Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Người trần thuật trong nhật ký anne frank (2016)...

Tài liệu Người trần thuật trong nhật ký anne frank (2016)

.PDF
66
195
123

Mô tả:

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== NGUYỄN THỊ THẢO NGƢỜI TRẦN THUẬT TRONG NHẬT KÝ ANNE FRANK KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lí luận Văn học HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Thạc sĩ Hoàng Thị Duyên - ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn tận tình để tôi có thể hoàn thành khóa luận. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô trong khoa Ngữ Văn, đặc biệt là các thầy cô trong tổ Lý luận Văn học, các bạn sinh viên và ngƣời thân đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu này. Trong quá trình nghiên cứu, khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận đƣợc sự góp ý, chỉ bảo từ thầy cô để khóa luận hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 11 tháng 05 năm 2016 Sinh viên Nguyễn Thị Thảo LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong khóa luận là kết quả nghiên cứu của tôi, không trùng với bất cứ công trình nghiên cứu nào khác. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Hà Nội, ngày 11 tháng 05 năm 2016 Sinh viên Nguyễn Thị Thảo MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 3 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................... 4 6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................ 4 7. Câu trúc của khóa luận ............................................................................... 4 NỘI DUNG ....................................................................................................... 6 CHƢƠNG 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRẦN THUẬT VÀ VÀI NÉT VỀ CUỐN NHẬT KÝ ANNE FRANK ....................................... 6 1.1. Những vấn đề lý luận chung về trần thuật .............................................. 6 1.1.1 Khái niệm trần thuật .......................................................................... 6 1.1.2. Các yếu tố cơ bản của trần thuật ....................................................... 8 1.1.2.1.Ngƣời trần thuật, ngôi trần thuật, vai trần thuật .......................... 8 1.1.2.2 Điểm nhìn trần thuật .................................................................. 15 1.1.2.3 Ngôn ngữ trần thuật ................................................................... 18 1.1.2.4 Giọng điệu trần thuật ................................................................. 19 1.1.2.5 Không gian, thời gian trần thuật ................................................ 21 1.2 Vài nét về Nhật ký Anne Frank .............................................................. 22 1.2.1 Hoàn cảnh ra đời, quá trình biên tập và xuất bản: ........................... 22 1.2.2 Giá trị của cuốn nhật ký ................................................................... 23 CHƢƠNG 2: NGƢỜI TRẦN THUẬT GẮN VỚI NGÔI TRẦN THUẬT VÀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT ......................................................................... 24 2.1 Ngƣời trần thuật từ ngôi thứ nhất .......................................................... 24 2.1.1 Ngƣời trần thuật là hình tƣợng trung tâm của tác phẩm. .................... 32 2.1.2 Ngƣời trần thuật là ngƣời trực tiếp tham gia vào câu chuyện. ........... 35 2.1.3 Ngƣời trần thuật là ngƣời quan sát cuộc sống. ................................... 37 2.1.4 Ngƣời trần thuật là ngƣời đánh giá. .................................................... 39 2.2 Điểm nhìn trần thuật .............................................................................. 41 2.2.1 Điểm nhìn của ngƣời trần thuật ....................................................... 41 2.2.2 Điểm nhìn không gian và điểm nhìn thời gian ............................... 44 2.2.3 Điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài ................................. 48 2.2.4 Điểm nhìn đánh giá tƣ tƣởng cảm xúc............................................. 50 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 53 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngƣời trần thuật là khái niệm trung tâm của tự sự học.Trong mỗi tác phẩm, ngƣời trần thuật đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn dắt, thuật lại toàn bộ câu chuyện.Từ đó, bạn đọc có thể cảm nhận và đi sâu vào tìm hiểu các lớp nghĩa văn bản ẩn sau từng con chữ. Việc xây dựng hình tƣợng ngƣời trần thuật vì thế đƣợc coi là một trong những phƣơng diện quan trọng thể hiện nội dung tác phẩm cũng nhƣ sức sáng tạo nghệ thuật của mỗi nhà văn. Nghiên cứu ngƣời trần thuật sẽ mở ra cánh cửa đi vào tìm hiểu sâu tác phẩm đặc biệt với thể loại nhật ký. Trong những năm gần đây, nhật ký đã và đang nhận đƣợc sự quan tâm đặc biệt của dƣ luận nhất là đối với những trang nhật ký viết về đề tài chiến tranh.Xã hội càng hiện đại, con ngƣời càng có xu hƣớng ghi chép lại những tâm tƣ cá nhân, những gì đã nếm trải hay diễn ra trong cuộc sống thƣờng nhật.Blog các nhân, facebook, zalo…đƣợc coi là một dạng của nhật ký nhằm phục vụ nhu cầu ghi lại những sự việc, tâm tƣ cảm xúc ấy. Điều đó tạo điều kiện cho thể loại nhật ký ngày càng đƣợc chú trọng trong dạy học cũng nhƣ trong nghiên cứu văn học. Nhật ký Anne Frank đã đem đến cho bạn đọc cái nhìn mới mẻ về con ngƣời cũng nhƣ các vấn đề xã hội. Ngay từ khi mới đƣợc công bố, cuốn nhật ký này đã thu hút đƣợc sự đón nhận của đông đảo độc giả với thái độ trân trọng, với niềm cảm kích, cảm thƣơng dành cho cô bé Do Thái 13 tuổi vui tƣơi đầy nhựa sống bị cầm tù bởi chiến tranh phải sống trong nỗi lo sợ thƣờng xuyên, bị gặm nhấm, mài mòn bởi những toan tính nhỏ mọn, tầm thƣờng xung quanh. Qua lăng kính của cô bé ấy, những vấn đề nhức nhối của xã hội thời chiến đƣợc ghi lại một cách sống động. Bạn đọc cùng trải nghiệm, đồng cảm với những trạng thái cảm xúc của nhân vật: vui, buồn, suy tƣ, hài 1 hƣớc…Nhật ký Anne Frank đƣợc coi là bức chân dung tự họa của về một cô gái trẻ thông minh, nhạy cảm đầy dũng cảm. Tìm hiểu cuốn nhật ký này, chúng tôi hi vọng sẽ đóng góp một cái nhìn mới, sâu sắc hơn về thể loại nhật ký đặc biệt ở phƣơng diện ngƣời trần thuật. 2. Lịch sử vấn đề Nghệ thuật trần thuật nói chung và ngƣời trần thuật nói riêng là một trong những vấn đề đƣợc giới nghiên cứu quan tâm.Có rất nhiều công trình nghiên cứu về ngƣời trần thuật trong tác phẩm tự sự.Với thể loại nhật ký, những năm gần đây, nó đang là một trong những vấn đề có sức nóng.Bởi nhật ký là “hình thức tự sự ở ngôi thứ nhất”, ghi lại những sự kiện, sự việc xảy ra hằng ngày mang tính cá nhân. Khi thế giới nội tâm con ngƣời đƣợc chú trọng cùng với nhu cầu bộc bạch tự ý thức, tự quan sát thì nhật ký đƣợc nghiên cứu sâu rộng và có mảnh đất để phát triển. Đặc biệt là những cuốn nhật ký viết về đề tài chiến tranh ngày càng nhận đƣợc sự quan tâm của công chúng cũng nhƣ giới nghiên cứu trong và ngoài nƣớc.Các nhà nghiên cứu đặt nhật ký với tƣ cách là một thể loại văn học để nghiên cứu lý luận song song với các thể loại khác. Ở Việt Nam, bạn đọc đã quen thuộc với Nhật ký Đặng Thùy Trâm, nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi( Nguyễn Văn Thạc), Nhật ký chiến trường (Dƣơng Thị Xuân Qúy), Những năm tháng ấy (Vũ Tú Nam) – nhật ký của những ngƣời anh hùng trên chiến trƣờng chống quân xâm lƣợc, ghi lại các sự kiện ác liệt, những ƣớc mơ cùng ý chí kiên cƣờng của ngƣời trong cuộc. Độc giả cũng tìm đọc những cuốn nhật ký thế giới nhƣ Nhật ký của người tinh Kisinger (DanièleHunebelle), Nhật ký Diên An (P.P Vlađimirốp)… Ngay từ khi xuất bản, Nhật ký Anne Frank đã tạo ra một làn sóng văn học, gây ấn tƣợng mạnh mẽ tới bạn đọc, nhận đƣợc sự quan tâm của giới nghiên cứu qua các bản dịch với hơn 30 thứ tiếng cùng hàng loạt những bài 2 viết trên các trang sách, trang mạng. Qua những bài viết đó, bạn đọc có cái nhìn chân thực hơn về chiến tranh, nạn phân biệt chủng tộc và cuộc sống của những ngƣời dân bất hạnh đó. Đã có rất nhiều những bài viết nghiên cứu về ngƣời trần thuật nhƣ Người trần thuật trong văn xuôi Đặng Thân – từ Ma Net đến 3.3.3.9 [Những mảnh hồn trần] (luận văn của thạc sĩ Trần Thị Ban Mai nghiên cứu về ngƣời trần thuật trên các phƣơng diện ngôi kể, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật). Với thể loại nhật ký, phải kể đến các công trình nghiên cứu nhƣ: Đặc trưng ngôn từ nghệ thuật trong nhật ký Nguyễn Huy Tưởng - khai thác bình diện ngôn từ trong nhật ký (bài viết đăng trên báo của thạc sĩ Hoàng Thị Duyên), Người trần thuật trong nhật ký Nguyễn Huy Tưởng - khai thác ngƣời trần thuật trong nhật ký Nguyễn Huy Tƣởng trên các phƣơng diện ngôi kể, điểm nhìn trần thuật (bài nghiên cứu của ThS.Hoàng Thị Duyên và SV.Phùng Mai Anh trích trong cuốn Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng từ khởi nguồn Dục Tú – Đông Anh). Với mong muốn góp một phần làm phong phú thêm cho diện mạo của thể loại, chúng tôi chọn đề tài ngƣời trần thuật trong nhật ký Anne Frank.Với đề tài khóa luận này, chúng tôi tập trungkhai thác đặc trƣng nghệ thuật của nhật ký ở phƣơng diện ngƣời trần thuật. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Thể loại nhật ký đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh những vấn đề cốt lõi của xã hội, những góc cạnh đa chiều của hiện thực đời sống.Từ đó, độc giả có cái nhìn chân thực và sâu sắc hơn về con ngƣời và xã hội.Nhật ký Anne Frank là bức tranh hiện thực phản ánh đầy đủ những khía cạnh của xã hội thời chiến qua lăng kính của cô bé 13 tuổi. Đồng thời đó còn là bức tranh tâm lý độc đáo của một cô bé với tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, đầy suy tƣ khi nhìn nhận, đánh giá cuộc sống và con ngƣời. 3 Bên cạnh đó, khi nghiên cứu cuốn nhật ký này, chúng tôi hi vọng những vấn đề đầy tính nhân văn tác giả phản ánh, bạn đọc sẽ đồng cảm, sẻ chia để có tiếng nói chung lên án chiến tranh, nạn phân biệt chủng tộc…cùng nhau xây dựng một môi trƣờng hòa bình, công bằng, lành mạnh. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Trong khóa luận này, chúng tôi tập trung tìm hiểu cuốn Nhật ký Anne Frank trên phƣơng diện ngƣời trần thuật. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Khóa luận này bên cạnh đi sâu khảo sát cuốn Nhật ký Anne Frank còn tham khảo một số cuốn nhật ký khác cùng đề tài để làm nổi bật giá trị nhân văn mà cuốn nhật ký mang lại. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong khóa luận này, chúng tôi đƣa ra các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể: Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp Phƣơng pháp thống kê, so sánh Phƣơng pháp hệ thống 6. Đóng góp của khóa luận Với đề tài Ngƣời trần thuật trong Nhật ký Anne Frank, chúng tôi mong muốn khóa luận sẽ mang lại cái nhìn toàn diện về những đóng góp của cuốn nhật ký này trên phƣơng diện ngƣời trần thuật cũng nhƣ những vấn đề đầy nhân văn mà cuốn nhật ký phản ánh, góp phần phát triển thể loại nhật ký nói riêng và văn học đƣơng đại nói chung. 7. Câu trúc của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận gồm 02 chƣơng 4 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRẦN THUẬT VÀ VÀI NÉT VỀ CUỐN NHẬT KÝ ANNE FRANK CHƢƠNG 2: NGƢỜI TRẦN THUẬT TRONG NHẬT KÝ ANNE FRANK 5 NỘI DUNG CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRẦN THUẬT VÀ VÀI NÉT VỀ CUỐN NHẬT KÝ ANNE FRANK 1.1. Những vấn đề lý luận chung về trần thuật 1.1.1 Khái niệm trần thuật Ngay từ đầu thế kỷ XX, trần thuật đã là một trong những vấn đề mang tính thời sự, nó thu hút đƣợc sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ này.Thuật ngữ trần thuật (narration) còn có tên gọi khác là kể chuyện. Theo Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán - Trần Đình Sử chủ biên có đƣa ra định nghĩa: “Trần thuật là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh theo cách nhìn của người trần thuật nhất định”. “Thành phần của trần thuật không chỉ là lời thuật, chức năng của nó không chỉ là kể việc. Nó bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả” [8,tr.364]. Nói về kể chuyện, J.Linveltcũng cho rằng: “Kể là một hành vi trần thuật, và theo nghĩa rộng là cả một tình thế hư cấu bao gồm cả người trần thuật và người kể…” [23,tr.32]. Bàn về thuật ngữ này, tác giả Lại Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học cho rằng: “Trần thuật bao gồm cả việc kể và miêu tả các hành động và biến cố trong thời gian, mô tả chân dung hoàn cảnh của hành động, tả ngoại hình, tả nội thất… bàn luận, lời nói bán trực tiếp của nhân vậy. Do vậy, trần thuật là phương thức chủ yếu để cấu tạo tác phẩm tự sự hoặc của 6 ngườikể, tức là toàn bộ văn bản tác phẩm tự sự, ngoại trừ lời nói trực tiếp của các nhân vật” [2,tr.324]. Trong cuốnLí luận văn họcxác định: “Trần thuật là một sự trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, sự kiện, tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật một cách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách cảm nhất định. Trần thuật là sự thể hiện của hình tượng văn học, truyền đạt nó tới người thưởng thức. Bố cục của trần thuật là sắp xếp, tổ chức sự tương ứng giữa các phương diện khác nhau của hình tượng với các thành phần khác nhau của văn bản” [13,tr.307]. Ngoài ra, còn có rất nhiều quan điểm khác nhau về trần thuật đƣợc các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc quan tâm, tìm hiểu. Nhƣng có thể thấy hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng trần thuật là một hoạt động sáng tạo của nhà văn trong việc phản ánh hiện thực. Khái niệm này gắn liền với kết cấu và bố cục của tác phẩm văn học.Trần thuật chính là phƣơng thức nghệ thuật đặc trƣng của tác phẩm tự sự.Bản chất của trần thuật là kể lại, thuật lại những sự kiện, nhân vật, hoàn cảnh…nhằm dẫn dắt, tổ chức các sự kiện trong tác phẩm.Nó đóng vai trò dẫn dắt bạn đọc, đƣa bạn đọc thâm nhập vào chiều sâu của tác phẩm. Mỗi tác phẩm dù đƣợc kể theo trình tự nào, nhanh hay chậm, tuyến tính hay phi tuyến tính, ngắt quãng hay dàn trải…thì trần thuật trong tác phẩm ấy đều là cả một hệ thống phức tạp nhằm giúp ngƣời đọc lĩnh hội dụng ý nhà văn. Nhà văn là cầu nối các sự kiện để tạo thành một mạch xuyên suốt. Nhà văn khi kể có thể tuân theo hoặc không tuân theo trật tự thông thƣờng phù hợp với dụng ý của mình. Vì lẽ đó, trần thuật là phƣơng diện cho thấy tài năng, cá tính sáng tạo của mỗi nhà văn, sức hấp dẫn của văn bản nghệ thuật. Ngƣời nghệ sĩ tài năng là ngƣời luôn tạo ra những điểm độc đáo về trần thuật cho đứa con tinh thần của mình. Nói nhƣ Nam Cao “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu 7 đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. Nói tóm lại, trần thuật là một vấn đề thuộc thi pháp thể loại nhất là đối với thể nhật ký – thể loại đã và đang nhân đƣợc sự quan tâm lớn. 1.1.2. Các yếu tố cơ bản của trần thuật Bàn về các yếu tố cơ bản của trần thuật, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc cũng đƣa ra nhiều ý kiến khác nhau. GS.Trần Đình Sử cho rằng trần thuật bao gồm sáu yếu tố cơ bản là ngƣời trần thuật, ngôi trần thuật, vai trần thuật; điểm nhìn trần thuật; lƣợc thuật; miêu tả chân dung và dựng cảnh; phân tích, bình luận; giọng điệu.Có thể thấy, trần thuật bao gồm nhiều thành phần, chức năng của nó không chỉ để kể việc. Tìm hiểu các yếu tố trần thuật trong tác phẩm tự sự nói chung và thể loại nhật ký nói riêng sẽ giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về các phƣơng diện cơ bản của thi pháp thể loại, giúp ngƣời đọc tiếp cận đƣợc những giá trị văn chƣơng đích thực. Trong khóa luận này, chúng tôi tập trung tìm hiểu các yếu tố cơ bản đó là ngƣời trần thuật, ngôi trần thuật, vai trần thuật; điểm nhìn trần thuật; ngôn ngữ trần thuật; giọng điệu trần thuật; không gian, thời gian trần thuật… Nhƣng trƣớc hết phải nói đến ngƣời trần thuật – chủ thể của hành động kể. 1.1.2.1.Người trần thuật, ngôi trần thuật, vai trần thuật Văn học vốn là thực thể tinh thần, tái hiện cuộc sống bằng nghệ thuật ngôn từ.Nếu nhƣ trong tác phẩm trữ tình, hiện thực cuộc sống có thể đƣợc tái hiện một cách trực tiếp qua những cảm xúc tâm trạng, ý nghĩ của con ngƣời thì với các tác phẩm tự sự và thể loại nhật ký, hiện thực sẽ do một ngƣời nào đó tái hiện lại. Ngƣời kể lại đó đƣợc gọi với nhiều tên gọi khác nhau nhƣ: ngƣời trần thuật, ngƣời kể chuyện, ngƣời thuật chuyện, chủ thể kể chuyện …. Vấn đề ngƣời trần thuật xuất hiện ngay từ đầu thế kỷ XX và sau này ngày 8 càng đƣợc giới nghiên cứu quan tâm.Sự xuất hiện của ngƣời trần thuật trong tác phẩm tự sự là yếu tố tiên quyết, trở thành vấn đề then chốt.Các thuật ngữ nhƣ “ngƣời trần thuật”, “ngƣời kể chuyện” cho đến nay vẫn tồn tại những quan niệm trái chiều. Theo GS Trần Đình Sử, ông quan niệm ngƣời kể chuyện hay ngƣời trần thuật là một. Nhƣng theoTừ điển thuật ngữ văn học thì lại phân biệt hai khái niệm này. Các tác giả giải thích, ngƣời trần thuật là “một nhân vật hư cấu hoặc có thật mà văn bản tự sự là do hành vi ngôn ngữcủa anh ta tạo thành.Trong khi kể miệng, người trần thuật là một người sống sinh động. Trong trần thuật phi văn học (báo chí, lịch sử), người trần thuật nói chung đồng nhất với tác giả. Nhưng trong tác phẩm trần thuật mang tính văn học thì người trần thuật lại khác, nó bị trừu tượng hóa đi, trở thành một nhân vật hoặc ẩn hoặc hiện trong tác phẩm”.Còn ngƣời kể chuyện “là hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm. Đó có thể là hình tượng tác giả,không đồng nhất với tác giả ngoài đời; có thể là một nhân vật đặc biệt do tác giả sáng tạo ra…”[8,tr.221]. Dù hiểu theo cách nào thì cho đến nay 2 khái niệm này vẫn đƣợc dùng nhƣ đồng nghĩa.Trong khóa luận này, chúng tôi thống nhất sử dụng khái niệm “ngƣời trần thuật”. Theo G. N. Pospelov thì ngƣời trần thuật là “người môi giới giữa các hiện thực được miêu tả và người nghe (người đọc) là người chứng kiến cắt nghĩa các sự việc xảy ra” [7,tr.196]. Phùng Văn Tửu cho rằng: “Nói đến người kể chuyện là nói đến điểm nhìn được xác định trong hệ đa phương, không gian, thời gian, tâm lí, tạo thành góc nhìn…” [24,tr.206]. Nhƣ vậy, qua những khảo sát trên, khái niệm ngƣời trần thuật khá phong phú, đƣợc hiểu theo nhiều cách khác nhau. Song, có thể hiểu một cách đơn 9 giản, ngƣời trần thuật là ngƣời đƣợc nhà văn sáng tạo ra để thực hiện hành vi kể, hành vi trần thuật. Ngƣời trần thuật thể hiện rõ cái nhìn, phong cách, tƣ tƣởng của nhà văn về thế giới hiện thực.Tuy nhiên, cần phân biệt hai khái niệm này, không thể đồng nhất ngƣời trần thuật với tác giả ngoài đời.Ngƣời trần thuật trong tác phẩm là yếu tố thể hiện rõ nhất, trực tiếp nhất quan điểm, tƣ tƣởng, phong cách của nhà văn.Việc đánh đồng ngƣời trần thuật với tác giả là một sai lầm.Ngƣời trần thuật chỉ là một trong những hình thức thể hiện quan điểm của tác giả. Tác giả sáng tạo ra những ngƣời trần thuật để phát ngôn cho mình. Tác giả thƣờng đƣợc nhận diện qua chính văn bản nghệ thuật của mình.Tác giả và ngƣời trần thuật cùng hiện diện trong tác phẩm nghệthuật nhƣng sự xuất hiện của tác giả thƣờng là ẩn kín. Theo Trần Đình Sử: “Tác giả không bao giờ hiện diện trong tiểu thuyết như là một người kể, một người phát ngôn mà chỉ xuất hiện như là một tác giả hàm ẩn, một cái tôi thứ hai của nhà văn với tư cách là người mang hệ thống quan niệm và giá trị trong tác phẩm hoặc là người nghe trộm kể. Người trần thuật là kẻ được sáng tạo ra để mang lời kể. Và hành vi trần thuật là hành vi của người kể đó mà sản phẩm là văn bản tự sự. Người trần thuật trong văn bản văn học là một hình tượng phức tạp nhất mà ngôi kể chỉ là hình thức biểu hiện ước lệ” [20, tr.156].Tìm hiểu ngƣời trần thuật cũng là cách chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật của tác phẩm, làm cho thế giới đó sống dậy cụ thể và gợi cảm với những sự vật, hiện tƣợng đời sống, những tính cách, số phận.Mọi ý đồ sáng tạo đều do bản thân tác giả nghĩ ra nhƣng tác giả không trực tiếp đứng ra trần thuật mà sáng tạo nên hình tƣợng ngƣời trần thuật và thông qua đó để biểu đạt những sáng tạo cá nhân. Bàn về vấn đề này, W. Kayser nhấn mạnh: “Trong nghệ thuật kể, người kể chuyện không bao giờ là tác giả đã hay chưa từng biết đến, mà là một vai trò tác giả nghĩ và ước định” [21,tr.196]. 10 Nói về vai trò của ngƣời trần thuật, nhà nghiên cứu T.Z.Tdozov khẳng định: “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc tạo ra thế giới tưởng tượng…không thể có trần thuật mà thiếu người kể chuyện. Người kể chuyện không nói như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện.Như vậy, kết hợp đồng thời trong mình cả nhân vật và người kể, nhân vật mà nhân danh nó cuốn sách được kể có một vị thế hoàn toàn đặc biệt” [20,tr.116-117].Ngƣời trần thuật có vai trò đặc biệt trong việc tổ chức tác phẩm, sau đó kể, dẫn dắt ngƣời đọc tìm hiểu giá trị tác phẩm.Ngƣời trần thuật trong tác phẩm tự sự không chỉ tham gia vào câu chuyện với vị trí của nhân vật trong tác phẩm mà còn tổ chức, đánh giá các nhân vật khác, làm nên giá trị cho tác phẩm. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Người trần thuật nói chung thực hiện năm chức năng: 1) chức năng kể chuyện, trần thuật; 2) chức năng truyền đạt, đóng vai một yếu tố của tổ chức tự sự; 3) chức năng chỉ dẫn, thuộc phương pháp trần thuật; 4) chức năng bình luận; 5) chức năng nhân vật hóa. Cách thức thực hiện chức năng trên ở người trần thuật miệng, trần thuật phi văn học và trần thuật văn học hoàn toàn khác nhau” [8,tr.223]. Với chức năng cũng nhƣ tầm quan trọng của ngƣời trần thuật, mỗi nhà văn khi sáng tác đều chú ý đến xây dựng hình tƣợng ngƣời trần thuật. Điều đó góp phần khẳng định tài năng cá nhân nghệ sĩ và sức sống tác phẩm. Cũng bàn về vấn đề này, G.Genette đã phân biệt ngƣời kể chuyện ra làm ba kiểu cơ bản: ngƣời kể chuyện toàn tri, ngƣời kể chuyện bên trong, ngƣời kể chuyện bên ngoài. Theo các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học “có thể chia thành người trần thuật lộ diện và người trần thuật ẩn tàng”, người trần thuật lộ diện - ngôi thứ nhất, người trần thuật ẩn tàng - ngôi thứ ba. “Ngoài ra, người trần thuật có thể phân chia thành người trần thuật “tham gia vào truyện” và người trần thuật “bàng quan”,đứng ngoài” [8,tr.222-223]. Tuy nhiên, khi xét vị trí của ngƣời trần thuật trong tác phẩm ta 11 nhận thấy vị trí ấy có thể thay đồi linh hoạt phù hợp với phong cách sáng tác và dụng ý của tác giả. Nhìn chung, có thể phân chia thành: ngƣời trần thuật ở ngôi thứ nhất, ngƣời trần thuật ngôi thứ hai và ngƣời trần thuật ngôi thứ ba. Khi ngƣời kể chuyện kể về mình (ngôi thứ nhất) cũng có khi kể về một ngƣời khác (ngôi thứ hai) hay kể về ngƣời nghe (ngôi thứ ba). Ngƣời trần thuật gắn với ngôi trần thuật và vai trần thuật. Chúng gắn bó và tồn tai không tách rời nhau. Ngƣời trần thuật ở ngôi thứ nhất.Đây là hình thức trần thuật quen thuộc và khá phổ biến. Với hình thức này,ngƣời trần thuật xƣng “tôi” hay “mình” hoặc “chúng tôi” (rất ít khi xuất hiện). Ngƣời trần thuật lộ diện trong tác phẩm, trở thành một nhân vật trong truyện, trực tiếp chứng kiến, tham gia vào những sự kiện, sự việc xảy ra và tƣờng thuật lại.Trong trƣờng hợp này, ngƣời trần thuật không còn là một ngƣời nào đó xa lạ, đứng ở tận đâu đâu trên cao, ngoài xa phóng tầm mắt quan sát mọi chuyện mà là một nhân vật xƣng “tôi”, đảm nhiệm hai vai trò: “Tôi” vừa là một nhân vật trực tiếp hòa mình vào câu chuyện, tham gia vào các sự kiện, biến cố của cốt truyện, vừa giữ vai trò dẫn dắt, kể lại câu chuyện. Ngƣời trần thuật có điều kiện bộc lộ tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ của mình.Câu chuyện đƣợc kể sẽ mang tính chủ quan hơn.Với hình thức kể chuyện này, câu chuyện sẽ đáng tin cậy hơn, khi ngƣời trần thuật trực tiếp là ngƣời tham gia vào câu chuyện, nhất là khi ngƣời trần thuật là nhân vật chính trong tác phẩm.Ngƣời trần thuật hiện lên rõ hơn khi trực tiếp bày tỏ quan điểm, nhận xét của mình. Tuy nhiên, khi câu chuyện đƣợc nhìn nhận qua lăng kính chủ quan của ngƣời trần thuật dẫn đến một hạn chế về vấn đề dung lƣợng phản ánh. Ngƣời trần thuật ở ngôi thứ ba.Đây là hình thức trần thuật truyền thống.Ngƣời trần thuật đóng vai trò là ngƣời kể ra sự việc xoay quanh một nhân vật khác. Ngƣời trần thuật giấu mặt, bao quát hết mọi diễn biến xảy ra 12 và kể lại toàn bộ câu chuyện.Ngƣời trần thuật xuất hiện ở ngôi thứ ba luôn có một vị trí tốt nhất để theo dõi, dẫn dắt nhân vật. Nhân vật ít có những cơ hội để phát biểu, suy ngẫm hoặc hồi tƣởng.Chủ thể trần thuật chi phối toàn bộ tác phẩm từ lời dẫn chuyện, cách kể, cách tả đến cả lời trữ tình ngoại đề.Ở kiểu trần thuật này, ngƣời trần thuật không trực tiếp tham gia câu chuyện nhƣng lại có vai trò toàn năng.Ngƣời trần thuật không xuất hiện trong câu chuyện nhƣng lại có mặt ở mọi nơi.Ngƣời trần thuật ở ngôi thứ ba này giữ vai trò nhƣ một nhân vật ẩn tàng, biết tất cả mọi vấn đề liên quan đến câu chuyện nhƣ tình tiết, xung đột, những mối quan hệ và kể cả nội tâm nhân vật nhƣng tuyệt nhiên không đƣợc phép tham gia vào đó.Hình thức kể chuyện này cho phép ngƣời trần thuật kể và bao quát đƣợc toàn bộ những gì họ biết, câu chuyện mang tính khách quan.Ngƣời đọc nhận ra tâm tƣ, cảm xúc, quan điểm mà tác giả gửi gắm thông qua điểm nhìn của ngƣời trần thuật ngôi thứ ba này.Chủ thể trần thuật ngôi thứ ba có thể vắng mặt trong thế giới nhân vật nhƣng vẫn bộc lộ đƣợc dấu ấn của mình khi trần thuật dựa vào điểm nhìn của nhân vật. Các tác giả cuốn Giáo trình lý luận văn học, tập 1 đã nêu lên chức năng thông báo của ngôi kể “ngôi kể thứ ba cho phép người kể có thể kể tất cả những gì họ biết, còn ngôi thứ nhất chỉ được kể những gì mà khả năng của một con người có thể biết được, như vậy mới tạo ra cảm giác chân thực”.Khi kể theo dạng này, tính khách quan của hiện thực đƣợc phản ánh rất cao. Tuy nhiên, ngƣời trần thuật ít để lại những nét riêng biệt trong tác phẩm. Hình tƣợng ngƣời trần thuật rất mờ nhạt đồng thời dễ dẫn đến sự đơn điệu trong cách kể. Do vậy, theo thời gian, trong tiến trình phát triển của loại hình tự sự, kiểu trần thuật này đƣợc các nhà văn vận dụng tài tình, khéo léo với nhiều mức độ khác nhau tạo nên sự phong phú, đa dạng cho lối trần thuật khách quan hóa. 13 Sự phân biệt hai hình thức này chỉ mang tính quy ƣớc bởi mọi trần thuật đều xuất phát từ cái tôi hiểu biết các sự việc.Có điều ngôi thứ nhất là hình thức lộ diện, ngôi thứ ba là hình thức ẩn tàng. Ngƣời trần thuật ở ngôi thứ hai.Đó là hình thức trung gian giữa ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba.Ngƣời trần thuật xƣng “anh”.Nó tạo ra một cái tôi đƣợc kể.Ngƣời đọc khi tìm hiểu tác phẩm sẽ tìm đƣợc mối liên hệ giữa nhân vật với chủ thể kể chuyện. Song, dù ở bất cứ hình thức nào, ngƣời trần thuật cũng chính hình tƣợng do tác giả sáng tạo ra. Trong quá trình tiếp nhận tác phẩm, độc giả giao tiếp với ngƣời trần thuật thông qua những điều ngƣời trần thuật trình bày. Ngƣời trần thuật có mặt ở mọi lúc, mọi nơi trong câu chuyện, có thể xuất hiện ở nhiều góc độ khác nhau trong tác phẩm để kể lại diễn biến câu chuyện, phản ánh hành động, việc làm, tâm trạng của nhân vật. Ngƣời trần thuật xuất hiện với nhiều dạng khác nhau. Dù xuất hiện dƣới dạng nào thì cũng luôn in đậm dấu ấn cá nhân của tác giả, thể hiện tài năng nghệ thuật, phong cách của tác giả và cũng là cầu nối để ngƣời đọc tiếp nhận tác phẩm một cách trọn vẹn, nắm bắt tác phẩm một cách sâu sắc, quan sát nhân vật ở mọi góc độ… Ngƣời trần thuật xuất hiện trong tác phẩm có nhiều dạng, với mỗi dạng xuất hiện khác nhau, ngƣời trần thuật dẫn dắt ngƣời đọc theo từng cách khác nhau. Ngƣời trần thuật nhƣ là chiếc cầu nối tạo mối quan hệ trung gian giữa tác giả - tác phẩm - độc giả.Ngƣời trần thuật có thể dừng mạch kể để phân tích, bình luận những thay đổi của hoàn cảnh, bộc lộ quan điểm, suy nghĩ. Khái niệm “vai trần thuật” chính là sự hóa thân của ngƣời trần thuật và ngôi trần thuật.Ngƣời trần thuật là một vai mang nội dung.Vai trần thuật có thể là vai chính, vai phụ, vai nam hay vai nữ.Tất cả đều đó phụ thuộc vào sự lựa chọn của mỗi nhà văn, mang phong cách của từng tác giả cụ thể. Vai trần 14 thuật và ngôi trần thuật có ý nghĩa quan trọng góp phần tạo nên giọng điệu thể hiện trong mỗi sáng tác. 1.1.2.2 Điểm nhìn trần thuật Điểm nhìn là một vấn đề cơ bản, then chốt của trần thuật đã đƣợc nghiên cứu từ lâu với những nhà nghiên cứu nhƣ : Tz. Todorov, M. Bakhtin… Đặc biệt, sự cách tân của nghệ thuật đƣơng đại càng làm cho vấn đề này trở nên quan trọng và đƣợc nhiều ngƣời chú ý. Các nhà nghiên cứu đƣa ra nhiều thuật ngữ khác nhau về điểm nhìn nhƣ nhãn quan (vision), điểm quan sát (post of observation),điểm nhìn tâm lí, phƣơng thức trần thuật, quan điểm trần thuật… Ở đây chúng tôi thống nhất và xem xét khái niệm điểm nhìn trần thuật. Theo Từ điển thuật ngữ văn họcthì điểm nhìn là “Vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật trong tác phẩm. Không thể có nghệ thuật nếu không có điểm nhìn, bởi nó thể hiện sự chú ý, quan tâm và đặc điểm của chủ thể trong việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật.Giá trị của sáng tạo nghệ thuật một phần không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới đối với cuộc sống” [8, tr.113]. Điểm nhìn nghệ thuật sẽ cung cấp một phƣơng diện để ngƣời đọc hình dung cấu tạo nghệ thuật và nhận ra đặc điểm phong cách ở đó. Pospelov nói về điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự: “trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là tương quan giữa nhân vật với chủ thể trần thuật, hay nói một cách khác, điểm nhìn của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả” [7, tr.65]. Nhƣ vậy,có nhiều quan điểm khác nhau về điểm nhìn trần thuật. Có thể hiểu điểm nhìn là vị trí, chỗ đứng của ngƣời kể chuyện để xem xét, bình luận, miêu tả các sự vật, sự việc, hiện tƣợng trong tác phẩm ; là phƣơng thức phát ngôn, trình bày, phù hợp với cách nhìn, cảm thụ thế giới của tác giả.Điểm nhìn trần thuật có thể từ bên ngoài, có thể từ bên trong, có thể từ một phía hay 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan