Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Người thực hành trong đồng phạm theo luật hình sự việt nam luận văn ths. luật...

Tài liệu Người thực hành trong đồng phạm theo luật hình sự việt nam luận văn ths. luật

.PDF
105
377
119

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Thu Hòa MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa 3 Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng 1 MỞ ĐẦU Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI THỰC HÀNH 6 TRONG ĐỒNG PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm đồng phạm và các hình thức đồng phạm 6 1.1.1. Khái niệm đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam 6 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của đồng phạm 12 1.1.3. Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự của đồng phạm 19 1.1.4. Các hình thức đồng phạm 22 1.2. 26 Khái niệm người thực hành trong đồng phạm và ý nghĩa của việc xác định đúng vai trò của người thực hành trong đồng phạm 1.2.1. Quá trình phát triển các quy định về người thực hành trong 26 đồng phạm và khái niệm người thực hành trong đồng phạm theo Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 1.2.2. Ý nghĩa của việc xác định đúng vai trò người thực hành trong 35 đồng phạm 1.3. Phân biệt người thực hành với những người đồng phạm khác 35 1.3.1. Các loại người đồng phạm 35 1.3.2. Phân biệt người thực hành với những người đồng phạm khác 39 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 42 1999 VỀ NGƯỜI THỰC HÀNH TRONG ĐỒNG PHẠM VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ 2.1. Người thực hành theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 4 42 2.2. Thực tiễn xét xử và những tồn tại vướng mắc đối với việc xác định trách nhiệm hình sự của người thực hành trong đồng phạm 46 2.2.1. Vài nét về hoạt động xét xử các vụ án có đồng phạm trong thời gian từ năm 2005 đến 2010 của ngành Toà án 46 2.2.2. Những tồn tại, vướng mắc trong việc áp dụng các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự và vai trò của người thực hành trong đồng phạm 50 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO 79 HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ NGƯỜI THỰC HÀNH TRONG ĐỒNG PHẠM 3.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 về người thực hành trong đồng phạm 79 3.1.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 về người thực hành trong đồng phạm 79 Cơ sở của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự 3.1.2. Việt Nam năm 1999 về người thực hành trong đồng phạm 81 3.1.3. Nội dung các vấn đề cần sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật Hình sự năm 1999 về đồng phạm và người thực hành 87 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về người thực hành trong công tác xét xử 89 3.2.1. Về lập pháp 89 3.2.2. Về áp dụng pháp luật 91 3.2.3. Về công tác cán bộ 92 KẾT LUẬN 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng 5 Trang bảng 2.1 Tổng hợp số liệu xét xử của ngành Tòa án nhân dân trên 47 toàn quốc từ năm 2005 đến năm 2010 2.2 Tổng hợp kết quả đặc điểm nhân của bị cáo do ngành Tòa án 48 nhân dân xét xử trên toàn quốc từ năm 2005 đến năm 2010 2.3 Tổng hợp kết quả xét xử phúc thẩm vụ án có người thực hành có kháng cáo, kháng nghị: Lấy ngẫu nhiên 180 bản án do các cấp ngành Toà án xét xử từ năm 2005 - 2010 (mỗi năm 30 bản án) chủ yếu tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 6 49 Trong nhiều năm gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội của đất nước, tình hình tội phạm trên toàn quốc diễn biến ngày càng phức tạp, gia tăng về số lượng. Những vụ án do nhiều người (chủ yếu là người thực hành) cùng thực hiện, mang tính chất quốc tế, xuyên quốc gia ngày càng nhiều với quy mô và tính chất phức tạp ngày càng cao. So với tội phạm do một người thực hiện, tội phạm có đồng phạm thực hiện thường mang tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn các vụ án một người thực hiện. Việc xác định chính xác các giai đoạn phạm tội; từng loại người (bao gồm cả người thực hành) trong đồng phạm có ý nghĩa quạn trọng đối với việc phân hoá vai trò, xác định trách nhiệm hình sự, các thể hoá hình phạt đối với mỗi bị can, bị cáo. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thì số vụ án hình sự có từ 02 bị cáo trở lên tham gia, đều thể hiện năm sau tăng hơn năm trước. Song quy định của pháp luật về vấn đề đồng phạm còn chưa đầy đủ, rõ ràng, đôi khi khó áp dụng nên các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, bất đồng quan điểm trong việc điều tra, truy tố xét xử đối với các vụ án có đồng phạm, đặc biệt là những vụ án có nhiều người thực hành tham gia. Hiện tượng bản án bị huỷ, bị sửa do không thống nhất trong việc xác định đồng phạm, người thực hành trong đồng phạm vẫn xảy ra, điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm; uy tín của ngành Toà án nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề về dấu hiệu, đặc điểm trách nhiệm pháp lý của người thực hành trong đồng phạm theo quy định của luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay và một số hạn chế trong thực tiễn áp dụng Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 trong công tác xét xử các vụ án có người thực hành trong đồng phạm thời gian vừa qua để đưa ra một số luận cứ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật hình sự nói chung, Bộ luật Hình sự năm 1999 nói riêng và đưa ra một số giải pháp về mặt thực tiễn nhằm góp phần phòng, chống các tội phạm có đồng phạm; bảo đảm an ninh trật tự, 7 an toàn xã hội, góp phần phục vụ thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có ý nghĩa chính trị - xã hội và lý luận - thực tiễn quan trọng. Đây là lý do chính để học viên quyết định lựa chọn đề tài: "Người thực hành trong đồng phạm theo luật hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về đồng phạm, người thực hành trong đồng phạm đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, luật gia hình sự và cán bộ thực tiễn. Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố thể hiện ở một số luận văn, luận án, sách chuyên khảo, tham khảo, bình luận và giáo trình đại học như: - GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên, Mô hình lý luận về Bộ luật Hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993; - GS.TSKH Lê Cảm, Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Sách chuyên khảo sau đại học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005; - ThS.Trịnh Quốc Toản, "Đồng phạm", Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Tập thể tác giả do GS.TSKH Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001 (tái bản năm 2003 và 2007). - Trần Quang Tiệp, Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2000; - Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 (Phần chung), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2004; - Nguyễn Thị Trang Liên. Các hình thức đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; Bên cạnh đó vấn đề này cũng được đề cập ở nhiều công trình nghiên cứu, bài viết của nhiều tác giả như: 8 - Nguyễn Ngọc Hòa, Trần Quốc Dũng phạm tội gì? Bàn về các giai đoạn phạm tội và vấn đề cộng phạm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2/1980; Lê Cảm, Về chế định đồng phạm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2/1988; Đoàn Văn Hường. Đồng phạm và một số vấn đề về thực tiễn xét xử, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4/2003; Đặng Văn Doãn, Vấn đề đồng phạm, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1986; Trần Quang Tiệp. Chế định đồng phạm trong pháp luật hình sự ở một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11/1997; Lê Thị Sơn. Về các giai đoạn thực hiện hành vi đồng phạm, Tạp chí Luật học, số 3/1998; Dương Văn Tiến. Các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/1986… Tuy nhiên, các công trình nói trên đa số có phạm vi nghiên cứu rộng, hoặc nghiên cứu vấn đề đồng phạm dưới một số khía cạnh nhất định, hoặc chỉ xem xét dưới góc độ tội phạm học - phòng ngừa trong luật hình sự Việt Nam; có công trình nghiên cứu về đồng phạm nhưng đã được tiến hành cách đây khá lâu, chưa có những công trình phân tích sâu về mặt lý luận và thực tiễn xét xử đối với từng loại người trong đồng phạm, đặc biệt là đối với người thực hành - trung tâm của hoạt động phạm tội trong đồng phạm. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về người thực hành trong chế định đồng phạm, cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về chế định đồng phạm vẫn còn có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là phục vụ trực tiếp cho quá trình xét xử, giải quyết các vụ án hình sự của ngành Toà án. 3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ bản về người thực hành trong đồng phạm như: khái niệm; các dấu hiệu pháp lý; trách nhiệm hình sự đối với người thực hành; phân biệt người thực hành với các hình thức đồng phạm khác. Qua nghiên cứu một số vướng mắc, 9 khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật khi xử lý các vụ án hình sự có đồng phạm (đặc biệt là nhiều người thực hành tham gia), luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong xác định vai trò, trách nhiệm hình sự của người thực hành trong vụ án có đồng phạm. Trên cơ sở đó, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam về xử lý đối tượng này. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng với tên gọi của đề tài là "Người thực hành trong đồng phạm theo Luật hình sự Việt Nam". 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1 Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm. 4.2 Phương pháp nghiên cứu Quá trình nghiên cứu trong đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích thuần túy quy phạm pháp luật; nghiên cứu, điều tra án điển hình... để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu trong luận văn này. Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, học viên đã tiếp thu có chọn lọc kết quả của các công trình đã công bố; các đánh giá, tổng kết của các cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến các vấn đề nghiên cứu trong luận văn. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Ở bình diện lý luận, kết quả nghiên cứu của luận văn đưa ra một số luận cứ góp phần hoàn thiện lý luận về chế định đồng phạm, người thực hành trong đồng phạm trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Cụ thể, làm rõ các vấn đề chung về người thực hành trong vụ án có đồng phạm theo quy định 10 của luật hình sự Việt Nam; phân tích khái quát sự hình thành và phát triển của các quy định pháp luật hình sự nước ta về người thực hành trong đồng phạm từ năm 1945 đến nay; phân biệt hình thức đồng phạm này với một số hình thức đồng phạm khác mà hiện hay thường có sự nhầm lẫn trong thực tiễn; làm sáng tỏ chế định đồng phạm quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999; phân tích thông qua nghiên cứu thực tiễn xét xử trên toàn quốc (mà chủ yếu là tại địa bàn thành phố Hà Nội) từ năm 2005 đến năm 2010 để so sánh, qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành; chỉ ra các vấn đề chưa thống nhất trong quá trình áp dụng các quy định đó cũng như chỉ ra nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về người thực hành trong chế định đồng phạm ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn. Về thực tiễn, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến người thực hành trong đồng phạm, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm có sự tham gia của nhiều người hiện nay và sắp tới. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về người thực hành trong đồng phạm. Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về người thực hành trong đồng phạm và thực tiễn xét xử. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về người thực hành trong đồng phạm. 11 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI THỰC HÀNH TRONG ĐỒNG PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm đồng phạm và các hình thức đồng phạm 1.1.1. Khái niệm đồng phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam Trong lịch sử lập pháp hình sự của nước ta, kháí niệm đồng phạm đã hình thành và phát triển qua nhiều thời kỳ. Trong thời kỳ phong kiến, cũng đã có các quy định sơ khai về đồng phạm. Luật hình sự phong kiến được hình thành và phát triển trên cơ sở của nhiều chế định khác nhau, vấn đề đồng phạm đã bước đầu được đề cập tới trong "Quốc triều hình luật" (Bộ luật Hồng Đức) năm 1483 - Bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều đại Nhà Lê. Mặc dù chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm đồng phạm nhưng Bộ luật đã có những quy định về trách nhiệm hình sự cho những người tham gia phạm tội là: Những kẻ đồng mưu với nhau đi ăn cướp nhưng khi đi thì lại không đi, người đi lấy được của về chia nhau, mà kẻ đồng mưu ở nhà cũng lấy phần, thì xử tội như là có đi ăn cướp (ăn trộm cũng vậy) nếu không lấy được phần chia thì xử lưu đi châu gần. Trước kia vẫn từng đi ăn cướp mà khi ấy không đi, dù không lấy phần cũng xử tội như đi ăn cướp [29]. Việc ghi nhận trách nhiệm hình sự đối với "kẻ đồng mưu" hay "người xúi giục người khác phạm pháp" trong hai Điều luật trên cho thấy chế định đồng phạm đã được đề cập đến trong luật hình sự phong kiến Việt Nam. Phạm vi đồng phạm không những bao gồm người khởi xướng, kẻ chủ mưu, người a tòng, thủ phạm, tòng phạm, kẻ đồng mưu, kẻ xúi giục mà còn bao gồm cả những người thuộc phạm trù liên quan đến tội phạm: "Những kẻ 12 mưu phản nước theo giặc thì xử chém, nếu đã hành động thì xử tội bêu đầu, kẻ biết việc ấy thì cũng đồng tội" [29]. Bộ "Quốc triều hình luật" cũng thể hiện đường lối xử lý, nguyên tắc trừng trị tội phạm của Nhà nước phong kiến dưới triều Lê, Điều 35 quy định: "Nhiều người cùng phạm một tội, thì lấy người khởi xướng làm đầu, người a tòng được giảm một bậc. Nếu tất cả những người trong nhà cùng phạm một tội, chỉ bắt người tôn trưởng" [29]. Như vậy, Bộ Quốc triều Hình luật đã có những quy định cơ bản về đồng phạm và phân hóa trách nhiệm đối với những giai đoạn thực hiện tội phạm khác nhau của đồng phạm. Tuy nhiên, các quy định thời kỳ này còn chung chung, chưa đưa ra được các khái niệm cụ thể về đồng phạm, các loại người cụ thể trong đồng phạm. Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) được khắc in lần đầu năm 1812. Mặc dù chịu ảnh hưởng Luật Thanh triều khá nặng nề nhưng nhiều điều luật trong đó có các điều luật quy định về đồng phạm vẫn tiếp thu những quy định của Bộ luật Hồng Đức mà không có bước tiến đáng kể nào về kỹ thuật lập pháp. Hoàng Việt hình luật được ban hành ngày 03/7/1933 (chỉ có hiệu lực ở miền Trung) đã có hẳn chương IX quy định về chế định đồng phạm. Tuy nhiên, Bộ luật này cũng không có khái niệm về đồng phạm mà vân chỉ dừng ở nguyên tắc trừng trị tội phạm: Khi nào nhiều người đồng can một tội đại hình hoặc trừng trị mà xét rõ là đáng tội, quan tòa án phải xét trong những người ấy hoặc một người hoặc nhiều người là chánh yếu phạm, còn những người khác thời là tùng phạm, mà nghĩ xử tội bằng phân nửa tội người chánh yếu phạm [Dẫn theo 37, tr. 11]. Sau ngày thành lập Nhà Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến đồng phạm. Phạm vi đồng phạm được quy định rộng 13 bao gồm cả hành vi oa trữ, tức là hành vi chứa chấp, tiêu thụ của gian, không phân biệt có hứa hẹn trước hay không. Ví dụ Điều 2 Sắc lệnh số 27-SL ngày 28/2/1946 quy định: "Những người tòng phạm hoặc oa trữ những tang vật của tội phạm trên cũng bị phạt như chính phạm". Thuật ngữ "đồng phạm" lần đầu tiên xuất hiện trong Sắc lệnh số 223-SL (17/11/1946) về truy tố các tội hối lộ, biển thủ công quỹ: "Người phạm tội còn có thể bị xử, tịch thu nhiều nhất là đến 3/4 gia sản. Các đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt như trên". Sắc lệnh số 133-SL (20/01/1959) và Pháp lệnh ngày 30-10-1967 về trừng trị những tội phản cách mạng cũng quy định trường hợp phạm tội của nhiều người trong đó bao gồm bọn chủ mưu, bọn cầm đầu và bọn tham gia tổ chức phản cách mạng. Cùng với sự phát triển của khoa học luật hình sự, khái niệm đồng phạm đã bắt đầu xuất hiện trong các sách báo pháp lý. Thời kỳ này, các học giả tư sản (trường phái xã hội học chuyên phục vụ cho sự thống trị của giai cấp tư sản) khi nêu vấn đề đồng phạm đã đưa ra quan điểm: Chỉ cần có hai người trở lên cùng phạm tội thì gọi là đồng phạm. Đây là quan điểm hết sức sai lầm, phiến diện và không khoa học, không thể hiện sự bao quát chính xác về mặt khách quan cũng như mặt chủ quan của tội phạm. Khi đó, chúng ta vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về đồng phạm. Thành tựu lập pháp chỉ mới dừng lại ở quy định các trường hợp phạm tội có đồng phạm như "phạm tội có tổ chức", "phạm tội có móc ngoặc" hay quy định những loại người cụ thể trong vụ phạm tội có nhiều người cùng liên kết thực hiện như bọn chủ mưu, bọn cầm đầu hay người xúi giục. Trong thực tế, có nhiều thời kỳ việc nhiều người cố ý cùng phạm một tội được coi là "cộng phạm". Đến năm 1963, khái niệm này đã được khẳng định trong báo cáo tổng kết ngành Toà án: "Coi là cộng phạm nếu hai hoặc nhiều người cùng chung ý 14 chí và hành động, nghĩa là hoặc tổ chức hoặc xúi giục hoặc giúp sức hoặc tham gia thực hiện tội phạm để cùng đạt tới kết quả phạm tội" [38]. Pháp luật của một số nước trên thế giới, trong đó có Bộ luật Hình sự của Liên bang Nga năm 1978 cũng có khái niệm tượng tự như vậy. Hoặc giáo trình hình luật của Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội đã nêu ra khái niệm hoàn chỉnh hơn: "Hai hoặc nhiều người cùng cố ý tham gia thực hiện một tội phạm thì gọi là cộng phạm" [45]. Các khái niệm này chưa đưa ra sự phân hoá trách nhiệm hình sự đối với những kẻ cùng thực hiện tội phạm nhưng là những tư duy làm tiền đề cho việc phân biệt giữa trường hợp phạm tội riêng lẻ và trường hợp phạm tội có sự tham gia cùng thực hiện của nhiều người. Những khái niệm này là tài liệu quan trọng và thực sự quý báu để nhà làm luật tiếp tục hoàn thiện chế định đồng phạm trong Luật hình sự. Pháp luật hình sự giai đoạn sau này có những bước tiến vượt bậc với sự ra đời của Bộ luật Hình sự năm 1985. Tại đây, lần đầu tiên khái niệm đồng phạm đã chính thức được sử dụng, Khoản 1 Điều 17 nêu rõ: "Hai hoặc nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm" [22]. Khái niệm này đã thay thế hoàn toàn khái niệm "cộng phạm" vẫn được sử dụng trước đây. Theo khái niệm này, đồng phạm được hiểu đương nhiên loại trừ trường hợp phạm tội do vô ý và quy định của điều luật được hiểu yếu tố bắt buộc đối với đồng phạm là phải có lỗi cố ý. Đa số pháp luật các nước trên thế giới có khái niệm về đồng phạm theo xu hướng quy định này. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự của Cộng Hoà nhân dân Trung Hoa năm 1979 lại có quy định khái niệm loại trừ những trường hợp không phải là đồng phạm ngay trong điều luật là: "Hai hoặc nhiều người vô ý cùng thực hiện một tội phạm không phải là đồng phạm" [18]. Bộ luật Hình sự Liên bang Nga (có hiệu lực từ 01/3/1996) cũng đã có khái niệm cụ thể về đồng phạm như Bộ luật Hình sự Việt Nam. 15 Theo quan điểm này, GS.TSKH Lê cảm trong cuốn Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), sách chuyên khảo sau đại học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội năm 2005 đã có mô hình lý luận của khái niệm đồng phạm là: "Đồng phạm là sự cố ý cùng tham gia của hai người trở lên vào việc thực hiện tội phạm do cố ý" [4]. Lần đầu tiên khái niệm về đồng phạm và các loại người trong đồng phạm đã được nhiều nhà nghiên cứu khoa học đề cập dưới nhiều khía cạnh và nhiều quan điểm khác nhau. Bộ luật Hình sự năm 1999 ra đời, một lần nữa khẳng định quan điểm của luật hình sự Việt Nam về chế định đồng phạm trong Bộ luật Hình sự năm 1985. Chế định đồng phạm đã được quy định trong hầu hết luật hình sự của các nước trên thế giới. Tuy nhiên chỉ có một số nước đưa ra khái niệm cụ thể về các loại người trong đồng phạm. Trong nhiều trường hợp pháp luật các nước đưa ra các khái niệm có liên quan làm căn cứ xác định người thực hành hoặc phân biệt các loại người đồng phạm khác với người thực hành như Bộ luật Hình sự của Bỉ có khái niệm người tòng phạm: Sẽ bị trừng phạt với vải trò người tòng phạm một trọng tội hoặc khinh tội: - Những người chỉ dẫn việc thực hiện trọng tội hoặc khinh tội. - Những người cung cấp vũ khí, phương tiện hoặc các loại thiết bị khác sử dụng phạm trọng tội hoặc khinh tội [18]. Hoặc Bộ luật Hình sự của Nhật Bản dành cả chương XI quy định về đồng phạm nhưng cũng không có quy phạm định nghĩa về đồng phạm mà chỉ có khái niệm về đồng chính phạm, người xúi giục, người giúp sức. Như vậy tìm hiểu, nghiên cứu quá trình lập pháp đã cho chúng ta khái niệm đầy đủ và thống nhất về số lượng người trong đồng phạm là hai người trở lên, cùng cố ý thực hiện tội phạm. Hay nói cách khác, khi một tội phạm 16 được thực hiện bởi ít nhất là hai chủ thể và thoả mãn dấu hiệu "cùng cố ý" khi tham gia thực hiện tội phạm thì trường hợp đó tội phạm được coi là đồng phạm. Từ đó, có thể đi đến khái niệm chung nhất về đồng phạm như sau: Đồng phạm là sự cố ý cùng tham gia của hai người trở lên vào việc thực hiện tội phạm do cố ý. Khái niệm đồng phạm là khái niệm cơ bản, khái niệm xuất phát để từ đó xác định các quy phạm khác của chế định đồng phạm về những loại người đồng phạm; các giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm; tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong đồng phạm; các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự trong đồng phạm. Khái niệm đồng phạm còn là cơ sở pháp lý để phân biệt hành vi đồng phạm và những hành vi liên quan đến tội phạm đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực hình sự nhằm xử lý đúng người, đúng tội, không kết tội oan và không bỏ lọt tội phạm. Như vậy, khái niệm đồng phạm có ý nghĩa thống nhất về mặt nhận thức trong nghiên cứu lý luận cũng như trong thực tiễn xét xử. Về mặt lý luận, khái niệm đồng phạm được quy định trong pháp luật hình sự là cơ sở lý luận cho việc tiếp tục nghiên cứu những vấn đề khác mang tính đặc thù đối với đồng phạm như: các giai đoạn thực hiện tội phạm, các hình thức đồng phạm, tổ chức tội phạm… Bên cạnh đó khái niệm đồng phạm còn có ý nghĩa trong việc xác định tính nguy hiểm cho xã hội của đồng phạm khi so sánh với các hình thức phạm tội khác như phạm tội riêng lẻ, phạm tội do nhiều người thực hiện nhưng không có đồng phạm. Thông thường hiện nay, khái niệm đồng phạm quy định tại điều 20 Bộ luật Hình sự được hiểu là trong đồng phạm mới có các loại người đồng phạm (gồm ngừơi thực hành, người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức). Chỉ có thể xác định được người đồng phạm cụ thể sau khi xác định vụ việc xảy ra là một vụ đồng phạm. Trái ngược với nhận thức này, thực tế cho thấy không ít 17 trường hợp phạm tội do nhiều người tham gia thực hiện, tuy không thỏa mãn các dấu hiệu của đồng phạm nhưng lại thỏa mãn dấu hiệu của từng loại người đồng phạm cụ thể. Đây là vướng mắc mà thực tiễn xét xử đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu vì pháp luật hình sự chưa có quy định. Để giải quyết vướng mắc này, Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hòa có quan điểm: Bộ luật Hình sự trước khi quy định trường hợp đồng phạm phải quy định những trường hợp bị coi là phạm tội. Đó là các trường hợp: - Thực hiện tội phạm. - Xúi giục thực hiện tội phạm. - Tổ chức thực hiện tội phạm. - Giúp sức cho việc thực hiện tội phạm [50, tr. 182]. Với quy định này, trong những trường hợp người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức phạm tội độc lập trách nhiệm hình sự vẫn được đặt ra mặc dù họ không phải là người đồng phạm. Để hiểu rõ hơn, đầy đủ hơn về đồng phạm, ta cần đi sâu nghiên cứu những dấu hiệu pháp lý của đồng phạm. 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của đồng phạm a) Dấu hiệu thuộc mặt khách quan của đồng phạm Dấu hiệu thứ nhất thuộc mặt khách quan của đồng phạm đòi hỏi phải có ít nhất hai người trở lên có đủ điều kiện chủ thể tham gia thực hiện một tội phạm độc lập. Nói hai người trở lên là nói về những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội đến một mức độ nhất định nào đó cùng thực hiện một tội phạm. Theo TSKH.PGS Lê Cảm thì "Phải có sự cùng tham gia của từ hai người trở lên vào việc thực hiện tội phạm (nói như vậy mới đảm bảo sự chính xác vì nếu 18 nói là "cùng thực hiện" thì có nghĩa là mới chỉ đề cập tới hành vi của một loại người đồng phạm - người thực hành mà thôi)" [4, tr. 457]. Khoản 4 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: "Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác" [25]. Trong thực tiễn, nguyên tắc này được áp dụng khi xử lý đối với tất cả các tội phạm kể cả những tội phạm có đồng phạm. Chúng ta thường thấy trong những vụ âm mưu lật đổ chính quyền, bạo loạn, hoạt động phỉ… có đông người tham gia, không phải tất cả những người tham gia đều bị đưa ra truy tố xét xử mà chỉ những người có mức độ tham gia đáng kể mới bị truy tố xét xử, còn những người tham gia với mức độ nhỏ nhặt không đáng kể thường được xử lý bằng các biện pháp khác không phải biện pháp hình sự. Tội phạm có hai người trở lên cùng thực hiện nhưng chỉ có một người thỏa mãn dấu hiệu chủ thể thì vụ án đó không có đồng phạm. Nếu vụ án có rất nhiều người tham gia thực hiện nhưng chỉ có hai người thỏa mãn dấu hiệu chủ thể thì vụ án vẫn được xác định là có đồng phạm. Hiện nay luật hình sự Việt Nam không có điều luật nào quy định trực tiếp: Như thế nào là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Song tại Khoản 1 Điều 13 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự, đối với người này phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh [25]. Như vậy có thể hiểu rằng: Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. 19 Năng lực trách nhiệm hình sự chỉ được hình thành khi con người đạt độ tuổi nhất định, Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [25]. Năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi là dấu hiệu pháp lý bắt buộc của chủ thể tội phạm. Yếu tố chủ thể tham gia thực hiện tội phạm là cơ sở quyết định tính chất của tội phạm. Thực tế cho thấy, một tội phạm được thực hiện chỉ do một người thực hiện nhưng cũng có thể nó là kết quả của sự liên kết, phối hợp giữa nhiều chủ thể khác nhau. Sự tham gia của nhiều người vào việc gây án đã làm cho tội phạm có sự thay đổi về chất và có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn hẳn trường hợp phạm tội riêng lẻ. Khi tội phạm có nhiều người cùng tham gia thì những người phạm tội có tâm lý dựa vào sức mạnh tập thể, nên liều lĩnh và táo bạo hơn, quyết tâm phạm tội hơn. Do đó, tội phạm có khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội cao hơn.. Dấu hiệu thứ hai thuộc về mặt khách quan của đồng phạm: Những người đồng phạm đều có chung hành động và hướng tới một kết quả chung: Để đánh giá chính xác vụ án có đồng phạm không thì cần xem xét những người tham gia đó có cùng thực hiện một tội phạm hay không? Dấu hiệu cùng thực hiện một tội phạm có nghĩa là trong đồng phạm mỗi người (có đủ điều kiện chủ thể của tội phạm) phải có hành vi tham gia vào việc thực hiện tội phạm hoặc thúc đẩy việc thực hiện tội phạm. Họ có thể tham gia vào tội phạm với một hoặc một số hành vi sau: Hành vi thực hiện tội phạm, hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục thực hiện tội 20 phạm, hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Tương ứng với bốn loại hành vi này là bốn loại người đồng phạm, bao gồm: Người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức và người thực hành. Thực tế cho thấy trong một vụ án đồng phạm có thể có đủ bốn loại hành vi nhưng cũng có thể chỉ có một trong bốn hành vi đó. Những người đồng phạm có thể tham gia với một loại hành vi hoặc với nhiều loại hành vi khác nhau. Họ có thể tham gia từ đầu hay khi tội phạm đã xảy ra nhưng chưa kết thúc. Bằng những hành vi cụ thể, những người tham gia vào vụ án đồng phạm đều gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Những hành vi đó được thực hiện trong mối liên kết thống nhất với nhau. Hành vi của mỗi người là điều kiện cần thiết cho hoạt động phạm tội chung. Hành vi của người này hỗ trợ, bổ sung cho hành vi của người khác và ngược lại. hành vi của mỗi người là bộ phận, một khâu của hành vi phạm tội chung nhằm thực hiện một tội phạm nhất định để gây ra hậu quả phạm tội chung thống nhất. Hoạt động của mỗi người đều có mối quan hệ nhân quả với hậu quả chung hoặc với việc thực hiện hành vi phạm tội chung. Như vậy, người đồng phạm có thể tham gia từ giai đoạn chuẩn bị phạm tội, hoặc cũng có thể tham gia khi tội phạm đã xảy ra và chưa kết thúc trên thực tế, nhưng không thể có việc tham gia sau khi tội phạm đã kết thúc. Về mặt pháp lý, khái niệm tội phạm hoàn thành là chỉ hành vi phạm tội đã thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm nhất định được quy định tại Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự. Khái niệm tội phạm kết thúc để chỉ tội phạm không được thực hiện trong thực tế nữa mà không kể lý do gì. Về mặt lý luận, vấn đề đồng phạm xuất hiện sau khi tội phạm xảy ra nhưng chưa kết thúc là rất phức tạp. Thực tiễn áp dụng chưa có những văn bản giải thích hướng dẫn cụ thể nên các cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn và bất đồng về quan điểm. 21 Khoa học luật hình sự Việt Nam chia tội phạm thành hai loại: Loại có cấu thành tội phạm vật chất và loại có cấu thành tội phạm hình thức. Đối với loại tội phạm có cấu thành vật chất, hành vi phạm tội phải gây ra hậu quả thì mới được coi là hoàn thành. Đối với tội có cấu thành hình thức, hậu quả tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc của mặt khách quan nhưng việc xác định hậu quả có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt. Quan hệ nhân quả trong đồng phạm là dạng quan hệ nhân quả kép trực tiếp (quan hệ nhân quả trong đó có nhiều hành vi trái pháp luật cùng đóng vai trò là nguyên nhân). Khi tội phạm được thực hiện với sự cố ý cùng tham gia của nhiều người thì mỗi hành vi trái pháp luật của từng người đồng phạm đều có khả năng thực tế trực tiếp làm phát sinh hậu quả. Trong trường hợp hành vi của những người đồng phạm chưa có khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả thì quan hệ nhân quả chỉ hình thành khi có sự kết hợp các hành vi đó với nhau thành một thể thống nhất. Như vậy, khi tìm hiểu dấu hiệu thuộc mặt khách quan của đồng phạm ta cần phải xác định được những người tham gia thực hiện tội phạm đó có đủ điều kiện của một chủ thể tội phạm hay không. Hành vi của người đồng phạm đó ảnh hưởng tới hành vi của những người đồng phạm khác như thế nào và ngược lại chịu ảnh hưởng của những người đồng phạm khác ở mức độ nào. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của người đồng phạm với hậu quả chung của tội phạm. Mức độ tham gia của người đồng phạm đối với hoạt động phạm tội chung. Bên cạnh những dấu hiệu thuộc mặt khách quan thì những dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của đồng phạm cũng hết sức quan trọng. b) Những dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của đồng phạm Mặt chủ quan của tội phạm nói chung, đồng phạm nói riêng bao gồm các dấu hiệu đặc trưng và cơ bản sau: Lỗi, động cơ và mục đích. 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan