Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Người tiến hành tố tụng trong viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự ...

Tài liệu Người tiến hành tố tụng trong viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự luận văn ths. luật

.PDF
102
116
50

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt nguyÔn träng nghÜa ng-êi tiÕn hµnh tè tông trong viÖn kiÓm s¸t nh©n d©n §èi víi c¸c vô ¸n h×nh sù luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2010 ®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt nguyÔn träng nghÜa ng-êi tiÕn hµnh tè tông trong viÖn kiÓm s¸t nh©n d©n §èi víi c¸c vô ¸n h×nh sù Chuyªn ngµnh : LuËt h×nh sù M· sè : 60 38 40 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS.TS TrÇn V¨n §é Hµ néi - 2010 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH 8 TỐ TỤNG TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò và nguyên tắc hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự 8 1.1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân 8 1.1.2. Vị trí, vai trò của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự 9 1.1.3. Các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân 11 1.2. Khái quát các quy định của pháp luật về người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân từ năm 1945 đến nay 17 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 17 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 2002 21 1.2.3. Giai đoạn từ năm 2002 đến năm nay 28 1.4. Mối quan hệ của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự 32 1.4.1. Mối quan hệ trong nội bộ ngành Kiểm sát 32 1.4.1.1. Mối quan hệ trong cùng một Viện kiểm sát nhân dân 32 1.4.1.2. Mối quan hệ giữa các Viện kiểm sát với nhau 35 1.4.1.3. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát 38 quân sự Mối quan hệ liên ngành 38 1.4.2.1. Mối quan hệ với cơ quan điều tra 38 1.4.2.2. Mối quan hệ với cơ quan Tòa án 40 1.4.2. Chương 2: THỰC TRẠNG NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG 42 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 2.1. Thực trạng các quy định của pháp luật về người tiến hành 42 tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự 2.1.1. Chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân 42 2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của Kiểm sát viên 46 2.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó 57 Viện trưởng Viện kiểm sát 2.2. Thực trạng về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát 59 nhân dân đối với các vụ án hình sự 2.2.1. Số lượng người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân 59 dân đối với các vụ án hình sự 2.2.2. Chất lượng người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong 60 Viện kiểm sát nhân dân 2.2.3. Việc tuyển chọn bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức Kiểm sát viên, Viện trưởng và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân 63 2.3. Những kết quả đạt được của người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân 65 2.3.1. Kết quả công tác thực hành quyền công tố và Kiểm sát hoạt động tư pháp 65 2.3.1.1. Kết quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 65 2.3.1.2. Kết quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử 68 2.3.2. Các vụ án Viện kiểm sát, Toà án trả hồ sơ điều tra bổ sung 72 2.3.3. Các vụ án Viện kiểm sát phải đình chỉ 73 2.4. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên 74 MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU 80 Chương 3: QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 3.1. Đổi mới về cơ cấu tổ chức Viện kiểm sát, Kiểm sát viên 80 3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự 82 3.3. Nâng cao trình độ, năng lực của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên 84 3.4. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền và sự phối hợp của các ngành liên quan trong hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân 86 3.5. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và chế độ chính sách đối với Kiểm sát viên 88 KẾT LUẬN 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93 Danh môc c¸c b¶ng Sè hiÖu Tªn b¶ng Trang Thống kê kết quả công tác bồi dưỡng cán bộ kiểm sát từ 61 b¶ng 2.1 năm 2005 đến tháng 4/2008 2.2 Kết quả hoạt động điều tra, truy tố trong 5 năm (2005-2009) 67 2.3 Kết quả kiểm sát xét xử 5 năm (2005-2009) 69 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy công cuộc cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan Viện kiểm sát nhân dân là một đòi hỏi có tính cấp bách và chiến lược, nên đã xác định: "Viện kiểm sát nhân dân tập trung thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp". Điều này đã được tái khẳng định và làm rõ tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X: "Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ... thực hiện cơ chế công tố gắn liền với hoạt động điều tra" [8]. Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc giải quyết các vụ án hình sự là hai chức năng quan trọng nhất của Viện kiểm sát nhân dân, bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan người vô tội, đồng thời không để sót lọt tội phạm, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân… Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động này, ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó nhấn mạnh: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp... Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam 1 giữ, bảo đảm đúng pháp luật; Những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình [5]. Để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trên, trong thời gian qua ngành kiểm sát đã không ngừng nâng cao chất lượng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, đặc biệt là việc giải quyết các vụ án hình sự. Kết quả cho thấy, ngành Kiểm sát nhân dân đã thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các các hoạt động tư pháp, góp phần không nhỏ vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế nhất định, như: việc Tòa án, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, điều tra lại nhiều lần; việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự còn nhiều oan sai, đình chỉ vụ án vì bị can, bị cáo không có tội…nhiều trường hợp viện kiểm sát đã phải bồi thường cho người bị oan, sai theo Nghị quyết số 388 ngày 17/3/2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại nêu trên, trong đó có nguyên nhân từ nhận thức, trình độ, năng lực của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân; từ các quy định của pháp luật có liên quan đến địa vị pháp lý, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân… Nhưng cho dù là nguyên nhân nào, thì những hạn chế đó cũng mang lại hậu quả rất lớn, không những gây ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, tài sản của người bị oan sai mà còn làm mất uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, đồng thời làm giảm lòng tin của nhân dân đối với công lý và pháp luật. 2 Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận và thực tiễn về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối các vụ án hình sự, từ đó đưa ra kiến giải lập pháp là mô hình lý luận và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của những người này trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc chúng tôi quyết định chọn đề tài "Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự " làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Từ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 và cả sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ra đời, đã có một số công trình nghiên cứu về người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra như: Đề tài nghiên cứu "Cơ quan điều tra, Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên" của tác giả Đỗ Ngọc Quang, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2000; Luận án tiến sĩ Luật học của Đào Hữu Dân: "Mối quan hệ giữa Cơ quan cảnh sát điều tra với Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự", 2006; nhưng chưa có một công trình nghiên cứu riêng biệt và toàn diện về người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân. Năm 2009, tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tác giả Trần Mạnh Đông đã công bố luận văn thạc sĩvới đề tài: "Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong quá trình tố tụng hình sự - Một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam", nhưng luận văn này chỉ nghiên cứu về tăng thẩm quyền của Kiểm sát viên theo Bộ luật Tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự theo nội dung cải cách tư pháp. Ngoài ra, còn một số đề tài nghiên cứu có liên quan, như đề tài nghiên cứu khoa học tại Trường đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát về: "Nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự" năm 2003; Luận văn thạc sĩ Luật học 3 năm 2008 của Nguyễn Trọng Hải về đề tài "Người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra - những vấn đề lý luận và thực tiễn". Như vậy, có thể nói cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu về người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự, nhưng mỗi công trình đó mới chỉ dừng lại ở một số lĩnh vực hoặc trên phạm vi nghiên cứu chung về người tiến hành tố tụng ở tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra, mà chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự. Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là khi thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề này cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, đáp ứng yêu cầu cấp bách về cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu: "người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự" nhằm làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản liên quan đến người tiến hành tố tụng tại Viện kiểm sát nhân dân và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn, từ đó xác định những điểm hạn chế, vướng mắc về lý luận cũng như thực tiễn, để đề xuất kiến giải lập pháp bằng việc đưa ra mô hình lý luận của các quy phạm về người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân, cũng như đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân khi giải quyết các vụ án hình sự. 4 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: Về mặt lý luận: + Luận giải về vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự, được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân và các văn bản pháp luật tố tụng hình sự khác. Mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân. + Nghiên cứu thực trạng về đội ngũ và hoạt động của Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. + Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta, đặc biệt là việc cơ cấu, tổ chức lại cơ quan Viện kiểm sát nhân dân theo tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị mà trước hết là nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên trong giải quyết các vụ án hình sự. Về mặt thực tiễn: + Nghiên cứu, đánh giá lại thực tiễn hoạt động của Viện trưởng, Phó viện trưởng và Kiểm sát viên trong việc giải quyết các vụ án hình sự ở nước ta trong thời gian qua, xác định địa vị pháp lý đúng đắn cho người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân những năm tiếp theo. + Nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân tác động tiêu cực đến hoạt động đúng đắn của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân, từ đó có những kiến giải hữu hiệu xây dựng đội ngũ này thực sự lớn mạnh và hoạt 5 động chỉ tuân theo pháp luật, củng cố niềm tin của nhân dân vào pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật. 4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự và tố tụng hình sự. Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận cụ thể để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê; nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ngoài ra, tác giả cũng tiếp thu có chọn lọc kết quả của của các công trình đã công bố; các đánh giá, tổng kết của cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Kết quả luận văn góp phần xây dựng một cái nhìn toàn diện về địa vị pháp lý và hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự, đồng thời thấy được trách nhiệm cũng như vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay. Về thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập trong các cơ sở đào tạo, trong hoạt động nghiệp vụ của Kiểm sát viên và lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân. Những đề xuất, kiến nghị của luận 6 văn sẽ cung cấp các luận cứ khoa học, làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tổ chức, hoạt động của người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong cơ quan Viện kiểm sát nhân dân. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của uận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề về lý luận về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự. Chương 2: Thực trạng người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự. Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm ngƣời tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân Quá trình tố tụng hình sự được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau căn cứ vào các đặc điểm của những hoạt động tố tụng hình sự. Tương ứng với các giai đoạn đó, pháp luật quy định các cơ quan nhất định thực hiện những hoạt động tố tụng, các cơ quan này được gọi là cơ quan tiến hành tố tụng. Trong mỗi cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật quy định những người có thẩm quyền tiến hành các hành vi tố tụng trong một giai đoạn tố tụng. Những người đó được gọi là người tiến hành tố tụng. Người tiến hành tố tụng là một trong các chủ thể của tố tụng hình sự, có vai trò quan trọng mang tính quyết định trong quá trình chứng minh, giải quyết vụ án hình sự. Những người tiến hành tố tụng có chức năng riêng, nhưng hoạt động trong mối liên hệ mật thiết, thống nhất với nhau và đều có trách nhiệm là nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Theo quy định tại Điều 33 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát đối với các vụ án hình sự là một trong ba nhóm chủ thể của tố tụng hình sự, bao gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên. 8 Chức năng cơ bản của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự. Chức năng này được thực hiện bởi những người tiến hành tố tụng trong viện kiểm sát. Hệ thống tổ chức Viện kiểm sát ở nước ta gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Các Viện kiểm sát nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các Viện kiểm sát quân sự (sau đây được gọi chung là Viện kiểm sát nhân dân). Một người để được bổ nhiệm trở thành người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân, cần phải đáp ứng những yêu cầu về trình độ, thâm niên, năng lực công tác và sức khỏe theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể nêu khái niệm về người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân như sau: Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự, bao gồm Kiểm sát viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, những người được bổ nhiệm và có những nhiệm vụ, quyền hạn xác định theo quy định của pháp luật để thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm phát hiện, xử lý kịp thời tội phạm và người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. 1.1.2. Vị trí, vai trò của ngƣời tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự Về mặt lý luận, vị trí, vai trò của một chủ thể quan hệ pháp luật như cơ quan, tổ chức, cá nhân… được hiểu là tổng hợp các quy định của pháp luật làm cơ sở cho sự tồn tại, tổ chức, hoạt động cũng như thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chủ thể đó; làm căn cứ để phân biệt, tạo nên sự độc lập của chủ thể đó so với các chủ thể khác. Vị trí, vai trò của người tiến hành tố tụng trong việc kiểm sát, về nguyên tắc, phải thống nhất, không thể tách rời vị trí, vai trò của hệ thống cơ 9 quan Viện kiểm sát nhân dân nói chung. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, quá trình hoạt động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân không thể triển khai tác nghiệp tập thể mà phải thông qua những cá nhân đại diện thường xuyên. Những cá nhân này chính là Viện trưởng, Phó Viện trưởng và những Kiểm sát viên được phân công thực hiện nhiệm vụ trong từng giai đoạn, từng công việc cụ thể thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát [10, tr. 9]. Viện kiểm sát nhân dân có vị trí, vai trò rất quan trọng trong tố tụng hình sự. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và đã được cụ thể hóa bằng Bộ luật Tố tụng hình sự thì Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Các quy định của pháp luật nêu trên cho phép Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tố tụng hình sự có trách nhiệm áp dụng các biện pháp pháp lý nhằm đảm bảo việc điều tra truy tố, xét xử nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật, góp phần đẩy mạnh công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong thực hiện chức năng của mình, Viện kiểm sát nhân dân mà đại diện trực tiếp là các Kiểm sát viên giữ vị trí vai trò đầu mối và là chủ thể xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án từ khi kiểm sát hoạt động xử lý tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra đến khi xét xử, thi hành án. 10 Việc xác định vị trí, vai trò của Kiểm sát viên và của Viện kiểm sát trong việc giải quyết vụ án hình sự xuất phát từ vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước, chức năng đặc thù của ngành này, vừa thực hành quyền công tố vừa kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong các hoạt động tư pháp hình sự. Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống cơ quan nhà nước có bộ máy tổ chức từ trung ương đến địa phương theo ngành dọc, do Quốc hội cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thành lập và giao quyền. Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lý rộng lớn trong việc giải quyết các vụ án hình sự. Xuất phát từ vị trí, vai trò này, tại Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới nhấn mạnh: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát viện tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời sai phạm của những người tiến hành tố tụng trong thi hành nhiệm vụ… Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. 1.1.3. Các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng của ngƣời tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân Các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự trong hệ thống các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự chiếm một vị trí quan trọng, thể hiện bản chất của tố tụng hình sự, là cơ sở cho mọi hoạt động tố tụng hình sự. Nguyên tắc của pháp luật tố tụng hình sự là tư tưởng chủ đạo và là định hướng cơ bản được thể hiện trong pháp luật tố tụng hình sự cũng như trong việc giải thích và trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự thông qua một hay nhiều quy phạm (chế định) của nó [2, tr. 13]. Do đó, người tiến hành tố tụng trong 11 Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vụ án hình sự cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc đó, trong đó cần chú trọng các nguyên tắc sau: Nguyên tắc thứ nhất, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 3 Bộ luật Tố tụng hình sự). Đây là nguyên tắc pháp lý cơ bản nhất trong hoạt động của cơ quan nhà nước và công dân được ghi nhận tại Điều 12 Hiến pháp năm 1992. Nguyên tắc này là nguyên tắc bao trùm, được thể hiện trong tất cả các giai đoạn giải quyết một vụ án hình sự từ khi kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố cho đến giai đoạn cuối cùng là kiểm sát xét xử và thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án nhân dân. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho cuộc đấu tranh chống tội phạm được kiên quyết, triệt để, kịp thời, bảo đảm giáo dục người thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời ngăn chặn việc làm oan sai cho người vô tội và ngăn ngừa việc hạn chế các quyền tự do dân chủ của công dân một cách trái pháp luật. Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đối với các vụ án hình sự, Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự, bảo đảm tất cả hành vi tội phạm phải được truy cứu trách nhiệm hình sự; việc truy tố phải bảo đảm tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án của Cơ quan điều tra, tòa án và cơ quan thi hành án, người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân không chỉ tự mình phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, mà còn đảm bảo để những người tiến hành tố tụng khác cũng phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tuân thủ nghiêm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. 12 Nguyên tắc thứ hai, tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự). Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, khi tiến hành tố tụng, Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa. Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên chỉ được áp biện pháp ngăn chặn hoặc phê chuẩn việc áp dụng biện pháp ngăn chặn khi có căn cứ pháp luật. Khi kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam, nếu thấy lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra không có căn cứ pháp luật thì Viện kiểm sát kiên quyết không phê chuẩn hoặc ra quyết định hủy bỏ, đồng thời phải trả tự do ngay cho người bị bắt, tạm giữ, tạm giam. Trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, ngoài chắc năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân mà đại diện là Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên phải thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra, tòa án để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, những người tham gia tố tụng và của cá nhân khác không bị xâm phạm. Kiểm sát việc giải thích quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện; bảo đảm mọi quyền lợi hợp pháp của họ được tôn trọng theo quy định của pháp luật. Để áp dụng nguyên tắc này, người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân trước hết phải tôn trọng và bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân; bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân; bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện tín của công dân. Việc hạn chế các quyền và tự do nói trên chỉ được tiến hành trên cơ sở và trong sự phù hợp với các quy định của pháp luật. 13 Nguyên tắc này được coi trọng trong tố tụng hình sự, bởi lẽ nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, coi con người luôn là yếu tố trung tâm, là chủ thể quan trọng nhất, việc tôn trọng và đảm bảo các quyền cơ bản của công dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người tiến hành tố tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng được nhà nước giao. Nguyên tắc thứ ba, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 52 Hiến pháp năm 1992 và Điều 5 Bộ luật Tố tụng hình sự). Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật xác định vị trí của mọi người như nhau trong lĩnh vực hoạt động xã hội cũng như trong hoạt động tố tụng hình sự, không phân biệt đối xử. Pháp luật tố tụng hình sự quy định mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình phải bảo đảm rằng: Bất cứ người nào thực hiện hành vi phạm tội đều bị xử lý theo quy định của pháp luật; không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Pháp luật không quy định cho từng công dân cụ thể mà quy định chung và được áp dụng cho tất cả mọi người. Tài sản và địa vị xã hội không mang lại đặc quyền trước tòa án và trước pháp luật. Do vậy, người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân phải "công minh, chính trực, khách quan, thận trọng" để việc giải quyết vụ án và hậu quả pháp lý của những người thực hiện hành vi trái pháp luật giống nhau phải chịu mức hình phạt như nhau. Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng hình sự còn được thể hiện cụ thể hơn như: bất kỳ người nào khi tham gia tố tụng với tư cách là bị can, bị cáo thì họ đều có quyền và nghĩa vụ được đi định tại Điều 49, 50 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nếu họ tham gia tố tụng hình sự với tư cách là người bị hại thì họ đều có quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan