CÁI ĐẸP TRONG NGHỆ THUẬT
--------------------
A.PHẦN MỞ ĐẦU
I.Lý do chọn đề tài
Mỹ học là bộ môn khoa học có tính lý thuyết hay nói cách khác là thuần lý
luận.Mỹ học trang bị thật nhiều thứ về cái đẹp,cái bi,cái hài,cái cao cả,chủ thể thẩm
mỹ,khách thể thẩm mĩ cho sinh viên mỹ thuật.Và trong hệ thống kiến thức ấy tôi
đặc biệt hứng thú với mặt nhận thức và thưởng thức cái đẹp trong nghệ thuật.
Nhu cầu thưởng thức cái đẹp luôn thường trực trong ý thức con người cho
dù là lúc lao động hay vui chơi,lúc học tâp cũng như khi giải trí,trong gia đình và
trong cả đời sống xã hội.Bởi đó là thước đo chuẩn mực và là cái chân,cái thiện,cái
mĩ.
Khác với cái đẹp khác quan tồn tại ngoài cuộc sống,cái đẹp trong nghệ thuật là một
sản phẩm đặc biệt do nghệ sĩ sáng tạo ra nhưng hai vấn đề đó không hề đối lập
nhau mà nghệ thuật chính là sự phản ánh của cuộc sống.
Tìm và hiểu cái đẹp trong nghệ thuật sẽ bồi duwongx cho chúng ta những
cảm quan về mọi sự vật hiện tượng ngoài tự nhiên và xã hội,giúp mỗi con người
sống đẹp và sâu sắc hơn.
II.Đối tượng nghiên cứu
1.Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận được xác định trong việc phân tích và
đánh giá các chuẩn mực và bản chất của cái đẹp,mối quan hệ giữa cái đẹp trong tự
nhiên,xã hội và nghệ thuật.
Đưa ra phân tích quan điểm về cái đẹp,các tác phẩm tiêu biểu của 1 số danh
họa nổi tiếng
2.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cái đẹp trong nghệ thuật nhằm nâng cao vốn hiểu biết về bản
thân.Biết cảm thụ cái đẹp tích cực và say mê cái đẹp sâu và bền vững vân dụng các
kiến thức đó vào sáng tác,học tập và cuộc sống thông qua đó khám phá,định hướng
và vững tin trên con đường nghệ thuật của mình
3.Phương pháp nghiên cứu
-Điều tra,khảo sát và thu thập tổng hợp thông tin về các tác giả,tác phẩm của
1 số họa sĩ liên quan tới đề tài.
-So sánh,phân tích,tổng hợp các vấn đề đã được rút ra trên cơ sở các nguồn tư
liệu.
I,Cái đẹp là gì?một số quan niệm tiêu biểu
1.Cái đẹp là gì?
Về mặt lịch sử,từ xưa tới nay,quan niệm về cái đẹp được bàn luận rất
nhiều,song chưa đi đến một quan điểm thống nhất.Nhờ vào quá trình lao động cải
tạo tự nhiên,cải tạo bản thân con người dần phát hiện và nhận thức ra quy luật phổ
biến của cái đẹp
Khi con người đối chiếu,so sánh,nhận xét rằng:xấu thì con người đã nhận thức
ra cái đẹp và dùng từ cái đẹp để chỉ bất cứ điều gì dấy lên ở con người những xúc
cảm và những cảm hứng tốt đẹp.Quá trình tìm tòi về cái đẹp,trừu tượng.tựu chung
thường xoay quanh hai câu hỏi cơ bản:cái đẹp là gì? Và cái gì là đẹp?Hai câu hỏi
đó dương như đơn giản nhưng thật khó trả lời.
1.1.Theo các nhà mỹ học Hy Lạp cổ đại.
Họ đi tìm các thuộc tính các phẩm chất cơ bản của cái đẹp dựa vào đặc tính
tự nhiên của sự vật để vạch ra những thuộc tính và những phẩm chất của cái đẹp.
Các nhà mỹ học duy vật Đemecsets,Aritstop đều cho rằng cái đẹp có thuộc
tính hài hòa cân đối,hoàn thiện hoàn mĩ,mặt khác lại cho rằng khi chúng ta bước
theo thần jupiter trong tiếng nhạc hòa tấu của thiên đình,lúc đó cái đẹp mới ánh
lên.Còn cái đẹp của hạ giới chỉ là cái bóng của ý niệm.
1.2.Thời kỳ trung cổ phong kiến
Họ cho rằng cuộc đời chỉ là ngọn nến leo lét trước gió mạnh,là con thuyền
mong manh trước cơn sóng dữ.Trên đời này không có cái đẹp và khuyên con người
cam phận,sớm tối cầu kinh sám hối.Như vậy cái đẹp bị kéo lên chín tầng mây
1.3.Thời kỳ phục hưng
Khi con người chế ra máy hơi nước và xếp cối xay gió vào viện bảo tàng.Họ
đồng loạt nhận ra mọi triết lý là lừa dối và phải xem lại giá trị của cái đẹp.Họ thay
những bức tranh cổ với bộ mặt khắc khổ trong nhà thở bằng những bức tranh lồ lộ
những cảm xúc say mê vẻ đẹp của cuộc sống đến ngây ngất.
1.4.Thời khai sáng
Các nhà mỹ học khai sáng cho rằng vẻ đẹp trong sáng,hài hòa,hồn nhiên là vẻ
đẹp lý tưởng của con người.Đirođo viết:chỉ những cái đẹp nào dựa trên sự liên hệ
với những tạo vật của thiên nhiên thì mới sống lâu.Như vậy xuất phát từ quan điểm
duy vật tiến bộ các nhà mỹ học thời kỳ này đã thừ nhận mọi cãm xúc trong đó có
cảm xúc về cái đẹp đều có mối quan hệ ngoài giới.”Nếu chúng ta xem xét những
mối quan hệ trong nếp sống, chúng ta sẽ thấy những vẻ đẹp đức hạnh. Nhưng khi
chúng ta xem xét những mối quan hệ trong tác phẩm văn học và nghệ thuật chúng
ta sẽ tìm cái đẹp thẩm mỹ. Song nếu chúng ta xem xét vẻ đẹp của tự nhiên và
những tác phẩm phản ánh chúng ta sẽ thấy sự bắt trước khéo léo đem lại.
Hạn chế thời kỳ này của các nhà mỹ học khai sáng là ở chất siêu hình ở các
luận điểm. Bởi họ chưa vạch ra được bản chất duy nhất của cái đẹp ngay trong
hình thái biểu hiện đa dạng.
1.5.Quan điểm về mỹ học của các nhà mỹ học cổ điển (giữa thế kỷ XVII đến giữa
thế kỷ XX).
a.Quan điểm của các nhà mỹ học cổ điển Đức
Càng về cuối thế kỷ XVII, mỹ học càng xa rời lý tưởng nhân văn Phục
Hưng, tách khỏi lý tưởng duy vật chiến đấu thời khai sáng.
Kant(1724-1804) đề xuất ra tư tưởng mỹ học của cái tôi chính vì vậy ông
thừa nhận cái đẹp khách quan “Không có khoa học về cái đẹp, chỉ có sự phán đoán
về cái đẹp mà thôi”
Highen(1770-1831) khác hẳn với Kant, ông thừa nhận cái đẹp tồn tại trong
tự nhiên nhưng cái đẹp trong nghệ thuật còn cao hon cái đẹp trong tự nhiên.
b.Quan điểm của các nà mỹ học dân chủ Nga
Quan điểm của các nhà mỹ học dân chủ cách mạng Nga đặt cơ sở cho quan
niệm về cái đẹp của củ nghĩa hiện thực Biêlinxki, Tsecnưsepxki, Đôbrôeliubôp đều
cho rằng :”Cái đẹp trong nghệ thuật là sự phản ánh cái đẹp ngoài đời”.Cả mỹ thuật
và nghệ thuật Nga đều đánh giá cao vai trò của lý tưởng.Tuy nhiên hạn chế là dừng
lại ở tư tưởng cách mạng nông dân.
c.Quan điểm triết học phương đông cổ đại
-Nho giáo:”Mỹ” gắn với “Thiện”,cái đẹp có trong mọi người,cái đẹp của con
ngượi là sự tu dưỡng đạo đức,học tập,làm cho tính ác đi vào quỹ đạo của tính
thiện.Khổng tử và Mạnh Tử đều thấy cái đẹp gắn liền với cái thiện.
-Đạo giáo:Cái đẹp của đạo chân chính là không đầy,không vơi,không
thành,không mất,không giới hạn của chủ thể.Cho nên Đạo giáo chủ trương cái đẹp
tự nhiên:”Như hoa phù hợp dung mới như”
-Đạo phật:Phủ định căn bản hiện thế đi vào cửa không,tìm cái đẹp siêu thoát.
Như vậy Mỹ học khám phá cái đẹp 1 cách toàn diện.Cái đẹp được định nghĩa như
sau:Cái đẹp là phạm trù cơ bản và là trung tâm của mỹ học dùng để chỉ thực tại
khách quan.Thực tại này chúng ta biết được nhờ hệ thống cảm nhận phổ biến có
tính xã hội sâu sắc.Dưới ánh sáng của lý tưởng thẩm mỹ chân chính,hệ thống cảm
nhận thẩm mỹ phản ánh lại thực tại đẹp.Đặc trưng ngôn ngữ của sự phản ánh đó là
nghệ thuật.Cái đẹp bắt nguồn từ cái chân thật,cái tốt,nó tỏa chiếu bằng những rung
động thẩm mỹ có sức cuốn hút giúp cho con người định hướng quy luật theo sự
hoàn thiện hoàn mỹ.Tác động của cái đẹp là mót tác động có tính thanh cao,hài hòa
biện chứng,ở tự thân bên trong tâm hồn con người,bên trong xã hội loài người.
2.Quan Điểm tiêu biểu
Kant triết gia duy tâm chủ quan Đức:”vẻ đẹp không nằm ở trong đôi mái
hồng của người thiếu nữ mà trong đôi mắt của kẻ si tình”.Luận chứng về cái đẹp
Kant phân biệt 2 phương diện phán đoán :phán đoán mỹ cảm và danh lý.Dùng khái
niệm làm cơ sở phán đoán .Điều tiến bộ hơn của Kant so với nhiều nhà mỹ học
khác là ở chỗ ông biết rằng mỹ cảm dựa vào cảm giác chủ quan.Điều mơ hồ của
ông là cho rằng những sự vật có những ddieuf kiện hợp với cơ năng tâm lý thì mới
là đẹp.
bản thân sự vật, tự nhiên đã chứa đựng cái đẹp, cái đẹp tồn tại khách quan không lệ
thuộc. Đẹp cũng vậy, tồn tại và là phẩm chất của tự nhiên.
- Đêmôcrít và Aristots cái đẹp nằm trong bản chất sự vật hiện tượng với các thuộc
tính như : sự cân xứng, hài hòa, trật tự.số lượng...
II. Nghệ thuật là gì?
Ban đầu nghệ thuật chỉ khả năng kĩ thuật cần thiết để tạo nên một đồ vật
hoặc chỉ khả năng thực hiện một hoạt động đã được xác định. Nghệ thuật là nơi tâp
trung cao nhất mối quan hệ thẩm mỹ của con người với hiện thực. Alexander
Baumgarten người Đức dùng từ mỹ học cho lý thuyết về nghệ thuật.
Từ nhiều thế kỷ, nghệ thuật trong mỹ thuật nghĩ là cái gì đó trong mục đích
mỹ học (hay có thể nói là nghiên cứu về thẩm mỹ). Trong lĩnh vự nghệ thuật thị
giác và tạo hình người ta đề cập vào nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc.
III.Quan điểm biện chứng về cái đẹp và nghệ thuật
Nghệ thuật là nơi cao nhất tập trung mối quan hệ thẩm mĩ của con người đối
với hiện thực. Nói đến nghệ thuật là nói đến cái đẹp. Cái gì không đẹp không thể là
nghệ thuật.
Cái đẹp gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật. Nhưng đây là hai phạm trù hoàn
toàn khác nhau.
Cái đẹp là phạm trù chỉ những giá trị thẩm mĩ khắp mọi nơi: trong thiên
nhiên, xã hội và trong nghệ thuật. Cái đẹp tổng thể bao gồm: cái đẹp bên trong và
bên ngoài. Là phạm trù trung tâm và cơ bản của mĩ học. Nguồn gốc cơ sở đánh giá,
có liên quan mật thiết với khái niệm hài hòa. Sự thống nhất biện chứng giữa các
yếu tố tạo nên sự vật, mang lại cảm giác thăng bằng, hoàn thiện.
Nghệ thuật là một hình thái ý thức đặc thù của con người. Nghệ thuật không
chỉ gắn liền với cái đẹp mà còn là nơi gửi gắm tâm sự, suy tưởng về cuộc đời.
Chính vì vậy, nghệ thuật có nhiều chức năng khác nhau: giáo dục , nhận thức,
thông báo, giao tiếp, giải trí, thẩm mỹ...Cái đẹp là một phương diện không thể
thiếu của nghệ thuật.
IV.Cái đẹp trong nghệ thuật với quan hệ trong các phương diện khác.
Theo mỹ học đại cương có nói: cái đẹp trong nghệ thuật là cái đẹp của mọi
cái đẹp( của cả tự nhiên và xã hội) mà chủ thể nghệ sĩ đã kết tinh lại bằng sáng tạo
độc đáo của mình, đồng thời đem cống hiến trong xã hội cho sự toàn vẹn, hoàn mỹ.
Chính bởi thế cái đẹp nghệ thuật bao gồm cả cái đẹp trong đời sống xã hội và trong
tự nhiên.
1.Cái đẹp nghệ thuật và đời sống xã hội.
Trong thực thể nghệ thuật dường như có tất cả mà cũng như không có rieeng
về mặt nào của đời thật, quan hệ kinh tế xã hội, chính trị, triết học...Đó là một hiện
thực xã hội sống động, chứa đựng biết bao số phận cụ thể có bản chất “Tổng hòa
những mối quan hệ xã hội” rất chung mà cũng rất riêng.Một tác phẩm có giá trị
thẩm mỹ là kết quả cao của sự hòa quyện nhuần nhuyễn 3 yếu tố cơ bản: phản ánh
chân thực cuộc sống xã hội, độc đáo, đặc sắc rất sáng tạo nghệ thuật tình cảm nhân
đạo với ý thức xã hội tiên tiến.Nhu cầu hướng tới cái đẹp của con người luôn luôn
mang tính khẳng định: con người cần phải đẹp cả khuôn mặt, quần áo, cả tư
tưởng(Tsêkhôp), toàn bộ các quan hệ xã hội với những hoạt động cụ thể của chúng
cũng cần phải “theo quy luật của cái đẹp”(Mac).Vì vậy, cái đẹp có quyền tuyệ đối
tồn tại và phát triển
Trước cái đẹp của con người và cuộc sống được mô tả trong tác phẩm nghệ
thuật, tình cảm, thị hiếu phán đoán và lý tưởng thẩm mỹ của công chúng được khơi
nguồn và rộng mở trực tiếp.Vào những khi xã hội lắm, đời người đầy rẫy tang
thương, nhân dân trông đợi ở nghệ sĩ không chỉ phê phán thực trạng tăm tối. Và
những “kết thúc có hậu”, “đại đoàn viên” trong văn chương ta xưa dường như là
một tất yếu nghệ thuật, một nguyên tắc đạo lý nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hộithẩm mỹ.Nghệ thuật phải hướng vào công chúng , đương nhiên phải miêu tả “cho
hay, cho chân thật, cho hùng hồn” (Hồ Chí Minh).Cái đẹp, cao cả trong tầm vĩ mô
là dừng lại, đào sâu một phạm vi riêng lẻ. Đó là trường hợp văn thơ công xã Pari,
nghệ thuật sôviết trong cách mạng tháng 10 và chiến tranh vệ quốc, nghệ thuật Việt
Nam trong 2 cuộc kháng chiến vừa qua.
Lênin đã nói: nếu tách rời, cô lập cái mới, cái đẹp ra khỏi mối liên hệ môi
trường khách quan thì chúng chỉ là một cái xác không hồn thậm chí một quà tặng
vô duyên với công chúng.Và cũng như tư tưởng khoa học tiên tiến nào, nó là một
cái vốn có của ý thức và phản ánh đúng đắn những chân lý, hiện thực cuộc sống, tư
tưởng khoa học tiên tiến về những quan hệ xã hội. Đối với công chúng, dự cảm
nghệ thuật đem lại chân lý, niềm tin vươn tới cái đẹp, gợi mở và thôi thúc hiện
thực hóa thông qua sự thanh lọc bằng ý thức xã hội của chủ thể thưởng thức.Cái
đẹp trong xã hộ luôn mang tính cụ thể”chịu nhiều sự quy định” rất cụ thể, rất lịch
sử và do đó chúng cũng biến đổi, phát triển chung của toàn xã hội.
Trên tinh thần nghệ thuật hướng tới cái đẹp, cái nhân bản giá trị nhận
thức, cảm hóa thẩm mĩ của nghệ thuật không loại trừ miêu tả cái xấu, cái không
nhân bản.Trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định và do yêu cầu phê phán xã hội
đối với một nghệ sĩ nào đó, cái xấu được phản ánh, mô tả trực tiếp và gần như duy
nhất.Con đường nghệ sĩ tiếp cận cái đẹp trong đời thực và đua nó vào nghệ thuật
quả không phải là đơn giản.Điều đó đòi hỏi tài năng,năng lực toàn diện của người
nghệ sĩ.Vấn đề là ở chỗ công chúng xem nghệ thuật, tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật
không thể chỉ thấy tối sầm mà phải có được ánh sáng để nháy qua bóng tối đi tới
tương cuộc sống cần có.
Tóm lại:
Mỹ học ít bàn đến cái đẹp xã hội nhưng thực tế nó vô cùng quan trọng,bởi
vì cái đẹp xã hội chính là sự trình bày trực tiếp của bản chất cái đẹp.Ở thế kỉ XIX
Courbet đã cho ra đời một bức tranh mang tên “Những người đập đá”-1849.
Những người đập đá
Courbet mô tả:”kia là một ông già 70 tuổi,cắm cúi làm việc,đang vung búa
lên,da sạm nắng,đầu che bằng một cái nón sơn.Còn đây là một người trẻ tuổi đầu
tóc bụi bặm da nâu xam.Ông già quỳ gối,người thanh niên ở sau lưng ông,đứng
thảng ra sức vác một rổ đá, cảnh đó diễn ra dưới trời nắng chang chang,giữa đồng
cạnh một hô bên đường”.Đó đúng là”biểu hiện toàn vẹn của sự khốn khổ” , những
cảm xúc của Courbet không phải là cảm xúc của những kẻ nổi loạn chống lại số
phận đó chút nào , có vẻ như ông dửng dưng.Mọi căm phẫn và xót xa ông bộc lộ
hết qua tác phẩm diễn tả cuộc đời ngang trái.
Đến thời phục hưng Giốt tô(1267-1337) cũng đưa nghệ thuật gắn liền với
cuộc sống.Đó là tác phẩm “Giu đa phản bội chúa”:
Giu Đa phản bội chúa
Tác phẩm thành công ở cách họa sỉ diễn tả sự lộn cộn của đám đông lính
vây quanh chúa,đặc biệt là GiuDa.Trung tâm tranh la hình tương GiuDa đang ôm
chúa với tà áo màu vàng sáng rất được gây chú ý,nhưng dấu tronng đó lại là tâm
hồn xấu xa ,sự phản trắc bằng sự tương phản mang tính hình tượng rất rõ.Hiện
thực cuộc sống đã được đua vào trong tác phẩm này 1 cách rõ ràng nhất.
Lịch sử nghệ thuật đã chứng minh:”Tác phẩm nghệ thuật có chỗ đững
trong dòng chảy thời gian là những tác phẩm nghệ thuật phản ánh được hơi thở
nồng nàn của cuộc sống,nghệ thuật không phải là bản sao của cuộc sống mà nó là
sự sáng tạo, tất cả các tác phẩm nghệ thuật thê hiện cuộc sống một cách diển
hình,chắt lọc, và sáng tạo”.Nghệ thuật được gắn bó với trái tim và tình cảm của
con người một cách máu thịt.Tác phẩm”Tát nước đồng chiêm” của Trần Văn Cẩn
là một ví dụ:
Tát nước đồng chiêm
Tác giả đã diễn tả một cảnh sinh hoạt quen thuộc ở vùng nông thôn
Viêt Nam nhưng bằng cách thể hiện độc đáo của mình ông đã cho thấy một vùng
nông thôn mới và những người dân được làm chủ ruộng đồngToàn bức tranh toát
lên một không khí tươi vui rộn ràng,mạnh mẽ phơi phới trên từng khuôn mặt.
Giờ đây tự công cuộc đổi mới sâu sắc,tòa diện, những nhân tố mới,
những kết quả bước đầu quan trọng.Quần chúng tin rằng nghệ sĩ và nghệ thuật sẽ
đi cùng chiều, muốn vậy trước hết ngệ sĩ phải có con mắt tinh đời và phải nhìn
thấy những cái mới mẻ.Nhưng không đơn giản chút nào khi nhận thức cái mới và
cái đẹp trong xã hội, nhất là con người ngày nay càng ngày càng năng động.Xét ở
góc độ thẩm mĩ, cái đẹp dường như là cái cốt lõi của nhân bản, gốc rễ của chất
người, bởi vì con người sáng tạo ra thế giới và sáng tạo mình theo quy luật của cái
đẹp.Có thể nói nghệ thuật phản ánh cuộc sống.
2.Cái đẹp trong tự nhiên
Từ xưa tới nay xét về bản chất của mỹ học thì cái đẹp tronng tự nhiên
luôn là vấn đề khó,tất nhiên tiền đề lớn của bản chất cái đẹp là
núi,sông,chim,hoa,cảnh vật,thiên nhiên của đối tượng thẩm mĩ,vẫn cón quá trình
lịch sử biến thiên từ phát triển của chính bản thân nó,nó khúc xạ cụ thể vào lĩnh
vực văn hóa nghệ thuật.
Sau nữa là giai đoạn tự nhiên(hay thiên nhiên) vốn có không thiếu
những nội dung thần thoại, tưởng tương bằng những sắc màu, hình thể, dáng vẻ tự
nhiên thư thái của chính nó, hấp dẫn con người đã được nghệ sĩ thể hiện qua lăng
kính của mình.Trong “Bốn bài giảng mỹ học của Lý Thạch Hậu” ta thấy bản chất
của cái đẹp là nhân hóa tự nhiên đến những cảnh muôn màu, muôn vẻ là một quá
trình biến đổi từ bản thể tới nghệ thuật.Có thể nói rằng thiên nhiên trong tranh
cũng thật đẹp,nó không chỉ đẹp ở hình thức mà còn đều là sản phẩm của lịch sử
nhân loại.Bức tranh “Mùa thu vàng” của lê vi tan là một điển hình:
Mùa thu vàng
Ta có thể thấy mùa thu nước Nga được thể hiện bằng hình ảnh và màu
sắc:màu lá vàng rơi,màu của rừng bạch dương đang thay lá,bao phủ một màu vàng
nhưng lại không tức mắt bởi bầu trời xanh và những áng mây đang bao phủ
nhẹ.Hình ảnh của thiên nhiên, thông qua lăng kính tâm hồn của người họa sĩ đã
được chát lọc những nét điển hình nhất,đẹp nhất để qua đó nói về nét đẹp tiêu biểu
của nước Nga.Tác phẩm gió mùa hạ cũng là một tác phẩm toát lên vẻ đẹp của thiên
nhiên:
Gió mùa hạ
Đây cũng là tác phẩm mượn hình ảnh là vẻ đẹp của thiên nhiên để gửi gắm
tư tưởng tình cảm của tác giả.Tuy rằng gió mùa hạ không sánh dduwwocj như mùa
thu vàng nhưng lại thật môc mạc với cái gió mùa hè của Việt Nam.Trở lại những
tác phẩm của thời phục hưng,con người luôn là trung tâm của vũ trụ, là vật báu củ
thiên nhiên.Mọi tinh túy và kiêu sa luôn nằm trong con người,con người là một sản
phẩm tuyệt diệu của tạo hóa,cúng không hề khó hiểu khi nói con người là đẹp
nhất.Điều đó thể hiện ở những tác phẩm của leona da vanci-một đại diên xuất sắc
cho tư tưởng thẩm mỹ thời đại:
Nàng Monalisa
Chân dung nàng Monalisa sống động tới mức như một con người thật bằng
xương bằng thịt,bức tranh ẩn chứa một thế giới nội tâm phong phú ẩn sâu bên
trong.Tác phẩm là đỉnh cao trong sự thể hiện tư tưởng thẩm mĩ của thời đại về một
người có nội tâm phong phú.Vẻ đẹp ngọa hình kết hợp với vẻ đẹp nội tâm đã tạo
nên sự hài hòa và cân bằng cho hình tượng nghệ thuật,ngoài việc diễn tả chất da
thịt sống động, tác phẩm còn thành công ở việc diễn tả gương mặt nàng
Monalisa.Đặc biệt là nụ cười của nhân vật,họa sĩ đã nhấn mạnh hai khóe môi, kết
hợp với đường cong lên của mặt, mũi, miệng đã diễn tả một nụ cười đặc biệt, tồn
tại theo thời gian làm say đắm lòng người.Phía sau nhân vật là phong cảnh núi non
xa xa, trập trùng mờ ảo.Tất cả những điều đó là biểu hiện rõ ràng của lý tưởng
thẩm mĩ thời đại,con người luôn là trung tâm của vũ trụ, là vật báu của thiên nhiên.
V.Bàn về cái đẹp trong nghệ thuật
Ý nghĩa cách mạng của mỹ học Mac-LeNin đã vạch ra bản chất của cái đẹp
trong tính biện chứng và lịch sử xã hội.Nhưng phải thừa nhận rằng mỹ học là một
bộ phận mà các nhà kinh điển của củ nghĩa Mac-LeNin chưa có điều kiện hoàn
chỉnh mặc dù rải rác trong các tác phẩm và các thư từ của LeeNin đã có nhiều lời
chỉ dẫn, nhiều luận điểm mỹ học có tính then chốt.Hơn nữa, vấn đề cái đẹp còn là
một vấn đề phức tạp,các nhà mỹ học khi kế tục sự nghiệp của các vị tiền bối vẫn
còn có những chỗ khác nhau, từ đó có thể chia họ thành hai phái khác nhau:Phái
duy xã hội và phái duy tự nhiên.
+Phái Duy xã hội: Các nhà mỹ học này cho rằng mọi phẩm chất thuộc vô vàn
phẩm chất của thế giới quanh ta, trong đó có phẩm chất của cái đẹp đều được quy
định bởi hoạt động sản xuất và cải tạo con người.Cái đẹp là một hiện tượng xã hội,
nó chỉ hình thành và biến đổi theo các mối quan hệ xã hội.
+Phái Duy tự nhiên: Các nhà mỹ học của phái này chống lai quan điểm trên và cho
rằng bản chất các hiện tượng tự nhiên đã chứa đựng những phẩm chất gây nên
được cảm xúc của con người.Cái đẹp trong tự nhiên bộc lộ ở tính cân xứng, hài
hòa, tính nhịp điệu, tính cấu trúc trong không gian và cả quá trình diễn tả thời gian.
Ý kiến trên có những cơ sở khá tin cậy nhưng nó vẫn thiếu xót tính toàn
diện, họ chưa thấy được mối quan hệ tổng hòa giữa thiên nhiên và xã hội với nhu
cầu phát huy bản chất sáng tạo cái đẹp của con người.Để tránh được những thiếu
sót trên khi nghiên cứu cái đẹp chúng ta phải đặt nó trong mối quan hệ tương quan
của hiên tượng các quy luật.
1.Cái đẹp từ góc nhìn khách quan.
Cái đẹp có thể là một sự vật, hiện tượng, một hành vi, một ý tưởng, một
thực thể phức hợp.Từ thời cổ đại đến thời hiện đại, các nhà mỹ học đều khẳng định
rằng trong thế giới tự nhiên, xã hội, vật chất, tinh thần muôn màu muôn vẻ, có cái
đẹp cái không đẹp nhưng qua lăng kính tâm hồn của người nghệ sĩ tạo ra tác phẩm:
tạo ra một tỉ lệ vừa phải giữa thính giác và thị giác hài hòa ở cả tai và mắt, người
cảm thụ gây nên ở đó một sự liên kết hài hòa ở cảm quan, tạo nên sự sảng khoái,
gây nên cảm xúc thẩm mỹ.Nhìn từ góc độ bản thể, đó là phát hiện các quy luật của
cái đẹp.
2.Cái đẹp trong suy luận hài hòa
Hài hòa là yếu tố quan trọng nhất và tập trung nhất tạo nên cái đẹp mà tất
cả các nhà mỹ học thừ nhận,nên trong quy luật hài hòa toát lên phẩm chất của cái
đẹp.
Hài hòa không chỉ là dấu hiệu thuần túy hình thức mà còn là một tiêu chí
quan trọng của nội dung,sự trật tự cũng diễn ra ngay trong sự vật, hiện tượng, sự
cân bằng, tương xứng không chỉ thể hiện qua mối quan hệ muôn hình muôn trạng
mà còn thể hiện ngay trong bản thân ocn người và trong các sự vật hiện tượng.
Nhiều cái đẹp khác nhau đứng trong một tổng thể có thể tạo ra mối quan
hệ hài hòa với nhau, tạo nên những dạng phức hợp. Và ngược lại, nhiều khi những
vẻ đẹp riêng lẻ đứng cạnh nhau lại tạo ra sự lộn xộn, sự mất hài hòa. Các sự vật
hiện tượng thực sự hài hòa khi các mặt thống nhất và đang dạng tương quan với
nhau, nếu trạng thái đa dạng trội hơn sẽ dẫn đến sự hỗn loạn, nếu sự thống nhất trội
hơn, toàn quan hệ sẽ trở nên khô cứng. Mối tương quan vừa độ, vừa thống nhất,
vừa đa dạng sẽ là điều kiện tạo nên sự hài hòa. Ví dụ: như bức tranh mùa xuân của
Botixenli:
Mùa xuân của Botixenli
Họa sĩ đã mượn hình ảnh thần thoại, hoang đường để diễn tả một ý niệm thực,
mùa xuân của Botixenli là một cảnh hoang đường đẹp đẽ, một cảnh lạ thường.
Mùa xuân trong tranh gồm nhiều vị thần linh, thần mùa xuân rắc hoa trên đường đi
của thần tình yêu Venus. Bên trái là nhưng người bạn của thần vệ nữ Venus gồm
ba vị thần: Graxơ, Mec Guia, xứ giả của các vị thánh. Màu sắc trong tranh hết sức
trang trọng: màu trắng đổ hồng, xanh da trời. Nhânvật trong tranh của ông lả lướt
và thanh thoát. Bức tranh là sự hài hòa cả về màu sắc và bố cục, cả yếu tố tập trung
quan trọng nhất tạo nên cái đẹp. Những cái đẹp khácnhau trong nghệ thuật khác
nhau được đặt trong một tổng thể tạo nên sự hài hòa.
Cây đại thụ của nghệ thuật phục hưng là Leona Da Vince có rất nhiều tác phẩm
về tôn giáo thành công, trong đó có bức tranh “Đức mẹ Litta” vẽ năm 1490:
Đức mẹ Litta và Chúa Hài Đồng
Trong tác phẩm, ánh sáng lan tỏa, chiếu rọi khuôn mặt, cổ, ngực Đức mẹ và ôm
trọn chúa Hài Đồng. Đức mẹ đẹp dịu dàng và thanh tú, khả năng tả khối và chất
của ông đã đạt tới đỉnh cao. Trong không gian của bức tranh có hai cửa sổ màu
xanh và màu áo của Đức mẹ, nhìn qua cửa sổ ta còn thấy đc những rặng núi trập
trùng xa xa, hai cửa sổ ở hai bên tưởng chừng vô lý, nhưng lại tạo nên sự hài hòa
cho bức tranh.
Trở về với nền mĩ thuật Việt Nam, sự hài hòa trong cái đẹp thể hiện thật rõ qua
tác phẩm “Em Thúy”, đó là sự hài hòa cả về cái bên trong và cái bên ngoài:
Em Thúy
Xem tranh ta cảm nhận đc vẻ đẹp ngây thơ, thánh thiện được diễn tả bằng
những yếu tố màu sắc và bố cục. Tác giả đã cân nhắc khi đặt những mảng màu từ
tóc đến ghế, rồi cả vòng tay tạo nên sự hài hòa, cân đối tạo nên bố cục tranh. Ánh
sáng làm nổi bật gương mặt tròn, bầu bĩnh với đôi mắt to, đen láy. Tác giả đã rất
khéo khi sử dụngmàu trắng lướt nhẹ lên mặt và cổ nhưng không phải là phủ hết
khiến ta cảm nhận đc sự mềm mại, mịn màng của làn da. Toàn bộ bức trannh được
thể hiện bằng sự hòa sắc nhẹ nhàng và ấm áp tạo nên phong cách cá nhân của họa
sĩ, xử lí màu sắc nhịp điệu làm bức tranh đẹp trong mỗi chỉnh thể toàn vẹn.
3. Cái đẹp trong chỉnh thể toàn vẹn:
Nếu như sự hài hòa có được là nhờ sự hòa hợp nào đó, có khi chỉ là số lượng,
hình dạng, kích thước, các bộ phận thì cái toàn vẹn dựa vào liên hệ bên ngoài giữa
các bộ phận chính trong bản thân chúng quy định tính hài hòa, tính toàn vẹn cao
nhất là ở xã hội loài người.
Cái đẹp là thuộc tính thẩm mĩ cao ở các hệ thống hiện thực, đặc biệt là thuộc
tính của các hệ thống toàn vẹn. Đặc tính cơ bản này là sự biểu hiện của các biểu
tượng bên trong cái bên ngoài và cái cao hơn, đó là sự thống nhất giữa nội dung và
hình thức.
Nói về kiến trúc ta phải nhắc đến đền thờ PacTenong (447-432 TCN).
Đền thờ Pactenong (447-432 TCN)
Đền thờ là sự kết hợp hài hòa giữa sự khỏe khoắn và sự duyên dáng nhẹ nhàng.
Đền có kích thước rông 31m, dài 70m và cao 14m. Vẻ đẹp Pactenong thể hiện
trong một chỉnh thể cân đối, hài hòa giữa các tỉ lệ kiến trúc, tỉ lệ này đc coi là có
một không hai.
Ở thời phục hưng có nhiều tác phẩm đạt đỉnh cao về tư tưởng thầm mĩ. Trong
đó có tác phẩm “David” của Micheal (1501-1504)
David (1501-1504)
Với một khối đá cẩm thạch, Micheal đã tạo ra một pho tựơng người khổng lồ
Goliat, pho tương là biểu tượng của sự hoàn hảo, toàn mĩ về tỉ lệ, sự hài hòa giữa
vẻ đẹp thể chất và tinh thần. Từ một khối đá cẩm thạch vô tri, dưới bàn tay của nhà
điêu khắc biến thành chất da thịt sống động; những đường gân, mạch máu đc diễn
tả chính xác. Tác phẩm là một chuẩn mực hoàn thiện về vẻ đẹp của con người.
VI. Bí ẩn của cái đẹp trong nghệ thuật:
Hội họa dù là “thần tượng” hay “trừu tương” đều mang mẫu số chung là con
người, và sự khát khao săn tìm cái đẹp, cái thật thông qua các tác phẩm nghệ thuật.
Còn cái đẹp dù là cái đẹp của thiên nhiên hay trong nghệ thuật cũng đều tất yếu
mang tính nhân bản, bởi chúng chỉ có giá trị trong con mắt người xem cho dù đó là
đáng gía của một cá nhân, hay đồng thuận của cộng đồng.
1.Cái đẹp từ các loài hoa.
Trong thiên nhiên có muôn vàn các loài hoa và giống hoa khác nhau. Mỗi loài
hoa có một vẻ đẹp khác nhau: hoa hồng, hoa huệ, hoa mai, hoa đào... nghe tên thôi
đã thấy đẹp.
Tuy nhiên, khi ta nói “đẹp như hoa”, “đẹp như tiên” thì đó chỉ là một cách nói
mà thôi. Bởi vì thực ra không thể hình dung ra được cái đẹp như thế nào. Trên thực
thế nó không có khái niệm, nó hiện hữu khi mắt ta nhìn thấy nó hoặc hình dung ra
nó dưới một dạng cụ thể.
2.Cái đẹp trong nghệ thuật đến cái đẹp của phụ nữ
Cái đẹp của phụ nữ không có một hình mẫu chung mà có nhieeuftaangf, nhiều
lớp, lời nói không thể diễn tả hết được.Vẻ đẹp mềm mại và uyển chuyển trong tư
thế ngồi bên hoa tạo nên nét đẹp độc đáo và đặc trưng của người thiếu nữ Hà Nội
xưa.
Thiếu nữ bên hoa huệ
Tô Ngọc Vận đã đưa vẻ đẹp con người và tranh và càng khẳng định thêm rằng:
con người là đẹp nhất trong trung tâm của vũ trụ.Người đời thường nhạy cảm với
một hoặc hai tuýp người khác, không phải vì họ không đẹp mà vì cái gu thẩm mỹ
của mỗi người khác nhau.Chúng ta sẽ thấy điều này được lặp lại trong nghệ thuật.
3.Nghệ thuật còn đẹp ở phong cách sáng tác.
Chúng ta đã thấy cái đẹp muôn hình muôn vẻ về vai trò, vị trí, phong cách trong
hội họa.Một sự thay đổi hay phát hiện mới, sự sáng tạo mới trong nghệ thuật tạo
nên sự tươi mới và hứng thú cho người thưởng thức.Nhiều họa sĩ đại tài như:
Picasso,Matisse đã từng thay đổi phong cách nhiều lần trong cuộc đời nghệ thuật
của mình.Tiêu biểu như bức tranh” Hai phụ nữ ngồi ở Bar”.
Hai phụ nữ ngồi ở Bar-Picasso
4.Nghệ thuật là những con đường mòn
Nói chung mỗi phong cách đều có cái đẹp riêng của nó, mặc dầu vẫn biết rằng
cái đẹp cũng chỉ có tính chất chủ quan thì tại sao mỗi họa sĩ cứ phải giữ nguyên
phong cách của mình mà không tìm tòi theo hướng khác? Bức tranh “Những cô gái
ở Axignon” vẽ theo trường phái lập thể của picasso đã chứng tỏ diều đó:
Những cô gái ở Axignon
Phong cách thường đi đôi với các yếu tố thẩm mỹ như bố cục, nét vẽ, hình thể,
màu sắc, chất liệu, tính chất hiện thực và khả năng “cách điệu hóa” của người họa
sĩ.Tiêu biểu ở đây là Giotto,một họa sĩ với phong cách độc đáo, mà điểm nổi bật
nhất là nét vẽ vững chắc và sự cách điệu hóa các hình thể một cách mạnh mẽ.
Cảnh tượng mà thánh Gioan nhìn thấy
5.Nghệ thuật đi từ cách điệu hóa đến trừu tượng hóa
Bằng biện pháp cách điệu hóa đã giúp ta tạo ra những hình ảnh mới mang chất
nghệ thuật :
Cây màu xám
C.Kết luận
Như vậy cái đẹp là một hiện tượng thẩm mỹ vô cùng đa dạng và phức
tạp.Cái đẹp là cái phổ biến, là sự mời gọi hạnh phúc. Cái đẹp như một thước đo, là
chuẩn mực trong đời sông con người.Không phải ngẫu nhiên mà chân-thiện-mỹ đi
liền với nhau.Cái đẹp trong nghệ thuật mang tính chất phổ quát, sống động và cô
đặc, tác phẩm nghệ thuật là thước đo tinh thần của người nghệ sĩ.
Người sáng tạo ra cái đẹp sao cho phù hợp với quan niệm thị hiếu, lý
tưởng thẩm mỹ của mình.Nghệ thuật có nguyên tắc sáng tạo điển hình hóa các hiện
tượng của cái đẹp, của đời sống xã hội khi được đưa vào tác phẩm đã trải qua sự
lựa chọn, qua bàn tay và sáng tạo, sự chọn lọc và lăng kính tâm hồn của người
nghệ sĩ.Mà cái đẹp trở nên đẹp hơn, quả thật như câu nói: “Cái đẹp trong nghệ
thuật là cái đẹp của mọi cái đẹp”.
Sau khi thực hiện đề tài này, bản thân tôi đã có thêm thật nhiều hiểu biết
về cái đẹp trong mỹ thuật Việt Nam và thế giới.
VII.Một số tác phẩm tham khảo.
Bác Hồ ở Bắc Bộ Phủ-Tô Ngọc Vân
- Xem thêm -