BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI
HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TRỊNH DUY THUYÊN
NỘI LUẬT HÓA QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC
VỀ CHỐNG TRA TẤN ĐỐI VỚI LẤY LỜI KHAI, HỎI CUNG BỊ
CAN TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
TP. HỔ CHÍ MINH NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI
HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
TRỊNH DUY THUYÊN
NỘI LUẬT HÓA QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC
VỀ CHỐNG TRA TẤN ĐỐI VỚI LẤY LỜI KHAI, HỎI CUNG BỊ
CAN TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 9.38.01.04
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA
TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin
nêu trong luận án là trung thực. Các trích dẫn trong luận án đều được chú thích
đầy đủ và chính xác. Các kết quả nghiên cứu luận án chưa được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác
Tác giả luận án
Trịnh Duy Thuyên
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. BLTTHS:
Bộ luật tố tụng hình sự.
2. BLHS
3. CAT
:
:
Bộ luật hình sự.
Công ước Chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối
4. CTOC
5. CQĐT
:
:
xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người 1984.
Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
Cơ quan điều tra.
6. CHLB
7. ĐTV
:
:
Cộng hòa liên bang
Điều Tra viên.
8. ĐƯQT :
9. HCBC :
10. KSV
:
Điều ước quốc tế.
Hỏi cung bị can.
Kiểm sát viên.
11. LLK
12. PACE
Lấy lời khai.
:
:
13. VAHS :
14. VKSND :
Luật Cảnh sát và chứng cứ hình sự 1984.
Vụ án hình sự
Viện kiểm sát nhân dân.
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. ....
01
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN…………..…… 06
Chương 1: Lý luận về nội luật hóa quy định của Công ước Liên hợp quốc
về chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam……………………….……………………...……….…...….. 23
1.1 Khái niệm, đặc điểm của tra tấn……….…………………………..…….. 23
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của tra tấn trong các văn kiện quốc tế và
nghiên cứu nước ngoài……………………………………………….…..……… 23
1.1.2 Khái niệm, đặc điểm của tra tấn theo quan điểm các nhà nghiên cứu
Việt Nam………………………………………………………….…………...… 29
1.2 Khái niệm, đặc điểm của lấy lời khai, hỏi cung bị can……………………... 33
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm lấy lời khai…….…………………………..………… 33
1.2.2 Khái niệm, đặc điểm hỏi cung bị can……………………..……..…………. 35
1.3 Khái niệm, nguyên tắc và ý nghĩa nội luật hóa quy định của Công ước
Liên hợp quốc về chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ
luật tố tụng hình sự Việt Nam………………………………….….
38
1.3.1 Khái niệm nội luật hóa quy định của Công ước Liên hợp quốc về
chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự
Việt Nam……………….………………………………………..………………… 38
1.3.2 Nguyên tắc nội luật hóa quy định của Công ước Liên hợp quốc về
chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự
Việt Nam................................................................................................................. 43
1.3.3 Ý nghĩa nội luật hóa quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống
tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
44
Chương 2: Đánh giá quy định về lấy lời khai, hỏi cung bị can trong
Bộ tố tụng hình sự Việt Nam so với quy định của Công ước Liên hợp quốc
về chống tra tấn ……………………...………………………………………… 47
2.1 Quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tra tấn về nghĩa
vụ của quốc gia thành viên phòng ngừa tra tấn có liên quan đến lấy lời khai,
hỏi cung bị can…………………………………...……………………………... 47
2.2 Những kết quả đạt được trong quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự Việt Nam về lấy lời khai, hỏi cung bị can so với Công ước Liên hợp quốc
về chống tra tấn………………………..……………………………….….…...
55
2.3 Những hạn chế trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
về lấy lời khai, hỏi cung bị can so với Công ước Liên Hợp quốc về Chống tra
tấn………………………………………...……………………...… 63
Chương 3: Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn đối
với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam so với
quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tra tấn…………….…………... 74
3.1 Những kết quả đạt được trong thực tiễn phòng ngừa tra tấn của
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở quy định của Công ước Liên
hợp quốc về chống tra tấn…………………………………….…….………….. 74
3.2 Những hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn
đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trên
cơ sở quy định của Công ước Liên hợp quốc về chống tra tấn………………...…. 79
3.2.1 Hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn đối
với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ
sở nghĩa vụ thứ nhất củaquốc gia thành viên Công ước Liên Hợp quốc về chống
tra tấn...................................................................................................................
79
3.2.2. Hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn đối
với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ
sở quy định nghĩa vụ thứ ba của quốc gia thành viên Công ước Liên Hợp quốc
về chống tra tấn…………………………………………………………………………
96
3.2.3. Hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn đối
với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ
sở nghĩa vụ thứ tư của quốc gia thành viên Công ước Liên Hợp quốc về chống
tra tấn..................................................................................................................
98
3.2.4. Hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn đối
với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ
sở nghĩa vụ thứ năm của quốc gia thành viên Công ước Liên Hợp quốc về chống
tra tấn....................................................................................................................
99
3.2.5. Hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định phòng ngừa tra tấn đối
với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ
sở nghĩa vụ thứ sáu của quốc gia thành viên Công ước Liên Hợp quốc về chống
tra tấn....................... ...........................................................................................
100
Chương 4: Kinh nghiệm lập pháp nước ngoài về nội luật hóa quy
định của Công ước Liên hợp quốc về chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi
cung bị can............................................................................................................ 103
4.1 Cơ sở lựa chọn pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia đã tham gia
Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn để nghiên cứu học tập kinh nghiệm..... 103
4.2 Kinh nghiệm nước ngoài trong việc nội luật hóa quy định Công
ước Liên hợp quốc về chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can.......... 104
4.2.1.Liên Bang Nga................................................................................... 104
4.2.2 .Cộng Hòa Liên bang Đức............................................................................... 112
4.2.3. Vương quốc Anh ............................................................................... 116
4.3 Kinh nghiệm lập pháp cho Việt Nam về phòng ngừa tra
tấn.......................................................................................................................... 120
Chương 5 : Kiến nghị về nội luật hóa quy định của Công ước Liên
Hợp quốc về chống tra tấn đối với quy định lấy lời khai, hỏi cung bị can
trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam………………………………………. 123
5.1 Cơ sở kiến nghị nội luật hóa quy định của Công ước Liên Hợp
quốc về chống tra tấn đối với quy định về lấy lời khai, hỏi cung bị can trong
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam……………………………………………… 123
5.2. Một số kiến nghị nội luật hóa quy định của Công ước liên hợp
quốc về chống tra tấn đối với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam…………………………………….…………………… 126
5.2.1. Kiến nghị để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thứ nhất, nghĩa vụ thứ ba,
nghĩa vụ thứ năm, nghĩa vụ thứ sáu………….……………….…………….……. 126
5.2.2 Kiến nghị để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thứ tư……………………. 136
KẾT LUẬN........................................................................................................... 138
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 28/11/2014, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Nghị quyết số
83/2014/QH13 phê chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức
trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm1 (Công ước Liên Hợp
quốc về chống tra tấn). Đây là một trong những ĐƯQT đa phương quan trọng về quyền
con người, thể hiện ý chí của nhân loại yêu chuộng hòa bình, mong muốn sớm loại bỏ
các hành vi tra tấn, đối xử tàn bạo, vô nhân đạo ra khỏi đời sống xã hội. Sự kiện này, có
ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động bảo vệ nhân quyền, thể hiện chính sách nhân đạo
của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Qua đó, góp phần triển khai, thi hành có hiệu quả Hiến
pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Đồng thời đây là bước đi
cụ thể trong quá trình chủ động hội nhập quốc tế, khẳng định Việt Nam là thành viên
tích cực và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.
Khoản 1, Điều 2 Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn quy định “mỗi quốc
gia thành viên phải thực hiện các biện pháp cụ thể về lập pháp, hành pháp, tư pháp hoặc
các biện pháp hiệu quả khác nhằm phòng ngừa mọi hành vi tra tấn trên bất cứ khu vực
lãnh thổ nào thuộc quyền tài phán của mình.”2 Căn cứ vào tình hình thực tế, Việt Nam
nội luật hoá các quy định của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn vào hệ thống
pháp luật quốc gia (trong đó có BLTTHS), để tổ chức triển khai thực hiện, phòng ngừa
tra tấn, đặc biệt là khi tiến hành các hoạt động tố tụng như: bắt, tạm giữ, ghi lời khai, hỏi
cung, giam giữ...
Thực tiễn cho thấy, tra tấn có khả năng xảy ra trong môi trường khép kín, giữa
một bên là đại diện quyền lực cơ quan nhà nước cần thu thập thông tin với một bên
đang bị nghi ngờ đã thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, LLK, HCBC ở giai đoạn điều
tra, là những hoạt động có khả năng xảy ra tra tấn, khi cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng thu thập chứng cứ. Đánh giá các quy định của Công ước Liên Hợp quốc
về chống tra tấn đối với quy định LLK, HCBC trong BLTTHS năm 2015. Tác giả
Vào ngày 07/11/2013, Việt Nam đã ký Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức trừng phạt
hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm. Sau khi được Quốc hội phê chuẩn, ngày 05/2/2015, Việt
Nam nộp văn kiện phê chuẩn cho Tổng thư ký Liên Hợp quốc và chính thức trở là thành viên của Công ước này.
2
Article 2, Convention against Torture “1. Each State Party shall take effective legislative, administrative,
judicial or other measures to prevent acts of torture in any territory under its jurisdiction”.
1
2
nhận thấy, bên cạnh những điểm tương đồng, thì vẫn còn một số điểm hạn chế chưa
phù hợp để phòng ngừa tra tấn.
Thứ nhất, BLTTHS năm 2015 chưa ghi nhận triệt để vấn đề ghi âm, ghi hình có
âm thanh khi tiến hành LLK người bị bắt, bị tạm giữ. Riêng đối với người người bị tố
giác, kiến nghị khởi tố còn thiếu những quy định về trình tự, thủ tục. Thực tế cho thấy,
tra tấn xảy ra nhiều, ở giai đoạn trước khi khởi tố vụ án. Bởi vì, thời điểm này cơ quan
chức năng chưa đủ điều kiện, thời gian để thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh. Nhưng
với tâm lý mong muốn khám phá nhanh vụ án, thì tra tấn nhằm thu thập thông tin, buộc
người bị nghi thực hiện tội phạm là có thể. Do đó, khi đã thiếu hành lang pháp lý cụ thể,
tra tấn sẽ tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Thứ hai, Điều 1 của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn quy định tra tấn
bao gồm: tra tấn thể chất và tra tấn tinh thần, nhưng các quy định của BLTTHS năm
2015 chỉ mới tập trung phòng ngừa tra tấn thể chất là chủ yếu và thiếu quy định cụ thể
về phòng ngừa tra tấn tinh thần như: BLTTHS vẫn có những khoảng trống khi cho phép
tiến hành HCBC vào ban đêm,3 chưa quy định cụ thể về thời gian, tần suất tiến hành
LLK, HCBC trong một ngày hoặc thiếu các quy định về việc người bị nghi thực hiện tội
phạm từ chối khai báo khi câu hỏi của người có thẩm quyền không liên quan đến vụ án...
Ngoài ra, quy định về HCBC trong BLTTHS Việt Nam năm 2015 chưa nghiêm cấm
hành vi đe dọa bị can hoặc đe dọa gây thiệt hại cho người thân thích của bị can (người
thứ ba) nhằm buộc phải khai nhận tội hoặc thu thập các thông tin theo quy định tại Điều
1 của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn, là những điểm còn chưa phù hợp với
quy định của Công ước.
Thứ ba, khi HCBC phải ghi âm, ghi hình có âm thanh nhưng thực tế cho đến
nay vẫn chưa áp dụng đầy đủ, đồng bộ. Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT-BCAVKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01/02/2018 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng hướng dẫn về trình tự, thủ tục
thực hiện ghi âm, ghi hình có âm thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm,
ghi hình có âm thanh trong quá tình điều tra, truy tố, xét xử quy định “trong quá
trình hỏi cung bị can hoặc lấy lời khai có thể tạm dừng ghi âm, ghi hình có âm
3
Khoản 3 Điều 183 BLTTHS năm 2015.
3
thanh bằng cách nhấn nút tạm dừng.”4 Tuy nhiên, nội dung này còn thiếu tính chặt
chẽ, bởi vì tra tấn có thể xảy ra trong quá trình bấm nút tạm dừng.
Thứ tư, trong thực tiễn, người bào chữa tham gia tố tụng hình sự còn khá
muộn, khi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng LLK, HCBC. Nhiều trường hợp
được tham gia LLK, HCBC thì đó là lúc nhận tội. Do đó, trong buổi LLK, HCBC
người bào chữa có vai trò mờ nhạt và giống như người chứng kiến cho lời nhận tội.
Như vậy, tuy có quy định khi tiến hành LLK, HCBC người bào chữa được tham gia,
được đặt câu hỏi5 nhưng chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện một cách tốt nhất.
Trên đây là một số vấn đề còn hạn chế trong quy định của BLTTHS năm
2015 về LLK và HCBC so với quy định của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra
tấn. Chính vì vậy, nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên sâu về LLK, HCBC và
đưa ra các giải pháp hoàn thiện để bảo đảm thực hiện quy định của Công ước Liên
Hợp quốc về chống tra tấn là một đòi hỏi bức thiết trong quá trình bảo đảm quyền
con người ở Việt Nam hiện nay. Với nhận thức và quan điểm nêu trên tác giả chọn
đề tài “Nội luật hóa quy định của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối
với lấy lời khai, hỏi cung bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm
Luận án Tiến sĩ luật học.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý về nội luật hoá
các quy định của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với LLK, HCBC
trong BLTTHS năm 2015; kinh nghiệm nước ngoài. Luận án đề xuất những giải pháp,
hoàn thiện các quy định về LLK, HCBC trong BLTTHS Việt Nam nhằm nâng cao
hiệu quả phòng ngừa tra tấn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn
thực hiện nghĩa vụ của Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn tại Việt Nam đối với
LLK, HCBC trong BLTTHS năm 2015.
Lý luận về nội luật hóa quy định Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn vào
BLTTHS như: khái niệm, đặc điểm, cơ sở pháp lý của nội luật hóa.
Điểm b, khoản 2, Điều 5 Thông tư liên tịch số 03/2018 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án
nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng ngày 01/02/2018 hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm, ghi hình có âm
thanh; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm, ghi hình có âm thanh trong quá tình điều tra, truy tố, xét xử
5
Khoản 1, điểm b, Điều 73 BLTTHS năm 2015.
4
4
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về LLK, HCBC của các Cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng trong BLTTHS năm 2015.
Đánh giá tương đồng và khác biệt giữa quy định của Công ước Liên Hợp quốc
về chống tra tấn với quy định về LLK, HCBC trong BLTTHS năm 2015.
Nghiên cứu thực trạng những bất cập, hạn chế có thể dẫn đến tra tấn đối với quy
định LLK, HCBC khi thực hiện Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn,.
Nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia đã thực hiện nội luật hóa Công ước
Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với quy định về LLK, HCBC trong BLTTHS.
Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện quy định LLK, HCBC trong BLTTHS năm
2015 để phòng ngừa tra tấn.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Luận án nghiên cứu nghĩa vụ lập pháp của Việt Nam sau khi
phê chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối với quy định về LLK, HCBC
trong BLTTHS năm 2015 để phòng ngừa tra tấn; khảo sát thực tiễn áp dụng quy định
của BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 20015 về LLK, HCBC6 về phòng ngừa tra
tấn; tham khảo kinh nghiệm nội luật hóa đối với LLK, HCBC của một số quốc gia đã
phê chuẩn Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn như: Liên Bang Nga, CHLB Đức,
Vương quốc Anh.
Phạm vi chủ thể: Luận án nghiên cứu quá trình LLK, HCBC được thực hiện
bởi lực lượng Công an xã, phường, thị trấn; Cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp trong
lực lượng Công an nhân dân.
LLK: luận án nghiên cứu quá trình LLK đối với những đối tượng có thể bị
tra tấn như: người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tố giác, kiến nghị khởi tố.
HCBC: luận án nghiên cứu quá trình hỏi cung đối với bị can.
Phạm vi không gian: toàn quốc.
Phạm vi thời gian: từ năm 2010 đến năm 2020.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án
Đây là Luận án tiến sĩ đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống
và chuyên sâu về nội luật hóa quy định Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn đối
với LLK, HCBC trong BLTTHS Việt Nam.
BLTTHS năm 2015 vừa mới được áp dụng trong thực tiễn từ ngày 01/01/2018, có những sửa đổi, bổ sung
đối với quy định LLK, HCBC nhưng cơ bản vẫn trên nền tảng của BLTTHS năm 2003 và không có nhiều
khác biệt. Do đó, những hạn chế trong thực tiễn áp dụng BLTTHS năm 2003 chưa được BLTTHS năm 2015
sửa đổi, sẽ tiếp tục là hạn chế trong phòng ngừa tra tấn trong thời gian tới.
6
5
Kết quả nghiên cứu của Luận án góp phần bổ sung cơ sở lý luận về nội luật hóa
các ĐƯQT mà Việt Nam đã ký kết nói chung và Công ước Liên Hợp quốc về chống
tra tấn nói riêng; làm rõ những điểm tương đồng, hạn chế trong quy định về LLK,
HCBC trong BLTTHS năm 2015 so với Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn và
thực tiễn thực hiện phòng ngừa tra tấn tại Việt Nam. Từ đó có một góc nhìn toàn diện
về phòng ngừa tra tấn và là cơ sở để phát triển thêm các công trình nghiên cứu khoa
học khác có liên quan.
Những kiến nghị hoàn thiện dựa trên các căn cứ khoa học sẽ là nguồn tài liệu,
là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền tiếp tục nghiên cứu, có thể vận dụng khi hoàn
thiện BLTTHS Việt Nam. Đồng thời, là nguồn tài liệu cho sinh viên, giảng viên luật
học, các nhà khoa học trong quá trình giảng dạy và để cho ĐTV, cán bộ điều tra,
KSV, kiểm tra viên nhận thức được tầm quan trọng của phòng ngừa tra tấn bảo đảm
quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự.
6
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Qua tìm hiểu trên thế giới, hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu liên quan
đến đề tài Luận án như: thực hiện ĐƯQT của quốc gia; bình luận chung về tra tấn,
quyền con người; phòng ngừa tra tấn và bảo đảm quyền con người của một số quốc gia
khi tham gia Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn... Các tài liệu này có thể được
chia thành các nhóm vấn đề sau:
Thứ nhất, công trình nghiên cứu về thực hiện ĐƯQT của quốc gia thành viên
Trên thế giới, có hai trường phái giải quyết về mối quan hệ giữa ĐƯQT và hệ
thống pháp luật quốc gia. Trường phái nhất nguyên luận (monism) cho rằng ĐƯQT và
luật pháp quốc gia là hai mặt thống nhất của hệ thống luật pháp, khi đã ký kết hoặc tham
gia ĐƯQT thì có thể áp dụng trực tiếp quy định của ĐƯQT trong nội bộ quốc gia. Trong
khi đó, trường phái nhị nguyên luận (dualism) cho rằng luật pháp quốc tế và pháp luật
quốc gia là hai hệ thống pháp luật tách biệt. ĐƯQT có hiệu lực thi hành trong phạm vi
quốc gia sau khi đã được “chuyển hóa” hay nội luật hoá một cách thích hợp bằng văn
bản pháp luật. Tuy nhiên, có một số quốc gia kết hợp cả hai quan điểm nhất nguyên luận
và nhị nguyên luận cho vấn đề thực hiện ĐƯQT tại quốc gia của mình.
Trong công trình nghiên cứu “The incorporation of public international law
into municipal law and regional law against the background of the dichotomy
between monism and dualism”7 (tạm dịch, kết hợp luật quốc tế vào luật quốc gia và
luật khu vực trên nền tảng thuyết nhất nguyên luận và nhị nguyên luận), (2014) của
tác giả G Ferreira & A Ferreira-Snyman. Các tác giả đã bàn luận về lý thuyết Nhất
nguyên luận và Nhị nguyên luận và cho rằng các học thuyết này đại diện cho hai cách
tiếp cận khác nhau đối với mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
Theo cách tiếp cận Nhất nguyên luận, pháp luật quốc tế được thực thi trước Tòa án
quốc gia mà không cần đưa vào pháp luật quốc gia. Trái lại, cách tiếp cận Nhị nguyên
luận lại cho rằng pháp luật quốc tế phải được chính thức đưa vào pháp luật quốc gia
khi Tòa án quốc gia thực hiện. Tuy nhiên, không phải tất cả hệ thống pháp luật điều
rõ ràng theo nhất nguyên luận hoặc nhị nguyên luận. Sự tách biệt giữa nhất nguyên
luận và nhị nguyên luận là không còn phù hợp để chỉ mối quan hệ giữa pháp luật
7
Xem The incorporation of public international law into municipal law and regional law against the background of the
dichotomy between monism and dualism http://www.saflii.org/za/journals/PER/2014/43.html . Truy cập ngày 12/6/2019
7
quốc tế và pháp luật quốc gia. Bên cạnh đó, công trình thảo luận việc tiếp cận nhất
nguyên luận và nhị nguyên luận của Tòa án Hiến pháp Nam Phi trong vụ “Glenister”
và Tòa án Công lý Châu âu trong vụ “Hungary” để minh họa cho áp dụng thực tế
giữa nhất nguyên luận và nhị nguyên luận trong hệ thống pháp luật quốc gia và trên
cấp độ khu vực.
Công trình “The relationship between international law and national law in the
case of Kosovo: A constitutional perspective”8 (tạm dịch, mối liên hệ giữa luật quốc tế
và luật quốc gia trong trường hợp của Kosovo: quan điểm hiến pháp), (2011) tác giả
Visar Morina, Fisnik Korenica, Dren Doli. Công trình đề cập đến mối quan hệ giữa
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia ở Kosovo. Đồng thời, dùng Hiến pháp để trả
lời các câu hỏi về mối quan hệ giữa ĐƯQT và trật tự pháp lý trong nước ở Kosovo;
mối quan hệ giữa pháp luật tập quán quốc tế và trật tự pháp lý trong nước ở Kosovo;
mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia trong lĩnh vực nhân quyền.
Tác giả bài viết cũng cho rằng, căn cứ vào quy định Hiến pháp, Kosovo đi theo thuyết
nhất nguyên luận cho mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, đồng
thời thừa nhận tính áp dụng ĐƯQT vào pháp luật trong nước.
Thứ hai, công trình nghiên cứu bình luận về tra tấn; hình thức tra tấn trong
thực tiễn
“The United Nations Convention Against Torture,”9(tạm dịch, Công ước Liên
Hợp quốc về chống tra tấn), (2008) tác giả Manfred Nowak, Elizabeth McArthur.
Đây được xem là nguồn tài liệu đầy đủ nhất, được nghiên cứu, biên soạn bởi những
tác giả là nhà nghiên cứu nổi tiếng về vấn đề nhân quyền. GS. Manfred Nowak (người
được Chủ tịch Ủy ban nhân quyền Liên Hợp quốc chỉ định là báo cáo viên đặc biệt
về chống tra tấn) đã giải thích về Tra tấn tại Điều 1 của Công ước Liên Hợp quốc về
chống tra tấn như sau: “Tra tấn được hiểu là bất kỳ hành vi nào cố ý gây đau đớn
hoặc khổ đau nghiêm trọng về thể chất hay tinh thần cho một người, vì những mục
đích như lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba, hoặc để
trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba thực hiện hay bị
nghi ngờ đã thực hiện”. Tác giả đã đi vào phân tích “Tra tấn” không chỉ là các hành
vi đánh đập về thể chất như: sốc điện vào các bộ phận sinh dục, rút móng tay… mà
8
International Journal of Constitutional Law, Oxford Academic, Volume 9, Issue 1, 1 January 2011, P. 1-4
Manferd Nowak, Elizabeth McArthur (2008), “The United Natrions Convention Against Torture”, Oxford
University Press.
9
8
còn có các hành vi tra tấn về tinh thần: bỏ đói, uy hiếp về tinh thần, thẩm vấn xuyên
đêm kéo dài, tra tấn tình dục… làm cho nạn nhân đau khổ và lâm vào tình trạng khủng
hoảng tinh thần, tuyệt vọng. Việc cấm tra tấn về thể chất và tinh thần được bảo đảm
theo các điều khoản mạnh nhất theo luật quốc tế. Nó được bảo vệ như một quyền
tuyệt đối, không được phương hại đến ngay cả trong thời chiến tranh hoặc tình trạng
khẩn cấp. Bên cạnh đó, tác giả còn đi vào phân tích khi tham gia Công ước Liên Hợp
quốc về chống tra tấn, quốc gia thành viên phải có nghĩa vụ phòng ngừa các hành vi
tra tấn bằng nhiều hình thức như: hình sự hóa hành vi tra tấn, có các biện pháp bảo
vệ trong giai đoạn điều tra sơ bộ, đào tạo nhân viên thực thi công vụ; quá trình thẩm
vấn tù nhân; các quyền khiếu nại của phạm nhân khi bị tra tấn, quyền được bồi thường
thiệt hại khi phát hiện tra tấn…Đặc biệt, trong công trình nghiên cứu, tác giả còn nêu
lên các trình tự, thủ tục, hoạt động giám sát của Ủy ban chống tra tấn; phân biệt giữa
tra tấn và đối xử vô nhân đạo hay hạ nhục, tàn nhẫn và nguyên tắc không chấp nhận
bằng chứng do bị tra tấn. Đây là một trong những nội dung quan trọng để tác giả có
thể nhận diện được thế nào là tra tấn nhằm xây dựng hệ thống cơ sở lý luận tại chương
1. Ngoài ra, toàn văn của bài bình luận về Công ước Liên Hợp quốc về chống tra tấn
cũng cung cấp bối cảnh lịch sử và phân tích kỹ lưỡng về luật pháp và thực tiễn từ các
Tòa án quốc tế và khu vực và các cơ quan giám sát. Các quy định pháp lý liên quan
đến các Tòa án trong nước (như của House of Lord trong vụ kiện của Pinochet) cũng
như thảo luận về các quy định của các uỷ ban chống tra tấn khi kiểm tra nhà tù. “The
Torture Reporting Handbook”10 (tạm dịch, sổ tay báo cáo tra tấn), (2000) của tác giả
Camille Giffard. Đây là tài liệu ghi lại các cáo buộc tra tấn và trả lời các cáo buộc tra tấn
trong hệ thống quốc tế bảo vệ quyền con người. Trong tài liệu này đưa ra cách hiểu về
tra tấn (What’s Torture) theo quy định tại Điều 1 của Công ước Liên Hợp quốc về chống
tra tấn. Từ quy định của Điều 1 tài liệu đã nêu ra ba vấn đề quan trọng của Tra tấn đó là:
Tra tấn phải gây đau đớn về thể chất hoặc tinh thần; được thực hiện bởi người của cơ
quan nhà nước hoặc được sự đồng ý của cấp trên; nhằm mục đích lấy thông tin từ người
bị tra tấn. Đồng thời cũng đưa ra cách hiểu về đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục
con người sẽ có mức độ đau khổ ít nghiêm trọng (thấp hơn) so với tra tấn. Các hình thức
đối xử được cho là không phải tra tấn khi không được gây ra cho một mục đích cụ thể.
Nhưng phải có ý định đưa các cá nhân đến các điều kiện hoặc dẫn đến việc đối xử tệ.
Công trình cũng đi đến phân tích nạn nhân của tra tấn có thể là bất kỳ ai: đàn ông, đàn
10
Camille Giffard (2000), The Torture Reporting Handbook, Human Rights Centre, University of Essex.
9
bà, người già, trẻ em, tôn giáo, không có tôn giáo, trí thức hay nông dân đều có thể là
nạn nhân của tra tấn và thường tập trung là những người có liên quan đến vấn đề chính
trị (bất đồng quan điểm chính trị) phản đối chính quyền, hồi giáo, những người bị buộc
tội đang đối mặt với hệ thống tư pháp hình sự… Đồng thời đưa ra các bằng chứng cho
rằng nạn nhân đã bị tra tấn về thể chất (màu sắc da, vết bỏng, bầm tím của bất kỳ thương
tích nào….) hoặc tra tấn tinh thần. Tuy tra tấn tinh thần không để lại bất cứ dấu vết vật
lý nào nhưng sẽ để lại những ảnh hưởng tâm lý, tư tưởng sâu sắc cho nạn nhân. Có thể
xác định qua tư tưởng, hành vi, nỗi sợ hãi, các cơn ác mộng bị đe dọa giết… Vấn đề này
cần phải có một chuyên gia về tâm lý để xác định cụ thể.
“A History of Torture,”11 (tạm dịch, lịch sử của tra tấn), (2007), của tác giả Jame
Ross cung cấp thông tin về lịch sử về tra tấn và chống tra tấn của nhân loại. Theo tác
giả, Tra tấn đã có từ rất xưa, ngay cả trong lý luận và thực tiễn. Mọi tình huống sử dụng
tra tấn để gây đau đớn (cả thể chất và tinh thần) đối với người khác điều bị lên án. Tất
cả các ý kiến về chống hành vi tra tấn đều dựa trên cách tiếp cận từ vấn đề từ đạo đức
và quyền con người. Bên cạnh đó, tác giả đã chỉ ra rằng: mọi ý kiến chống đối tra tấn
dường như được tìm thấy trong các nội dung của văn bản pháp lý về quyền con người.
Điều này được ông kết luận sau khi nghiên cứu về cách thức sử dụng tra tấn trong lịch
sử tư pháp thế giới, bất cứ hình thức tra tấn nào cũng phản ảnh bản chất đi ngược công
lý, vô đạo đức và xâm phạm nhân quyền. “The shape of modern Torture”12 (tạm dịch,
hình thức của tra tấn hiện đại), (2005), của tác giả John T.Parry. Đây là bình luận của
tác giả qua xem xét các cuộc tranh luận quốc tế hiện nay về “tra tấn” trong khuôn khổ
quyền lực của Nhà nước hiện đại. Mục tiêu của bình luận này là kết hợp hai cách suy
nghĩ về “tra tấn” và các hình thức “cưỡng bách điều tra và thẩm vấn có liên quan”.
Phân tích pháp lý về một số vấn đề liên quan đến tra tấn, đặc biệt liên quan đến việc
thực hiện diễn ra bất thường (sử dụng vũ lực, chứ không phải là quá trình pháp lý).
“Extraordinary renditions and the protection of human rights”13 (tạm dịch,
những đề xuất về bảo vệ quyền con người), (2010), của tác giả Manfred Nowak, Roland
Schmidt. Đây là kết quả của cuộc Hội thảo của viện nhân quyền Ludwig Boltsmann tổ
chức vào ngày 6,7 tháng 10 năm 2008. Trong đó nêu lên sau hậu quả khủng bố ngày
11
Kenneth Roth and Minky worden,Amy D.Bernstein ,“A Human Ri ghts Perspective”, (2007), P. 1-17.
Xem The Shape of Modern Torture: Extraordinary Rendition and Ghost Detainees
https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=829345. Truy cập ngày 6/6/2020.
13
Xem extraordinary-renditions-and-protection-human-rights https://bim.lbg.ac.at/en/story/volume-20-2010extraordinary-renditions-and-protection-human-rights. Truy cập ngày 6/6/2020.
12
10
11/9 tại Mỹ, chính quyền Bush cùng với đồng minh đã bắt cóc các đối tượng bị tình nghi
khủng bố mà không theo đúng thủ tục và đưa họ đến những nơi bí mật giam giữ. Tại
đây, họ đã bị thẩm vấn tăng cường bằng nhiều biện pháp khác nhau. Đây được gọi là
những hành vi vi phạm nhân quyền trầm trọng nhất trong cái gọi là “cuộc chiến chống
khủng bố”. Các nghi phạm đã được vận chuyển trong các máy bay riêng của CIA, không
tuân thủ luật hàng không quốc tế và đưa cho các đồng minh sẵn sàng tra tấn. “Does it
Make Us Safer? Is it Ever Ok? A Human Right Perspective”14, (tạm dịch, có thật sự
làm cho chúng ta an toàn, có bao giờ ổn chưa, quan điểm về nhân quyền), (2007), được
biên tập bởi Kenneth Roth và Minky Worden hợp tác xuất bản. Trong cuốn sách này
có 12 bài luận của các nhà tư tưởng hàng đầu và các chuyên gia về lịch sử và các lục
địa, cung cấp một thăm dò chi tiết của chủ đề tra tấn. Bao gồm Reed Brody trên đường
tới Abu Ghraib và “những người bị ma quỷ”; Eitan Felner về kinh nghiệm của Israel;
Tom Malinowski về vi phạm “cấm thực hành” của Bộ Ngoại giao tại Abu Ghraib và ở
Afghanistan; Kenneth Roth về sự thay đổi của chính phủ Hoa Kỳ từ sự che đậy sang
biện minh; Minky Worden về một cuộc khảo sát toàn cầu về các quốc gia đang tra
tấn… Tác giả Roth cho rằng các hình thức ngược đãi thường là kênh để dẫn đến tra
tấn. Do đó, tra tấn phải được cấm trong mọi trường hợp, một số câu hỏi chính bao gồm
làm thế nào để xác định tra tấn, cho dù tra tấn có hiệu quả hay không và liệu nó có thể
chấp nhận được hay không.
Thứ ba, các công trình phòng ngừa tra tấn trong lĩnh vực tố tụng hình sự
của một số quốc gia
Phòng ngừa tra tấn là một trong những yêu cầu đặt ra của Công ước Liên Hợp
quốc về chống tra tấn đối với các quốc gia thành viên khi đã phê chuẩn. Hình thức
phòng ngừa bao gồm: quy trình cụ thể quá trình thẩm vấn, quy trình bắt người bị nghi
thực hiện tội phạm, tuyên truyền cho các nhân viên thực thi pháp luật để phòng ngừa
tra tấn… có thể nêu lên một số công trình như: “A handbook for public officials”15,
(tạm dịch, sổ tay cảnh sát), (2008), của tác giả Wayne K.Lemieux. Đây là cẩm nang
cung cấp thông tin hướng dẫn pháp luật cho nhân viên thực thi pháp luật làm thế nào
để chấm dứt hành vi tra tấn trong công việc thường ngày của họ. Bên cạnh đó còn nêu
lên trách nhiệm bảo vệ quyền con người và sự tôn trọng đối với cá nhân và nêu lên một
số vụ việc cụ thể sử dụng quá mức, trái pháp luật để tra tấn nhằm có một lời thú tội
Kenneth Roth, Minky Worden (2007), “Does it make Us Safer? Is it Ever Ok? A Human right Perspective”,
New York.
15
Wayne K.Lemieux (2008), “A handbook for public officials”, United States of America.
14
11
hoặc thông tin từ một nghi can trong VAHS. “Police and criminal Evidence Act
1984”16 (tạm dịch, Đạo luật Cảnh sát và chứng cứ phạm tội). Đây là đạo luật của quốc
hội nhằm tạo ra một khuôn khổ pháp lý cho quyền lực của nhân viên Cảnh sát tại Anh
chống tội phạm, cũng như cung cấp các quy trình cho việc thực hiện những quyền lực.
Khi thực hiện quyền lực đối với trường hợp là người chưa thành niên, đạo luật quy định
chi tiết, cụ thể đối với từng hành vi của lực lượng Cảnh sát như: khi bắt giữ người chưa
thành niên, việc đầu tiên là nhân viên Cảnh sát phải thông báo với cha, mẹ của người
bị bắt giữ, người đỡ đầu, cơ quan địa phương… về lý do bị bắt giữ. Về quy trình thẩm
vấn người chưa thành niên, nếu trong trường hợp cha, mẹ, người đỡ đầu của người
chưa thành niên không thể có mặt thì nhân viên cảnh sát tiến hành lập văn bản có chữ
ký của người chưa thành niên để chứng minh cuộc thẩm vấn không có người lớn tham
dự. Tuy nhiên, việc làm này còn phụ thuộc vào các yếu tố: phải có xác nhận của người
đứng đầu về việc khi thẩm vấn không gây tổn hại xấu đến sức khỏe, tinh thần của người
chưa thành niên. Nếu thẩm vấn có mặt của người lớn thì họ phải khuyên bảo người
chưa thành niên trong quá trình thẩm vấn và giám sát cuộc thẩm vấn diễn ra một cách
công bằng và chính xác giúp cuộc điều tra được thuận lợi và tốt đẹp.
Thứ tư, công trình nghiên cứu về đối tượng, môi trường thường xảy ra tra tấn
“Understading torture”17 (tạm dịch, dưới sự tra tấn), (2011), của tác giả John
T.Parrty. Tác giả giải thích tra tấn là một bộ phận bình thường của bộ máy cưỡng bức
của nhà nước cho nhiều mục đích khác nhau, bao gồm trật tự công cộng; kiểm soát các
nhóm thiểu số chủng tộc, sắc tộc và tôn giáo vì lợi ích của sự thống trị. Tác giả đưa ra
trường hợp Abu Ghraib liên tục bị cảnh sát bạo lực ở Hoa Kỳ; đàn áp bạo lực đối với các
nhóm sắc tộc thiểu số trong lịch sử Hoa Kỳ; thực hiện quyền lực trong một loạt các liên
hệ chính trị, xã hội và liên cá nhân. “Art of torture”, (tạm dịch, nghệ thuật tra tấn) của
tác giả Jeanne Sarson, Linda MacDonald. Đây là một bài báo nhấn mạnh sự phổ quát
hành vi tra tấn mặc dù đã cam kết của quốc gia, nhân viên nhà nước hoặc tra tấn được
gây ra bởi bạo lực gia đình. Cả hai nhóm này vi phạm quyền con người. Bài viết này tập
trung đưa ra các hành vi tra tấn gây ra bởi bạo lực gia đình hoặc nhóm nhân viên nhà
nước dưới hình thức đầu tiên là đánh đập, tra tấn tình dục và tinh thần. “Human Rights
in Closed Environments”,18 (tạm dịch, quyền con người trong môi trường khép kín),
16
Xem https://www.gov.uk/guidance/police-and-criminal-evidence-act-1984-pace-codes-of-practice.
John T.Parrty (2011), “Understading torture”, University of Michigan Press.
18
Bronwyn Naylor, Julie Debeljak and Anita Mackay (2014), “Human Rights in Closed Environments”, The
Federation Press, Vol 31
17
12
(2014), của tác giả Bronwyn Naylor, Julie Debeljak, Anita Mackay. Công trình đưa ra
các nội dung xem xét quyền con người trong môi trường kín: nhà tù, cảnh sát, trung tâm
di trú tạm giam. Tác giả cũng đã đưa ra mối quan tâm về sự tổn thương của người bị tạm
giam; sự căng thẳng giữa tôn trọng các quyền và mối quan tâm an toàn, đảm bảo một
nền văn hóa nhân quyền trong bối cảnh của sự mất cân bằng quyền lực; rút ra những so
sánh của môi trường khép kín; xem xét vai trò của cơ chế giám sát độc lập (Thanh tra,
Ủy ban nhân quyền) trong việc đảm bảo môi trường không bị tra tấn.
1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Những nghiên cứu về nội luật hóa Công ước Liên Hợp quốc chống tra tấn đối với
LLK, HCBC trong BLTTHS năm 2015 hiện nay là chưa có. Đến nay, chỉ có một số công
trình khoa học, bài viết trên các tạp chí khoa học chuyên ngành Luật, các Hội thảo chuyên
đề có các nội dung liên quan và tập trung ở một số khía cạnh mà tác giả có thể tham khảo
cho luận án cụ thể:
Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu nội luật hoá quy định của điều ước
quốc tế vào pháp luật quốc gia
Đề tài cấp bộ “Nội luật hóa các quy định của Công ước chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia trong bộ luật hình sự Việt Nam” (2016) của PGS,TS Nguyễn
Thị Phương Hoa; Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh. Công trình nghiên
cứu nêu lên cơ sở lý luận cho hoạt động nội luật hoá các quy định của CTOC vào
pháp luật Việt Nam, mà cụ thể là vào BLHS, bao gồm hai nhóm yêu cầu: i) yêu cầu
của CTOC về các nghĩa vụ mà các quốc gia thành viên phải đảm bảo làm tiêu chí cho
hoạt động nội luật hoá CTOC; ii) Yêu cầu từ điều kiện, hoàn cảnh tại Việt Nam, bao
gồm các cam kết của Việt Nam về vấn đề thực thi các ĐƯQT nói chung và CTOC
nói riêng. Để thực thi CTOC đáp ứng hai yêu cầu trên, tác giả đã nêu lên căn cứ pháp
lý theo quy định của Công ước Vienna về Luật các điều ước quốc tế năm 1969. Đồng
thời dẫn chứng các học thuyết nội luật hóa các ĐƯQT và một các quốc gia trên thế
giới đã áp dụng (nhất nguyên luận và nhị nguyên luận). Trong hệ nhất nguyên luận,
cả pháp luật quốc tế và quốc gia đều là những phần của một hệ thống pháp luật bao
quát. Trong khi đó, ở hệ nhị nguyên luận pháp luật quốc tế và quốc gia là hai hệ thống
tách rời và chỉ có pháp luật quốc gia có tính ràng buộc pháp lý đối với quốc gia đó.
Các nước theo hệ nhị nguyên luận có thể được chia làm hai loại: loại thứ nhất là
những quốc gia nơi “sự phê chuẩn chính thức của Quốc hội (thường được thực hiện
dưới hình thức phê chuẩn ĐƯQT) là đủ để nội luật hoá một ĐƯQT vào pháp luật
- Xem thêm -