Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Phạm tội vì động cơ đê hèn với tư cách là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hì...

Tài liệu Phạm tội vì động cơ đê hèn với tư cách là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự việt nam luận văn ths. luật

.PDF
110
253
69

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHƯƠNG PHẠM TỘI VÌ ĐỘNG CƠ ĐÊ HÈN VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHƯƠNG PHẠM TỘI VÌ ĐỘNG CƠ ĐÊ HÈN VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT TÌNH TIẾT TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌc Người hướng dẫn khoa học: TS. Chu Thị Trang Vân HÀ NỘI - 2012 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Phương 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục 1 MỞ ĐẦU Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÌNH TIẾT 8 "PHẠM TỘI VÌ ĐỘNG CƠ ĐÊ HÈN" 1.1. Khái niệm và các đặc điểm của tình tiết "phạm tội vì động cơ đê hèn" 8 1.1.1. Khái niệm phạm tội vì động cơ đê hèn 8 1.1.2. Các đặc điểm của "phạm tội vì động cơ đê hèn" 23 1.2. 27 Các tiêu chí đánh giá tình tiết phạm tội vì động cơ đê hèn 1.2.1. Tiêu chí thuộc về mặt chủ quan 27 1.2.2. Tiêu chí thuộc về nhân thân người phạm tội 27 1.3. Các yêu cầu cơ bản để áp dụng tình tiết phạm tội vì động cơ đê hèn 28 1.3.1. Các yêu cầu chung để áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ khi quyết định hình phạt 28 1.3.2. Các yêu cầu riêng áp dụng tình tiết phạm tội vì động cơ đê hèn khi quyết định hình phạt 38 Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ TÌNH TIẾT "PHẠM TỘI VÌ ĐỘNG CƠ 44 ĐÊ HÈN" TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Quy định về tình tiết "phạm tội vì động cơ đê hèn" trong pháp luật hình sự Việt Nam 4 44 2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trước pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ nhất năm 1985 44 2.1.2. Giai đoạn từ khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ nhất năm 1985 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ hai năm 1999 47 2.1.3. Giai đoạn từ khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự lần thứ hai năm 1999 đến nay 49 2.2. 53 Thực tiễn áp dụng tình tiết "phạm tội vì động cơ đê hèn" 2.2.1. Thực tiễn áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "Phạm tội vì động cơ đê hèn" theo Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 53 2.2.2. Thực tiễn áp dụng tình tiết định khung "Phạm tội vì động cơ đê hèn" trong các tội danh thuộc phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1999 58 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY 73 ĐỊNH VỀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG TÌNH TIẾT "PHẠM TỘI VÌ ĐỘNG CƠ ĐÊ HÈN" TRONG THỰC TIỄN 3.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về tình tiết "phạm tội vì động cơ đê hèn" 73 3.1.1. Phần chung 73 3.1.2. Phần các tội phạm 76 3.2. 92 Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết "phạm tội vì động cơ đê hèn" trong thực tiễn hiện nay KẾT LUẬN 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103 5 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung ngày 19/6/2009) quy định "Phạm tội vì động cơ đê hèn" là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Phần chung (điểm đ Điều 48), tình tiết này cũng được quy định là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt trong 03 cấu thành tội phạm ở phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khoa học luật hình sự Việt Nam, vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống và toàn diện. Chẳng hạn, dưới góc độ khoa học hàng loạt vấn đề cần được làm sáng tỏ để có quan điểm thống nhất và đầy đủ như: khái niệm, bản chất pháp lý của vấn đề "phạm tội vì động cơ đê hèn", lịch sử phát triển của các quy phạm về chế định này, nghiên cứu so sánh pháp luật hình sự của các nước có quy định về "Phạm tội vì động cơ đê hèn" hay việc tổng kết và đánh giá thực tiễn áp dụng phạm tội vì động cơ đê hèn, các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng. Ngoài ra trong pháp luật hình sự thực định (Bộ luật hình sự năm 1999), nhà làm luật nước ta cũng chưa ghi nhận khái niệm pháp lý về "Phạm tội vì động cơ đê hèn", hậu quả pháp lý của việc áp dụng tình tiết phạm tội vì động cơ đê hèn. Năm 1970 trong đường lối xét xử các tội giết người của Tòa án nhân dân Tối cao, Công văn số 452/HS2 của Tòa án nhân dân Tối cao đã hướng dẫn áp dụng tình tiết "phạm tội vì động cơ đê hèn". Tuy nhiên, theo chúng tôi Công văn này cũng chỉ có giá trị tạm thời, nó được tổng kết từ thực tiễn áp dụng pháp luật để thống nhất cho các Tòa án khi áp dụng chứ Công văn này cũng chưa có cơ sở pháp lý vững chắc cho việc áp dụng vấn đề "phạm tội vì động cơ đê hèn", chính vì vậy mà hướng dẫn trên không có tính khái quát cao, chưa thể hiện được bản chất của vấn đề "phạm tội vì động cơ đê hèn"… Do vậy hiệu quả của việc áp dụng tình tiết này không được cao. 6 Mặt khác, thực tiễn áp dụng vấn đề này cũng đặt ra nhiều vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu, giải quyết như điều kiện áp dụng tình tiết "phạm tội vì động cơ đê hèn", tiêu chí đánh giá, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận về "Phạm tội vì động cơ đê hèn" và sự thể hiện chúng trong các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành, đồng thời đánh giá việc áp dụng vấn đề "phạm tội vì động cơ đê hèn" trong thực tiễn, qua đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về vấn đề này trong giai đoạn hiện nay không những có ý nghĩa lý luận pháp lý quan trọng mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng chính là lý do vì sao chúng tôi quyết định chọn đề tài "Phạm tội vì động cơ đê hèn - với tư cách là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trên thế giới, các Bộ luật hình sự hiện hành của các nước có nền kinh tế phát triển như Bộ luật hình sự của Anh, Bộ tổng luật của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Bộ luật hình sự của Liên Bang Nga, Thụy Điển, Bộ luật hình sự của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa… hầu như không quy định về vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn. Tuy nhiên, trong giới khoa học luật hình sự của một số nước đã đặt vấn đề nghiên cứu vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn và có nhiều quan điểm khác nhau như: sự cấp thiết phải quy định bổ sung vấn đề này vào trong Bộ luật hình sự làm cơ sở pháp lý cao nhất để trấn áp loại tội phạm này; các điều kiện để áp dụng tình tiết phạm tội vì động cơ đê hèn…. Ở Việt Nam, kể từ khi Bộ luật hình sự năm 1999 ban hành, các quy định về tội phạm và các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm của Bộ luật hình sự không phải là vấn đề mới mẻ trong giới nghiên cứu chuyên ngành luật hình sự cũng như những người làm công tác thực tiễn. Điều này được thể hiện 7 thông qua một số bài viết nghiên cứu liên quan đến chủ đề này như: Sách Luật hình sự Việt Nam (Quyển I) Những vấn đề chung, của NXB Khoa học xã hội, do Giáo sư Đào Trí Úc công bố năm 2000; Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội của PGS.TSKH Lê Cảm, năm 2005; Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB Công an nhân dân, GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, năm 2006; Bình luận những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam, Ths. Đinh Văn Quế, NXB Tổng hợp, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2009; Luận án Tiến sỹ luật học "Ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội phạm trong luật hình sự Việt Nam" của Phạm Quang Huy, năm 2006. Một số bài đăng trên các tạp chí như: "Những đảm bảo cần thiết cho việc thi hành Bộ luật hình sự năm 1999, của tác giả GS. TSKH Đào Trí Úc, tạp chí Nhà nước và pháp luật số 01/2001… Khái quát tất cả những nghiên cứu trên đây của các tác giả cho thấy các công trình này mới chỉ dừng lại ở các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành với việc giải quyết một nội dung tương ứng, xem xét nội dung của vấn đề này như khối kiến thức cơ bản một phần, mục trong các giáo trình giảng dạy, một mục nhỏ của sách chuyên khảo mà chưa có công trình nào nghiên cứu theo đúng tên gọi "Phạm tội vì động cơ đê hèn Với tư cách là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam" một cách có hệ thống, toàn diện, đồng bộ. Về nội dung, các công trình đã nêu mới đề cập khái quát căn cứ pháp lý và những điều kiện áp dụng, đánh giá ở mức độ riêng rẽ phạm tội vì động cơ đê hèn hoặc chỉ đề cập rất hạn chế về dấu hiệu "phạm tội vì động cơ đê hèn" với ý nghĩa là dấu hiệu được dùng để phân biệt giữa các loại tội phạm, để thu hẹp hoặc mở rộng phạm vi phải xử lý về mặt hình sự. Trong khi đó, chưa có công trình nào hệ thống hóa các vấn đề lý luận về phạm tội vì động cơ đê hèn, nghiên cứu tổng thể lịch sử hình thành và phát triển của các quy phạm về phạm tội vì động cơ đê hèn từ 1945 đến nay, tổng kết đánh giá tình hình thực tiễn áp dụng cũng 8 như chỉ ra các tồn tại, vướng mắc trong thực tế để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chúng. Trong bối cảnh sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999, theo tinh thần của Nghị quyết 48/NQ-TW và Nghị quyết 49/NQTW của Bộ Chính trị, công trình nghiên cứu này là chuyên khảo đầu tiên về dấu hiệu "Phạm tội vì động cơ đê hèn - với tư cách là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam" ở cấp độ một luận văn thạc sỹ. Mặt khác, nhiều nội dung xung quanh vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn cũng đòi hỏi các nhà hình sự học cần tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc, hơn nữa đây cũng là một vấn đề mang tính thời sự hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ tương đối có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn trong luật hình sự Việt Nam và áp dụng vấn đề này trong thực tiễn. Trên cơ sở phân tích những hạn chế của tình tiết "phạm tội vì động cơ đê hèn" cũng như những bất cập trong thực tế áp dụng để từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp và phương hướng hoàn thiện luật hình sự cũng như việc nâng cao hiệu quả áp dụng vấn đề đã nêu trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: a. Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn trong luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 cho tới nay, phân tích các khái niệm, quan điểm của các nhà hình sự học, các đặc điểm cơ bản của phạm tội vì động cơ đê hèn, phân tích nội dung và điều kiện áp dụng tình tiết "phạm tội vì động cơ đê hèn" với tư cách là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành để làm 9 sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn theo luật hình sự Việt Nam. Phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc quy định tình tiết phạm tội vì động cơ đê hèn là tình tiết định khung tăng nặng trong một số tội quy định ở Bộ luật hình sự Việt Nam. b. Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nước ta, đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh việc quy định vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn và thực tiễn áp dụng nhằm đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về lập pháp, đồng thời ở một chừng mực nhất định cũng xem xét và đề xuất việc hoàn thiện pháp luật hình sự đối với một số vấn đề liên quan tới việc áp dụng tình tiết này. 3.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn với tư cách là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tăng nặng định khung hình phạt của Bộ luật hình sự Việt Nam cụ thể là: Khái niệm phạm tội vì động cơ đê hèn, các đặc điểm cơ bản của phạm tội vì động cơ đê hèn, nội dung và điều kiện áp dụng của vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, kết hợp với thực tiễn áp dụng qua đó chỉ ra những nguyên tắc cơ bản và đề xuất những giải pháp lập pháp cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn trong pháp luật hình sự Việt Nam. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn với tư cách là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tăng nặng định khung hình phạt theo luật hình sự Việt Nam mà theo quan điểm của tác giả là vấn đề cơ bản và quan trọng. Trong phạm vi nghiên cứu tác giả tập trung nghiên cứu tình tiết "Phạm tội vì động cơ đê hèn" khi tình 10 tiết này được quy định tại Phần chung và tại một số điều luật cụ thể tại phần riêng của Bộ luật hình sự. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên các tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam. Đề phù hợp với nội dung nghiên cứu và giải quyết được các nhiệm vụ mà luận văn đã đặt ra. Quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp nghiên cứu cơ bản, chủ yếu, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực tiễn xét xử thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do Tòa án nhân dân Tối cao hoặc của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương ban hành có liên quan tới vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn, những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm trong các báo cáo của ngành Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, địa phương…và nhiều tài liệu trong thực tiễn xét xử cũng như những thông tin trên mạng internet qua đó phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự để hoàn thành các nhiệm vụ mà luận văn đã đặt ra. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 5.1. Về mặt lý luận Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên đề cập một cách tương đối toàn diện và có hệ thống về một số vấn đề cơ bản của lý luận về 11 phạm tội vì động cơ đê hèn trong luật hình sự Việt Nam ở cấp độ một luận văn thạc sỹ. 5.2. Về mặt thực tiễn Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những điều kiện cụ thể của tội phạm vì động cơ đê hèn trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm của phạm tội vì động cơ đê hèn ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn. Đặc biệt, để góp phần phân hóa tội phạm và người phạm tội, cá thể hóa và phân hóa tối đa trách nhiệm hình sự và hình phạt, tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm và nhằm phù hợp với các yêu cầu của thực tiễn xét xử, luận văn cũng kiến nghị bổ sung hoặc loại bỏ, có thể áp dụng hoặc không áp dụng tình tiết phạm tội vì động cơ đê hèn nhưng lại chưa được nhà làm luật quy định trong Bộ luật hình sự nước ta. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về tình tiết "Phạm tội vì động cơ đê hèn". Chương 2: Quy định về tình tiết "Phạm tội vì động cơ đê hèn" trong pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng tình tiết "Phạm tội vì động cơ đê hèn" trong thực tiễn hiện nay. 12 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÌNH TIẾT "PHẠM TỘI VÌ ĐỘNG CƠ ĐÊ HÈN" 1.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA TÌNH TIẾT "PHẠM TỘI VÌ ĐỘNG CƠ ĐÊ HÈN" 1.1.1. Khái niệm phạm tội vì động cơ đê hèn Phạm tội vì động cơ đê hèn là một khái niệm trong khoa học Luật hình sự Việt Nam, nó chính thức được quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985 với tính chất là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Điều 39, tình tiết định khung tăng nặng tại điểm a khoản 1 Điều 101- Tội giết người. Khái niệm phạm tội vì động cơ đê hèn là một vấn đề khó đang được các nhà luật học nghiên cứu và chưa có sự thống nhất. Chính vì vậy, khái niệm phạm tội vì động cơ đê hèn chưa được quy định chính thức trong Bộ luật hình sự mà chỉ được đề cập đến trong các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân Tối cao nhằm hướng dẫn việc áp dụng thống nhất Bộ luật hình sự trong hoạt động xét xử các vụ án. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam đã có một số quan điểm đưa ra về khái niệm và nội hàm của phạm tội vì động cơ đê hèn như sau: Theo TS.Uông Chu Lưu: Phạm tội vì động cơ đê hèn được hiểu là trường hợp người phạm tội vì động cơ mang tính chất hèn nhát, phản bội, ích kỷ cao, bội bạc. Đây là tình tiết thuộc mặt chủ quan của tội phạm phản ánh khá tập trung tính chất và mức độ nguy hiểm của người phạm tội. Mức độ tăng nặng trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ xấu xa, phản trắc, ích kỷ, bội bạc đã thúc đẩy bị cáo thực hiện tội phạm [23]. 13 Theo GS.TSKH Lê Cảm: Phạm tội vì động cơ đê hèn là trường hợp: động cơ phạm tội nói chung đều là động cơ xấu, nhưng động cơ đê hèn là động cơ xấu xa nhất, ti tiện nhất, đáng khinh nhất trong tất cả các động cơ có thể có của một tội phạm cụ thể. Nó thể hiện tính ích kỷ cao, bội bạc, phản trắc, hèn nhát và là sự tột cùng đồi bại của đạo đức như: Giết người để cướp vợ hoặc chồng của nạn nhân, giết tình nhân đã có thai với mình để trốn tránh trách nhiệm…[4]. Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa thì "phạm tội vì động cơ đê hèn là trường hợp phạm tội bị thúc đẩy bởi động cơ đê tiện, thấp hèn. Hành vi phạm tội trong những trường hợp này thường là những biểu hiện của sự bội bạc, phản trắc, hèn nhát, ích kỷ…" [19]. Theo PGS.TS Lê Thị Sơn, động cơ đê hèn là: Động cơ phạm tội thể hiện tính hèn hạ, ích kỷ cá nhân cao độ của người phạm tội. Động cơ đê hèn là động cơ phạm tội làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trước khi động cơ phạm tội này được quy định trong luật là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng cũng như là dấu hiệu tăng nặng trách nhiệm hình sự, động cơ đê hèn đã được thực tiễn xét xử thừa nhận là là một trong những dấu hiệu cho phép xét xử tăng nặng tội giết người. Trong Bộ luật hình sự, động cơ đê hèn được quy định là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng của các tội: Tội giết người; Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em; Tội cưỡng bức lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy. Đối với các tội phạm khác mà có thể có động cơ phạm tội là động cơ đê hèn, Bộ luật hình sự quy định động cơ phạm tội này là dấu hiệu tăng nặng trách nhiệm hình sự. Những tội phạm đó là những tội liên quan đến con người như tội cố ý gây thương tích, tội hiếp dâm, tội truy cứu trách 14 nhiệm hình sự người không có tội… Biểu hiện cụ thể của động cơ đê hèn rất khác nhau, trong đó biểu hiện thường thấy có thể là động cơ vì tiền như để được thừa kế đã giết người để lại di sản thừa kế hoặc để được hưởng thừa kế một mình đã giết những người đồng thừa kế; hoặc do được thuê mà đã phạm tội hiếp dâm; không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội;…[30]. Theo Ths. Đinh Văn Quế, "phạm tội vì động cơ đê hèn là trường hợp phạm tội mà người phạm tội thực hiện tội phạm với động cơ rất xấu xa, thấp hèn, đáng khinh bỉ, không kể gì đến danh dự, nhân phẩm tư cách của một con người. Động cơ của bị cáo mang tính hèn nhát, bội bạc, phản trắc, ích kỷ" [26]. Theo Lê Huy Hòa, "phạm tội vì động cơ đê hèn là phạm tội với động cơ đê tiện, thấp hèn, ích kỷ, thể hiện sự bội bạc, phản trắc, hèn nhát" [22, tr. 118]. Theo TS. Phạm Văn Beo: Phạm tội vì động cơ đê hèn là trường hợp người phạm tội vì động cơ xấu, thấp hèn, đáng kinh bỉ, bất chấp danh dự, nhân phẩm của con người. Đây là động cơ mang tính chất hèn nhát, bội bạc, phản trắc, ích kỷ… Chẳng hạn, hiếp dâm con gái của kẻ thù mình để trả thù, giết người yêu đã có thai với mình sau khi yêu cầu phá thai mà không chịu…[2]. Qua nghiên cứu Bộ luật hình sự của một số quốc gia như: Trung Quốc, Lào, Malaysia, Singapore, Liên bang Nga, Thụy Điển… Pháp luật các nước này không quy định phạm tội vì động cơ đê hèn là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc là tình tiết tăng nặng định khung trong một cấu thành tội phạm cụ thể, nhưng lại có những khái niệm gần với khái niệm này ví dụ như: tại Bộ luật hình sự của Liên bang Nga có hiệu hiệu lực từ ngày 1 tháng 3 năm 1996, điểm h khoản 1 Điều 106 Tội giết người ghi nhận: Giết người vì động cơ vụ lợi hoặc giết người thuê. Điều 153 quy định về Tội đánh tráo trẻ em như sau: Đánh tráo trẻ em vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ bất 15 chính khác thì bị phạt tù từ 5 năm, kèm theo bị phạt tiền từ 200 lần đến 500 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương hay thu nhập khác của người bị kết án trong thời gian từ 2 đến 5 tháng. Như vậy, có thể thấy trong Bộ luật hình sự của Liên bang Nga hành động phạm tội vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ bất chính khác hoặc giết người thuê là những khái niệm có những nét tương đồng với khái niệm "phạm tội vì động cơ đê hèn" được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam và trên thực tiễn xét xử tại Việt Nam cũng coi hành vi giết người thuê hoặc thuê giết người là những hành động phạm tội mang tính chất đê hèn. Một vấn đề nữa đặt ra là "phạm tội vì động cơ đê hèn" nằm ở đâu trong khoa học luật hình sự? Nghiên cứu các tài liệu pháp lý của Việt Nam chúng tôi thấy rằng vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn chưa được các tác giả quan tâm nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong các giáo trình luật hình sự mới của trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Luật - Trường Đại học Cần Thơ…Tất cả đều chưa đưa ra khái niệm về phạm tội vì động cơ đê hèn, chưa đề cập đến đặc điểm phạm tội vì động cơ đê hèn, dấu hiệu nhận biết, phân biệt phạm tội vì động cơ đê hèn với các loại tội phạm khác. Vấn đề này chỉ được nhắc đến là một trong những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tăng nặng định khung hình phạt của một số tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm. Vấn đề phạm tội vì động cơ đê hèn là một khái niệm gần với khái niệm tội phạm. Nó có mối quan hệ chặt chẽ với chế định tội phạm - chế định trung tâm của luật hình sự. Định nghĩa tội phạm là cơ sở để quy định các tội phạm cụ thể, cơ sở để nhận thức và áp dụng thống nhất các quy phạm khác của luật hình sự trong đó có quy phạm về phạm tội vì động cơ đê hèn. Việc làm rõ, sáng tỏ khái niệm phạm tội vì động cơ đê hèn có tác động ngược trở lại với chế định tội phạm. Xét về hành vi phạm tội trong những điều kiện như nhau, trường hợp phạm tội vì động cơ đê hèn thể hiện tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội hơn so với những trường hợp khác, thể hiện sự coi thường pháp luật của người phạm tội, đồng thời cho thấy nhận thức tội phạm của người 16 phạm tội là rất thấp. Người phạm tội sẵn sàng thực hiện các tội phạm tàn ác chỉ vì những lý do nhỏ nhặt, ích kỷ, ghen tuông mù quáng, để trả thù hoặc để thỏa mãn sự bực tức. Xét về mặt chủ quan của tội phạm người bị áp dụng tình tiết phạm tội vì động cơ đê hèn thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Một người phải chịu trách nhiệm hình sự không chỉ đơn thuần vì họ có hành vi khách quan đã gây thiệt hại cho xã hội mà còn vì đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi khách quan đó. Hành vi gây thiệt hại của người phạm tội sẽ bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của người phạm tội trong khi người phạm tội có điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn hoặc quyết định một xử sự khác phù hợp hơn với đòi hỏi của xã hội. Lỗi trong luật hình sự là quan hệ giữa cá nhân người phạm tội với xã hội thể hiện qua các đòi hỏi cụ thể của luật hình sự. Lỗi luôn đi đôi với hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất định, không có lỗi độc lập với hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tức là chủ quan người phạm tội tự lựa chọn quyết định thực hiện xử sự khách quan gây thiệt hại cho xã hội và trái pháp luật hình sự. Theo Điều 9 Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành: Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: 1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xẩy ra; 2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra [28]. 17 Luật hình sự đã phân định rõ ràng thành hai loại lỗi là: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Trong đó lỗi cố ý bao gồm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp. Lỗi cố ý trực tiếp, về lý trí đối với lỗi cố ý trực tiếp người phạm tội nhận thức rõ, đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng như thấy trước hậu quả sẽ xảy ra nếu thực hiện hành vi đó. Việc thấy trước hậu quả là sự dự kiến của người phạm tội về sự phát triển của hành vi. Về ý chí, người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh. Hậu quả được thấy hoàn toàn phù hợp với mục đích và sự mong muốn ban đầu của người phạm tội. Lỗi cố ý gián tiếp, về lý trí người phạm tội cũng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, thấy trước được hậu quả có thể xảy ra, việc xảy ra hậu quả hay không, không có ý nghĩa gì với người phạm tội. Về ý chí, người phạm tội không mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc cho hậu quả đã được thấy trước do hành vi của mình có thể gây ra. Như vậy, cách để có thể nhận biết và phân biệt giữa lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp đó là ý chí của người phạm tội mong muốn hậu quả tất yếu xảy ra hay không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng có ý để mặc hậu quả xảy ra. Việc xác định lỗi trong một cấu thành tội phạm xem đó là lỗi cố ý hay vô ý, cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp ảnh hưởng rất lớn tới việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Các loại lỗi trong từng hình thức lỗi cũng chỉ mới phản ánh được ý thức chủ quan của tội phạm. Còn từng trường hợp phạm tội cụ thể, mức độ lỗi lại khác nhau. Cùng một mục đích phạm tội nhưng mức độ quyết tâm thực hiện tội phạm lại khác nhau. Có trường hợp thể hiện người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội đến cùng mới thôi. Ví dụ: A nhìn thấy chồng mình là B đang cặp kè với C rất tình tứ, A theo đến nhà nghỉ và bắt gặp B và C đang có quan hệ tình cảm với nhau. Nhìn thấy vậy A tức tối bỏ về tìm đến nhà C, thấy đứa con nhỏ mới 2 tuổi của C đang chơi trong sân A đã lao vào đánh đấm túi bụi, hành hạ đứa trẻ cho đến khi đứa trẻ chết ngay tại chỗ. Như vậy, A thể hiện quyết tâm phạm tội cao, thái độ coi thường pháp luật, coi thường tính mạng 18 người khác, nhẫn tâm ra tay với một đứa trẻ để trả thù chỉ vì mẹ nó đang cặp kè với chồng mình. Vì vậy, trách nhiệm hình sự đối với trường hợp mức độ lỗi cao hơn cũng phải cao hơn những trường hợp phạm tội thông thường khác. Con người là chủ thể có ý thức xã hội, hành động của con người trong tình trạng tâm thần bình thường đều do sự thúc đẩy của những nhân tố nào đó bên trong. Nhân tố tâm lý bên trong chủ thể thúc đẩy họ thực hiện hành động là động cơ của hành động. Động cơ là một phạm trù rộng còn động cơ phạm tội là một phạm trù tâm lý có giới hạn hẹp hơn động cơ hành động. Động cơ phạm tội là nhân tố bên trong, động lực bên trong (các lợi ích, các nhu cầu được nhận thức) thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Cơ sở tạo thành động cơ phạm tội là những nhu cầu về vật chất, tinh thần hoặc các lợi ích sai lệch của cá nhân được chủ thể nhận thức hoặc những tư tưởng sai lệch của chủ thể, cũng có thể là những nhu cầu bình thường nhưng chủ thể đã lựa chọn cách thức thỏa mãn chúng trái với các lợi ích và chuẩn mực xã hội. Sự hình thành động cơ phạm tội thường là một quá trình đấu tranh giữa nhận thức về trách nhiệm lương tâm, nghĩa vụ,… với sự vi phạm những đòi hỏi trong nội tâm chủ thể. Động cơ phạm tội chỉ có trong những trường hợp có lỗi cố ý trực tiếp, những tội phạm do vô ý hoặc cố ý gián tiếp cũng có động cơ nhưng không phải là động cơ phạm tội mà là động cơ xử sự của hành vi. Với những tội phạm vô ý người thực hiện tội phạm không mong muốn thực hiện tội phạm, không nhận thức được tính chất tội phạm của hành vi trong điều kiện phải nhận thức và có thể nhận thức được hoặc tin rằng hành vi của mình không phát triển thành tội phạm vì có thể ngăn ngừa được hậu quả nguy hiểm cho xã hội hay không gây ra thiệt hại cho xã hội. Vì thế, khi thực hiện hành vi, bên trong chủ thể không có động cơ phạm tội thúc đẩy. Những tội vô ý có thể có động cơ hành động chứ không thể có động cơ phạm tội. 19 Bộ luật hình sự không quy định động cơ phạm tội là dấu hiệu phân biệt tội phạm với hành vi không phải là tội phạm cũng như không coi động cơ phạm tội là dấu hiệu để phân biệt các tội phạm với nhau. Động cơ phạm tội có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm song nói chung nó không làm thay đổi căn bản tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Luật hình sự Việt Nam quy định động cơ phạm tội là dấu hiệu định tội với một số ít tội phạm, ví dụ: tội sử dụng trái phép tài sản Điều 142 Bộ luật hình sự năm 1999, động cơ "vụ lợi" là dấu hiệu định tội. Động cơ phạm tội là động cơ bên trong của tội phạm, thúc đẩy một người nào đó phạm tội. Do đó, nó ảnh hưởng nhất định đến tính nguy hiểm cho xã hội. Có những hành vi nếu không có động cơ vụ lợi hay cá nhân rõ rệt thì chưa thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội và không bị coi là tội phạm. Vì thế, động cơ phạm tội không được coi là yếu tố định tội mà là yếu tố làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Ví dụ: tội giết người, tội cố ý gây thương tích…Động cơ phạm tội thể hiện sự tàn ác, ích kỷ, hèn hạ, phản trắc hoặc xảo quyệt, thâm hiểm,…Đó là những trường hợp làm tăng mức độ lỗi của người phạm tội khiến cho tội phạm bị lên án mạnh mẽ hơn, thể hiện bản chất của người phạm tội xấu xa hơn. Động cơ phạm tội cũng có thể được quy định là dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng, giảm nhẹ tức là dấu hiệu định khung hình phạt ví dụ "động cơ đê hèn" là dấu hiệu định khung tăng nặng trong Tội giết người được quy định tại (Điều 93), Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120), Tội lôi kéo, cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200) Bộ luật hình sự Việt Nam. Trường hợp các điều luật không quy định là dấu hiệu định khung tăng nặng hình phạt, động cơ phạm tội có thể được quy định là tình tiết tăng nặng hay tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam. Ví dụ: điểm đ khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự "phạm tội vì động cơ đê hèn". 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan