách thi vào năm sau hoặc có thể họ sẽ không thi nữa.
III. Kết luận:
Có những lượng thay đổi đạt tới chỗ phá vỡ độ, làm cho chất của sự vật
hiện tượng thay đổi chuyển thành chất mới theo hướng tích cực và ngược lại,
theo hướng tiêu cực. Chúng ta phải làm chủ lượng, giúp cho quá trình hình
thành chất mới, diễn ra theo hướng phát triển, đi lên, phù hợp với quy luật vận
động và phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- 11 -
- 12 -
- Xem thêm -