Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợ...

Tài liệu Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong luật tố tụng hình sự việt nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn luận văn ths.

.PDF
102
337
64

Mô tả:

ðẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ðẶNG THANH TUẤN NGUYÊN TẮC BẢO ðẢM QUYỀN ðƯỢC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ, QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI BỊ OAN TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ðỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành : Luật Hình Sự Mã số : 60 38 40 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2011 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ, QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI BỊ OAN ......................................................................6 1.1. Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan ......................... 6 1.1.1. Khái niệm oan, sai trong luật tố tụng hình sự Việt Nam .......... 6 1.1.2. Căn cứ pháp lý xác định một công dân bị oan........................ 14 1.1.3. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan .... 19 1.2. Phạm vi, nội dung, cơ chế và cách thức bồi thường thiệt hài và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan ...................................... 23 1.2.1. Phạm vi, nội dung bồi thường thiệt hại .................................. 23 1.2.2. Cơ chế và cách thức bồi thường ............................................. 33 1.3. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong PLVN. ................................................................................................... 37 1.4. Ý nghĩa, vai trò của nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan. ........ 39 1.5. Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong luật tố tụng hình sự một số nước trên thế giới. ........................................................................ 40 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ, QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI BỊ OAN ............................................................................................47 2.1. Quy định pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan. ........ 47 2.1.1. Quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan của PLVN trước 2003 ............................................................ 47 2.1.2. Quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan của PLVN hiện hành .............................................................. 50 2.2. Thực trạng áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan ......... 52 2.2.1. Tổng kết tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết 388 và những kết quả đạt được .......................................................... 53 2.2.2. Những tồn tại, vướng mắc cơ bản trong việc thực hiện Nghị quyết 388 và nguyên nhân ............................................ 56 2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc .......................... 71 CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ, QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI BỊ OAN ...................76 3.1. Một số định hướng nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan ....................................................................................... 76 3.1.1. Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan ........................... 76 3.1.2. Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực bồi thường cho những người bị thiệt hại do cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra .................................. 77 3.1.3. Tổ chức tốt việc rà soát xác định các trường hợp được bồi thường, thụ lý đơn yêu cầu bồi thường, việc công khai xin lỗi, việc thương lượng và chi trả tiền cho đương sự. ............. 79 3.1.4. Công khai các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền tố tụng đã có hiệu lực pháp luật .................................. 80 3.2. Một số kiến nghị cụ thể trong việc xây dựng các văn bản hướng dẫn Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước liên quan tới lĩnh vực bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan ................................................................................................... 81 3.2.1. Về căn cứ xác định một người bị oan ..................................... 81 3.2.2. Về việc xác định thiệt hại và mức bồi thường ........................ 85 3.2.3. Về việc khôi phục danh dự cho người bị oan ......................... 87 3.2.4. Về thủ tục thương lượng ......................................................... 88 KẾT LUẬN ..............................................................................................................93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................95 NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT - Bộ công an: BCA - Bộ luật dân sự: BLDS - Bộ luật hình sự: BLHS - Bộ luật tố tụng hình sự: BLTTHS - Bộ tư pháp: BTP - Cơ quan tiến hành tố tụng: CQTHTT - Công an nhân dân: CAND - Cấu thành tội phạm: CTTP - Nghị quyết: NQ - Pháp luật Việt Nam: PLVN - Tòa án nhân dân: TAND - Tòa án nhân dân tối cao: TANDTC - Tố tụng dân sự: TTDS - Tố tụng hình sự: TTHS - Trách nhiệm bồi thường của nhà nước: TNBTCNN - Ủy ban thường vụ quốc hội: UBTVQH - Viện kiểm sát nhân dân: VKSND - Viện kiểm sát nhân dân tối cao: VKSNDTC - Xã hội chủ nghĩa: XHCN MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài Có thể nói, “oan” là hiện tượng nảy sinh trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự, tố tụng hình sự của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, mà hậu quả của nó là quyền tự do thân thể, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tinh thần, tài sản của công dân bị xâm phạm, làm cho pháp luật không được thực hiện nghiêm minh, làm giảm lòng tin của nhân dân vào cơ quan tư pháp, tạo ra dư luận xấu trong xã hội. Với mục tiêu bảo đảm quyền con người, quyền tự do thân thể, quyền tự do dân chủ và các quyền cơ bản khác của công dân, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 Việt Nam đã quy định tại Điều 29 “Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật” tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn về cả lý luận và thực tiễn, đảm bảo cho việc xác định trách nhiệm của nhà nước trong mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và công dân, một trong những nội dung quan trọng của Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công dân vi phạm pháp luật thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, Nhà nước có quyền truy cứu, xử lý và ngược lại Nhà nước vi phạm mà cụ thể ở đây là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được nhà nước trao quyền đã vi phạm pháp luật, xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì trước hết nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền tố tụng gây ra sẽ góp phần nâng cao chất lượng và 1 hiệu quả của công tác khởi tố điều tra, xét xử và thi hành án hình sự. Việc cụ thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong hệ thống pháp luật nước ta sẽ tăng cường dân chủ hóa trong hoạt động tố tụng hình sự, góp phần bảo vệ quyền con người và bảo đảm nguyên tắc mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật về quyền và nghĩa vụ, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do đó việc nghiên cứu riêng về nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan là một việc làm rất cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, tại kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật TNBTCNN ngày 18 tháng 6 năm 2009 nhằm cụ thể hóa nguyên tắc này. Vì vậy, tác giả thực hiện luận văn thạc sĩ với đề tài “Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong luật tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” để góp phần vào việc nghiên cứu đó. 2. Tình hình nghiên cứu Oan, sai và bồi thường cho người bị oan trong tố tụng hình sự là một vấn đề pháp lý được nhiều nhà luật học quan tâm và nghiên cứu. Tính tới thời điểm hiện nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này được công bố dưới các hình thức khác nhau, như: đề tài khoa học cấp bộ, bài viết trên các tạp chí. Về đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ có đề tài “Những tồn tại, vướng mắc trong việc thực hiện Nghị Quyết 388/NQ – UBTVQH 11 ngày 17/3/2003 của UBTVQH về bồi thường cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, thực trạng và giải pháp” của Viện khoa học Kiểm sát, Viện Kiểm sát NDTC, năm 2006. Về các bài viết trên các báo, tạp chí khoa học chuyên ngành, phải kể đến một loạt bài của hai 2 tác giả TS. Nguyễn Ngọc Chí và CN. Đào Thị Hà, cụ thể: (I) TS Nguyễn Ngọc Chí, Đào Thị Hà, Bàn về minh oan, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5 năm 2003; (II) TS Nguyễn Ngọc Chí, Đào Thị Hà, Bàn về oan, sai trong tố tụng hình sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2 năm 2003; (III) TS. Nguyễn Ngọc Chí, Đào Thị Hà, Cơ chế minh oan trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật. Tập 21, Số 3, 2005 3. Mục đích của đề tài Khi nghiên cứu đề tài: “Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong luật tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, tác giả tập trung vào việc giải quyết các vấn đề sau: - Phân tích nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và chỉ ra các cơ sở pháp lý của nguyên tắc này trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành. - Phân tích và đánh giá thực trạng của nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật trong NQ 388 và Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và một số tình huống điển hình. - Chỉ ra những hạn chế, thiếu sót và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan 4. Phạm vi nghiên cứu Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu nội dung, ý nghĩa và cơ sở pháp lý của nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và 3 phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và tình hình thực hiện nguyên tắc này trong thời gian qua trên cơ sở các quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Nghị quyết 388 và các văn bản hướng dẫn thi hành hai văn bản nêu trên. 5. Phương pháp nghiên cứu Là một đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, cho nên trong luận văn này, tác giả vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Bên cạnh những phương pháp nghiên cứu truyền thống như phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tác giả vận dụng các phương pháp đặc thù, như: Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp…. - Phương pháp phân tích: Được thể hiện qua việc tác giả tập trung phân tích những quy định cụ thể trong Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2010, Nghị quyết 388 và các văn bản hướng dẫn - Phương pháp so sánh: Được tác giả vận dụng để so sánh các quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2010 và các quy định trong NQ 388 và văn bản hướng dẫn. - Phương pháp nghiên cứu tình huống (Case Study): tác giả sử dụng phương pháp này để phân tích một số tình huống có thật trong thực tiễn giải quyết bồi thường cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra - Phương pháp tổng hợp: Được tác giả vận dụng để đưa ra những kết luận mang tính chất tổng hợp và có chọn lọc về nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và đưa ra giải pháp hoàn thiện trên cơ sở những kết quả có được từ việc phân tích và so sánh những quy định pháp luật. 4 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong luật tố tụng hình Việt Nam. Do đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, giảng viên, học viên, sinh viên. Luận văn đưa ra một số giải pháp ở cả hai mức độ, thứ nhất là các giải pháp mang tính chất định hướng và thứ hai là các giải pháp mang tính cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan. Do đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp trong việc xây dựng và ban hành các văn bản hướng dân thi hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2010. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan Chương 2: Thực trạng nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan. Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan 5 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ, QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI BỊ OAN 1.1. Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan 1.1.1. Khái niệm oan, sai trong luật tố tụng hình sự Việt Nam Theo Đại từ điển Tiếng việt (Nguyễn Như Ý (chủ biên), NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội, năm 1998, trang 1269.) oan có nghĩa là “bị quy tội không đúng, phải chịu sự trừng phạt một cách sai trái, vô lý”. Trên cơ sở này, khái niệm “oan” trong tố tụng hình sự (TTHS) gồm những nội dung sau: Thứ nhất, công dân bị khởi tố, tạm giam, tạm giữ nhưng sau đó cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án, trả tự do vì hết thời hạn tạm giam, tạm giữ mà không chứng minh được người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, hoặc người đó chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc chứng minh được hành vi của người đó không cấu thành tội phạm (CTTP). Thứ hai, công dân đã bị truy tố ra Toà án để xét xử nhưng Toà án tuyên bố bị cáo không có tội hoặc bản án kết tội của Toà án cấp dưới bị Toà án cấp trên huỷ, tuyên bị cáo không có tội. Thứ ba, công dân bị truy tố, xét xử, kết án theo một tội danh nặng hơn so với tội danh trên thực tế đã phạm và bản án đã được Toà án cấp trên sửa theo hướng nhẹ hơn. Theo từ điển tiếng Việt thì từ “sai’’ được hiểu là “không phù hợp với cái hoặc điều có thật, mà có khác đi”. Theo đó trong TTHS, việc giải quyết vụ án sai là trường hợp các CQTHTT giải quyết vụ án được giao một cách không khách quan, trái với những quy định của pháp luật. 6 Oan và sai trong TTHS là hai hiện tượng hoàn toàn khác nhau, nhưng có mối quan hệ với nhau: việc làm oan người vô tội luôn luôn là hệ quả của hành vi trái (sai) pháp luật, còn sai được hiểu là tính chất của hoạt động hoặc chất lượng giải quyết vụ án hình sự của CQTHTT. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp hành vi sai pháp luật của CQTHTT không dẫn đến việc làm oan người vô tội. Chẳng hạn: Trong quá trình điều tra, điều tra viên đã hỏi cung bị can không đúng quy định của luật TTHS (hỏi cung ban đêm...) hoặc do thiếu trách nhiệm trong việc đánh giá chứng cứ của vụ án, Thẩm phán đã áp dụng điều luật quy định tội phạm của Bộ luật hình sự không phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Những trường hợp sai này không thuộc nội hàm khái niệm oan. Do đó, một số nhà nghiên cứu cho rằng không được đồng nhất “oan” và “sai” với nhau và không nên dùng cụm từ “oan sai” mà chỉ sử dụng cụm từ “oan, sai” hoặc oan, sai độc lập trong những tình huống thích hợp. Sự nhầm lẫn trên mặc dù chỉ là về mặt ngôn ngữ, nhưng trong khoa học pháp lý thì ngôn ngữ pháp lý phải được sử dụng một cách chính xác. Đặc biệt, CQTHTT và người tiến hành tố tụng không được phép đồng nhất hai khái niệm này với nhau, vì họ là những chủ thể tiêu biểu mang trong mình yếu tố văn hoá pháp lý của một quốc gia [29]. Pháp luật các quốc gia trên thế giới đều tiếp cận và ở một chừng mực nhất định quy định các nội dung “oan” trong TTHS. Tại Trung Quốc, các trường hợp sau được coi là oan: (I) Người bị tình nghi phạm tội bị bắt giữ nhưng chưa có dấu hiệu thực tế hoặc chưa có những chứng cứ thực tế là phạm tội; (II) Người chưa thực sự phạm tội nhưng đã bị giam giữ; (III) Người đã chấp hành hình phạt mà Toà án đã tuyên nhưng sau đó được xét xử lại theo trình tự kiểm tra, giám sát xét xử là vô tội. Theo Bộ luật Hình sự Cộng hoà Liên bang Nga, thì các trường hợp sau được coi là oan: (I) Một người rõ ràng là không có tội nhưng đã bị người có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình 7 sự; (II) Một người bị tình nghi phạm tội hoặc bị tố cáo là đã thực hiện hành vi phạm tội bị Kiểm sát viên hoặc người tiến hành điều tra sơ bộ truy cứu trách nhiệm hình sự trái pháp luật; (III) Một người bị bắt giữ trái pháp luật. Nhìn chung, pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều không đưa ra một khái niệm chung về “oan” trong TTHS, chỉ nêu các trường hợp cụ thể được coi là oan. Theo tác giả đây là một cách tiếp cận hợp lý, vì việc thừa nhận trường hợp nào được coi là oan liên quan đến cả vấn đề bồi thường thiệt hại, nên tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của mỗi nước, ở mỗi thời kỳ nhất định mà pháp luật quy định cụ thể các trường hợp được coi là oan, từ đó đưa ra một cơ chế minh oan mang tính khả thi. Xuất phát từ nhận thức trên, căn cứ vào đặc điểm của từng thời kỳ, pháp luật Việt Nam có những văn bản quy định khác nhau về các trường hợp bị oan, cụ thể: Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11, Điều 1 đưa ra năm trường hợp được bồi thường thiệt hại, bao gồm: (I) người bị tạm giữ có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì họ không thực hiện bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào; (II) người bị tạm giam khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giam vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội; (III) người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết định của Tòa án có thẩm quyền xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; (iv) người bị khởi tố, truy tố, xét xử, nếu trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự không bị tạm giữ, không bị tạm giam mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định họ không thực hiện hành vi phạm tội; (v) những người thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết số 388 nếu có tài sản bị thu giữ, tạm 8 giữ, kê biên, tịch thu mà bị thiệt hại”. Như vậy, theo quy định của Nghị quyết 388 thì có bảy đối tượng được bồi thường thiệt hại và được coi là oan bao gồm: người bị tạm giữ oan do không thực hiện bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào và người bị tạm giam, bị chấp hành hình phạt, bị kết án tử hình, bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà người đó không thực hiện hành vi phạm tội. Ngoài ra, Điều 2 Nghị quyết 388 quy định bốn trường hợp không được bồi thường thiệt hại, gồm có: Một là, người được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Điều 25 của Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Trong trường hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, thì cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá”. Ngoài quy định này, Bộ luật hình sự còn có một số quy định khác về miễn trách nhiệm hình sự “người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm về tội định phạm” (Điều 19); “Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây thiệt hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục” (khoản 2 Điều 69). Hai là, người bị khởi tố, truy tố, xét xử là đúng với quy định của BLHS năm 1985, nhưng nay theo quy định của BLHS năm 1999 thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. 9 Ba là, những người thuộc trường hợp quy định tại Điều 1 của Nghị quyết 388 mà cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu, vật chứng khác sai sự thật để nhận tội thay cho người khác hoặc để che giấu tội phạm, thì không được bồi thường thiệt hại. Bốn là, những người thuộc các trường hợp quy định tại Điều 1 của Nghị quyết này mà bị tổn hại về sức khoẻ, tính mạng, tài sản do lỗi của chính mình hoặc do sự kiện bất khả kháng thì không được bồi thường thiệt hại đó. Để hướng dẫn thi hành Nghị quyết 388, tiểu mục 1 Thông tư 04 đã bổ sung thêm 3 trường hợp được bồi thường, đó là: (I) Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành; (II) Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành; (III) Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Toà án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi 10 thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành. Bên cạnh đó tiểu mục 2 Thông tư 04 đã bổ sung thêm năm trường hợp sau thuộc trường hợp không được bồi thường thiệt hại, đó là: (I) Người bị khởi tố, truy tố trong vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, nhưng vụ án đã được đình chỉ do người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm, trừ trường hợp hành vi vi phạm pháp luật của họ chưa cấu thành tội phạm; (II) Người bị khởi tố, truy tố, xét xử là đúng với các văn bản quy phạm pháp luật tại thời điểm khởi tố, truy tố, xét xử, nhưng nay theo các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành và có hiệu lực sau ngày khởi tố, truy tố, xét xử đó họ không phải chịu trách nhiệm hình sự; (III) Người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội đã bị tạm giữ, bị khởi tố, bị tạm giam, bị truy tố, xét xử, thi hành án mà có quyết định, bản án của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định, bản án đó chỉ vì lý do căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y là tại thời điểm thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội người đó không có năng lực trách nhiệm hình sự; (iv) Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, hoặc tòa án quyết định tổng hợp hình phạt của nhiêu bản án, đã bị tạm giữ, bị tạm giam, đã chấp hành hình phạt tù, hoặc đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó bị oan về một hoặc một số tội mà không thuộc trường hợp quy định tại tiểu mục 1.4; 1.5; 1.6 mục 1 phần này thì không được bồi thường; (v) Đối với những người bị oan đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các quy định của pháp luật tại thời điểm giải quyết bồi thường để bồi thường thiệt hại từ trước ngày Nghị quyết 388 có hiệu lực, thì không áp dụng Nghị quyết này để giải quyết bồi thường lại. 11 Trên cơ sở kế thừa các quy định của Nghị quyết số 388 và các văn bản hướng dẫn, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 đã mở rộng thêm các trường hợp được bồi thường và thu hẹp các trường hợp không được bồi thường so với các văn bản đó, cụ thể: Điều 26 đưa ra bảy trường hợp được bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự, bao gồm: (I) người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; (II) người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; (III) người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; (iv) người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành; (v) người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với 12 mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành; (vi) người bị xét xử bằng nhiều bản án, Toà án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành; (vii) tổ chức, cá nhân có tài sản bị thiệt hại do việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý có liên quan đến các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này thì được bồi thường. Điều 27 nêu ra năm trường hợp không được bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự, bao gồm: (I) người được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; (II) người cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu, vật chứng khác sai sự thật để nhận tội thay cho người khác hoặc để che giấu tội phạm; (III) người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án hoặc Toà án quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, đã bị tạm giữ, bị tạm giam, đã chấp hành hình phạt tù hoặc đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 26 của Luật này; (iv) người bị khởi tố, truy tố trong vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nhưng vụ án đã được đình chỉ do người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố, trừ trường hợp hành vi vi phạm pháp luật của họ chưa cấu thành tội phạm; (v) người bị khởi tố, truy tố, xét xử là đúng với các văn bản quy phạm pháp luật tại thời điểm khởi tố, truy tố, xét xử nhưng tại thời điểm ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà theo các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành và có hiệu lực sau ngày khởi tố, truy tố, xét xử đó họ không phải chịu trách nhiệm hình sự. 13 Như vậy, so với Nghị quyết số 388 và các văn bản hướng dẫn, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 đã bổ sung thêm 2 trường hợp được bồi thường, đó là: (I) Người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; (II) Người bị thi hành án không phải là hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội Ngoài ra Luật còn thu hẹp đối tượng không được bồi thường bằng việc bỏ các quy định không cần thiết, cụ thể là các quy định sau: (I) người bị xử lý về hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 27 tháng 6 năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung theo các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 12 năm 1989, ngày 12 tháng 8 năm 1991, ngày 22 tháng 12 năm 1992 và ngày 10 tháng 5 năm 1997, nhưng nay theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; (II) người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội đã bị tạm giữ, bị khởi tố, bị tạm giam, bị truy tố, xét xử, thi hành án mà có quyết định, bản án của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định, bản án đó chỉ vì lý do căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y là tại thời điểm thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội người đó không có năng lực trách nhiệm hình sự; (III) đối với những người bị oan đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các quy định của pháp luật tại thời điểm giải quyết bồi thường để bồi thường thiệt hại từ trước ngày Nghị quyết 388 có hiệu lực, thì không áp dụng Nghị quyết này để giải quyết bồi thường lại. 1.1.2. Căn cứ pháp lý xác định một công dân bị oan Căn cứ pháp lý xác định một công dân bị oan trong TTHS là các quyết 14 định mang tính gỡ tội, minh oan cho bị can, bị cáo, người bị kết án. Việc xác định căn cứ này có ý nghĩa rất to lớn, nó vừa biểu hiện cho kết quả của “hành trình” minh oan (dù chưa phải là kết quả cuối cùng), vừa là cơ sở pháp lý để các CQTHTT khôi phục lại những thiệt hại mà người bị oan đã phải gánh chịu. Nhìn chung, các nước đều quy định căn cứ xác định một công dân bị oan là một phán quyết của Toà án. Đây có thể là một phán quyết sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Tuy nhiên, một số nước lại chỉ nhấn mạnh việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan khi Toà phúc thẩm tuyên vô tội (hủy bản án kết tội). Theo quy định của pháp luật Cộng hoà Pháp thì một người được coi là oan khi có tuyên bố của Toà Phá án rằng người đó vô tội (Phòng hình sự Toà Phá án xét xử lại bản án và bản án được đưa ra xét xử đã được Toà Phá án ra quyết định huỷ bỏ và xác định sự vô tội). Tại Trung Quốc, theo quy định của các Điều 21, Điều 22 Luật Nhà nước bồi thường thiệt hại và Khoản 3 trong giải thích của Toà án nhân dân tối cao về việc Toà án nhân dân thực hiện Luật Nhà nước bồi thường thiệt hại thì căn cứ xác định oan chính là phán quyết của Toà án tuyên bị cáo vô tội. Theo quy định của pháp luật Nhật Bản thì căn cứ pháp lý xác định một người bị oan là quyết định của Toà án tuyên vô tội theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm hoặc thủ tục kháng án đặc biệt. Tại Thuỵ Điển, căn cứ pháp lý xác định một người bị oan là quyết định của cơ quan có thẩm quyền xác định một người bị tạm giữ, tạm giam oan quá 24 giờ hoặc quyết định của Toà án tuyên vô tội. Khác với pháp luật của một số nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam thừa nhận một người bị oan trong mọi giai đoạn TTHS. Đây là điểm ưu việt của pháp luật nước ta, có như vậy thì quyền và lợi ích hợp pháp của người bị oan mới được bảo vệ một cách triệt để [30, trang 4]. Căn cứ pháp lý để xác định một người bị oan được quy định cụ thể tại Điều 6 khoản 2 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010, đó là: “Có bản án, quyết định của 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan