Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu thực trạng tư vấn học đường ở các trường thpt trên địa bàn hồ chí min...

Tài liệu Nghiên cứu thực trạng tư vấn học đường ở các trường thpt trên địa bàn hồ chí minh điển cứu tại hai trường thpt thủ đức và trường thpt mạc đĩnh chi

.PDF
34
156
107

Mô tả:

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Trong những năm qua, nền kinh tế của Việt Nam đã có bước đột phá lớn. GDP hàng năm liên tục tăng nhanh tạo ra sự chuyến biến nhanh chóng về tất cả mọi mặt trong đời sống của con người Việt Nam. Bên cạnh những mặt tích cực mà nền kinh tế mới đem lại thì chúng ta cũng phải nhìn nhận thêm một số mặt hạn chế còn tồn tại và có xu hướng ngày càng gia tăng. Đó là sự tác động của kinh tế đến đời sống tình cảm, tâm lý của con người đặc biệt là giới trẻ mà trong đó điển hình là trẻ thanh niên – học sinh trung học phổ thông (HS THPT). Chúng ta đều biết rằng các em HS THPT là lứa tuổi có chuyến tiếp từ trẻ con sang người lớn cho nên các em có sự thay đổi rất lớn về sinh lý, nhận thức và cảm xúc. Trong cuộc sống từ sinh hoạt gia đình đến việc học ở trường và hoạt động ngoài xã hội các em luôn phải đối mặt với nhiều vấn đề khúc mắc, tình huống bất ngờ như: áp lực học tập, bố mẹ la rầy, hay bị thầy cô bạn bè xa lánh, lúng túng về tâm sinh lý, tình yêu tuổi học trò, các em đứng trước ngã ba đường chọn lối rẽ vào đời…mà không biết cách nhìn nhận và giải quyết như thế nào cho hợp lý. Nhưng hầu hết ở các trường phổ thông đều chưa quan tâm, hoặc có chăng cũng chỉ là những con số ít ỏi chưa đáp ứng đủ nhu cầu của đông đảo HS THPT trên địa bàn TP.HCM. Do đó, các nhà tâm lý học đều cho đây là một trong những giai đoạn khủng hoảng và khó khăn trong cuộc đời của mỗi người. Với các bậc phụ huynh cũng cảm thấy bế tắc trong việc giáo dục con cái ở độ tuổi này. Theo cô Phan Thanh Minh làm việc tại Sở Thương Binh xã hội và Lao động TP. HCM cho biết thì : Hiện tại thành phố có 9 trường THPT đã có phòng tư vấn học đường, tuy mô hình tư vấn học đường mới được áp dụng ở một số trường với thời gian hoạt động chưa lâu nhưng tính hiệu quả của nó thì được biểu hiện khá rõ rệt. Điển hình như: Trường Mari Cuire, trong vài năm trở lại đây, cũng thực hiện dự án tư vấn học đường. Theo một nhân viên tư vấn, số HS đến với văn phòng khá tương đối. Có ngày gần 20 em.1 Như vậy chúng ta có thể thấy rằng: việc mở ra và nhân rộng mô hình phòng tư vấn học đường trong các trường học, đặc biệt trong các trường THPT là rất cần thiết, góp phần giúp 1 Theo báo Dân Trí -Chủ nhật, 26/02/2006. 1 các em trong việc nâng cao ý thức và kỹ năng sống. Từ đó các em sẽ dễ dàng nhìn nhận và giải quyết những vấn đề khó khăn trong cuộc sống, trong gia đình cũng như trong các mối quan hệ khác nhau một cách hợp lý. Chính vì lẽ trên, chúng tôi đã quyết định chọn đề tài “Thực trạng Tư vấn học đường ở các trường THPT trên địa bàn TP. HCM – Điển cứu tại hai trường THPT Thủ Đức và trường THPT Mạc Đĩnh Chi” để nhằm khảo sát, tìm hiểu thực trạng chung về công tác Tư vấn học đường tại các trường THPT trên địa bàn TP. HCM, cụ thể về hai trường vừa nói trên. Đồng thời đưa ra một số kiến nghị và giải pháp cho vấn đề này. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 2.1. Mục đích nghiên cứu: - Nói lên được thực trạng tư vấn học đường (TVHĐ) tại các trường trung học phổ thông TP.HCM điển tích nghiên cứu tại hai trường: THPT Mạc Đĩnh Chi quận 6 TP.HCM, THPT Thủ Đức quận Thủ Đức TP.HCM. - Khẳng định vai trò của tư vấn học đường trong đời sống tâm lý của học sinh phổ thông và vai trò của tư vấn học đường trong nền giáo dục. - Xây dựng mô hình tư vấn học đường ở trường trung học phổ thông (có sự xuất hiện của nhân viên công tác xã hội trong mô hình đó) 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu lý luận chung về lứa tuổi 15- 18 và dùng phương pháp của tư vấn học đường làm cơ sở định hướng cho đề tài nghiên cứu. - Tìm hiểu, mô tả và phân tích thực trạng tư vấn học đường tại TP.HCM điển tích là hai trường: THPT Mạc Đỉnh Chi và THPT Thủ Đức. - Tìm hiểu nguyên nhân khách quan và chủ quan: tại sao việc mở văn phòng tư vấn học đường trong thời đại hiện nay lại rất cần thiết. - Tìm hiểu những phản hồi từ phía dư luận xã hội ( nhà trường, gia đình, học sinh…) về tính tích cực, cũng như tính cần thiết của việc mở các văn phòng tư vấn học đường trong các nhà trường. - Đề ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm xây dựng một mô hình tư vấn học đường đem lại hiệu quả cao nhất. 2 3.Đối tượng nghiên cứu: -Đối tượng nhiên cứu: Thực trạng về công tác tư vấn học đường tại hai trường THPT Mạc Đỉnh Chi và THPT Thủ Đức-TP.HCM. -Khách thể nghiên cứu: học sinh, phụ huynh. 4. Phương pháp nghiên cứu: Khi thực hiện đề tài này chúng tôi đã chọn phương pháp nghiên cứu chủ yếu cho đề tài của mình là dùng phương pháp nghiên cứu định tính và phân tich dữ liệu sẵn có. Với những công việc cụ thể như sau: - Phỏng vấn sâu: 15 cuộc trong đó có 11 cuộc dành cho đối tượng là học sinh, 2 giáo viên, 2 phụ huynh. - Phương pháp lấy mẫu: thuận tiện. - Phân tích dữ liệu sẵn có: chủ yếu là thu thập dữ liệu trên: sách, báo, internet. 5. Phạm vi nghiên cứu: -Địa bàn: trường THPT Mạc Đĩnh Chi (Quận 6 –TPHCM) và trường THPT Thủ Đức (Quận Thủ Đức – TP.HCM). 6. Tổng quan tình hình nghiên cứu: Tư vấn học đường là vấn đề không còn xa lạ với các nước phát triển nhưng ở Việt Nam, đây còn là một vấn đề nóng bỏng đang nhận được nhiều sự quan tâm, nghiên cứu và tìm hiểu từ nhiều phía. -Trong cuốn sách “Tư vấn tâm lý học đường”, tác giả Nguyễn Thị Oanh (Xuất bản 10/2007) đã cùng các bạn trẻ giải đáp những vấn đề khó khăn trong đời sống gia đình, tình bạn, tình yêu, học tập và định hướng nghề nghiệp…để giúp các em tự khám phá và làm chủ bản thân. Đồng thời những nghiên cứu của tác giả cũng giúp cha mẹ, thầy cô hiểu thêm về tâm lý của lứa tuổi học trò. -Trong bài viết của Ngô Minh Huy đăng trên kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Hỗ trợ tâm lý cho học sinh, sinh viên” do Hội khoa học tâm lý – giáo dục tỉnh Đồng Nai tổ chức tại bệnh viện Tâm thần II ( 18-12-2007), tác giả có giới thiệu sơ lược về lịch sử ngành tham vấn ở thế giới và ở Việt Nam. Tác giả còn đề cập đến một số vấn đề thực tiễn như nhà tham vấn học đường cần phải làm gì, ai có thể là nhà tham vấn học đường, vấn đề phát triển tư vấn học đường. 3 Hội thảo “ Tư vấn tâm lý – giáo dục - thực tiễn và định hướng phát triển” được tổ chức tại TP.HCM vào tháng 2 năm 2006. Hội thảo đã đề ra cách nhìn nhận đúng đắn của người lớn đối với học sinh, đồng thời khẳng định vai trò của tư vấn học đường đối với học sinh, nhà trường và xã hội. Kỷ yếu Hội thảo “Nhu cầu tư vấn học đường ở các trường THPT tại TP Hồ Chí Minh hiện nay”, Viện nghiên cứu giáo dục, ĐH Sư phạm TP HCM, năm 2003, bao gồm các bài tham luận, báo cáo khoa học của các nhà khoa học giáo dục, các chuyên gia tư vấn…Các bài viết đã trình bày khá rõ thực trạng nhu cầu tư vấn học đường ở các trường THPT trên địa bàn TP HCM, từ đó đưa ra một số nguyên nhân và các giải pháp định hướng cơ bản. Bên cạnh đó còn có một số bài báo, tạp chí khác cũng đề cập tới công tác tư vấn học đường như: “Về tư vấn tâm lý – hướng nghiệp ở trường THPT” của tác giả Nguyễn Bá Đạt, Tạp chí giáo dục – Bộ GD-ĐT, số 63 (7/2003), trình bày về các vấn đề có liên quan tới tâm lý và hướng nghiệp của học sinh THPT. “Cần có các chuyên viên tâm lý trong trường học” của tác giả Nguyễn Phương Hoa, Tạp chí Tâm lý học – Viện Tâm lý học, TT KHXH-NVQG, số 9 (9/2002) nêu ra một số khó khăn về tâm lý mà học sinh thường gặp từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể trong đó có lưu ý đến việc cần thiết phải có các chuyên viên tâm lý trong trường học nhằm giúp học sinh giải quyết các thắc mắc và khó khăn gặp phải. “Tham vấn học đường – nhìn từ góc độ giới” của hai tác giả Trần Thị Minh Đức và Đỗ Hoàng, Tạp chí Tâm lý học, số 11 (11/2006), đây là một bài viết có giá trị xung quanh vấn đề tham vấn học đường nhìn từ góc độ giới, trong đó tác giả đã chỉ ra những nét khác biệt cơ bản trong tâm lý của học sinh nam và nữ. “Tìm hiểu thực trạng và các giải pháp định hướng về nhu cầu tư vấn học đường ở học sinh THPT trong nội thành TP HCM hiện nay” của tác giả Võ Thị Tích, đã đưa ra thực trạng chung của nhu cầu tư vấn học đường của học sinh THPT và đề xuất một số giải pháp định hướng cơ bản. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Thực trạng nhu cầu tư cầu tư vấn học đường của học sinh THPT tại quận Thủ Đức TP. HCM” của sinh viên Nguyễn Văn Khoan, sinh viên Khoa Giáo Dục Học, Khóa 2004 – 2008. 4 Các công trình bài viết kể trên là rất có giá trị. Song, các công trình này chỉ mới nêu vấn đề một cách khái quát, chưa áp dụng một cách rộng rãi trên các phường, quận của TP. HCM. Hàng loạt các bài viết nghiên cứu về vấn đề giáo dục giới tính cho học sinh nhưng những dự án giáo dục giới tính ra đời vẫn mờ nhạt. Rất nhiều nghiên cứu xoay quanh vấn đề tâm lý giới tính, tâm lý học đường nhưng chưa có nghiên cứu nào đi sâu vào vấn đề xây dựng mô hình tư vấn học đường trong trường học. Việc nhận thức về vấn đề tư vấn học đường cho đến nay vẫn còn nhiều hạn chế. Thế nên qua đề tài này, chúng tôi mong muốn sẽ đi sâu hơn và bổ sung thêm những khía cạnh mới cho vấn đền tư vấn học đường tại TPHCM cũng như ở Việt Nam. 7. Ý nghĩa: 7.1. Ý nghĩa thực tiễn: - Giúp học sinh nói lên được nhu cầu cấp thiết và quyền lợi của mình về việc đượctư vấn tâm lý học đường, để giải tỏa những khó khăn, áp lực và “ những điều khó nói”. - Giúp học sinh, phụ huynh, nhà trường và xã hội hiểu rõ tầm quan trọng của việc xây dựng, mở rộng và phát triển mô hình tư vấn học đường trong các trường học trên cả nước. - Đề tài đưa ra những kiến nghị và giải pháp về vấn đề tư vấn học đường cho phụ huynh, nhà trường, các cơ quan thẩm quyền có liên quan. 7.2. Ý nghĩa khoa học - Làm tài liệu tham khảo cho học sinh, phụ huynh và các trường quan tâm đến vấn đề tư vấn hoc đường. - Đồng thời làm tư liệu tham khảo cho những đề tài có liên quan sau này. - Bổ sung những khía cạnh trong vấn đề giáo dục của hệ thống an sinh quốc gia. 8.Thuận lợi và khó khăn của đề tài Đề tài đã nhận được sự quan tâm và nhiệt tình tham gia cuả các nhóm và các cá nhân lien quan, khai thác đúng vào mối quan tâm của toàn xã hội cho sự nghiệp giáo dục. Khó khăn trong việc tiếp cận với nhà trường tại hai trường điển tích nghiên cứu, thời gian làm đề tài có hạn và những khó khăn về mặt di chuyển đến các cơ sở để lấy dữ liệu (vì trường nghiên cứu ở xa: trường THPT Mạc Đĩnh Chi, quận 6 TP.HCM). Nên việc nghiên 5 cứu không thể tiến hành một cách rộng rãi mà chỉ có thể phỏng vấn một số đối tượng nhất định. Và đây cũng là một vấn đề còn khá mới mẻ cho nên việc tìm các tài liệu liên quan gặp không ít khó khăn, vẫn có nhiều thiếu sót không tránh khỏi. 6 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: Cơ sở lý luận: 1.1. Tư vấn là gì? Từ khoa học đến thực tiễn có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tư vấn. Nhưng sau đây nhóm nghiên cứu chúng tôi chỉ xin nêu ra một số định nghĩa cơ bản của một số tác giả của Việt Nam và nước ngoài. Theo từ điển Tiếng Việt: “Tư vấn là phát biểu ý kiến về những vấn đề được đòi hỏi đến nhưng không có quyền quyết định (hoạt động tư vấn, cơ quan tư vấn…)” Theo định nghĩa của các chuyên gia tư vấn thì tư vấn là lắng nghe, phát biểu ý kiến về những vấn đề hỏi đến nhưng không có quyền quyết định, dựa vào những hoạt động tâm lý để vạch ra những giải pháp giúp khách hàng tự quyết định. Còn trong cuốn Dictionary of Psychology của tác giả Adrew M.Colman xuất bản năm 2001 có định nghĩa về “Tư vấn” như sau: “Tư vấn là việc áp dụng các lý thuyết tâm lý và các kỹ năng giao tiếp để giải quyết các vấn đề, các nỗi lo lắng hay các nguyện vọng cá nhân của khách hàng. Một hình thức tư vấn đều bao gồm việc cho lời khuyên, bản chất cơ bản nhất là tạo ra sự dễ chịu mà không cần đưa ra các hướng dẫn mang tính áp đặt. Các nhà tư vấn làm việc vói các cá nhân, các cặp vợ chồng và các gia đình trong các môi trường khác nhau: văn phòng tư vấn, phòng khám bệnh đa khoa, các tổ chức giáo dục, các tổ chức thương mại và nhà riêng.”2 Như vậy từ một số định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu ở một góc độ nào đó thì tư vấn là việc làm mà trong đó nhà tư vấn tìm hiểu các vấn đề khúc mắc,những khó khăn mà khách hàng đang gặp phải để từ đó nhận định, đánh giá, phân tích và đưa ra những lời khuyên bổ ích nhất giúp thân chủ giải quyết tốt khó khăn của mình. Trong khi đó, tư vấn học đường là “tư vấn cho hóc sinh và nơi tư vấn là một nơi nào đó ở ngay trong trường các em học chứ không thể ở ngoài trường học” – Theo N.S.U.T Lê Minh Nga, “Nhu cầu tư vấn học đường ở các trường PTTH ở TP. HCM hiện nay”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, TP.HCM 09/2003. Nội dung của tư vấn học đường là tất cả những băn khoăn, thắc mắc của bản thân mỗi học sinh xảy ra trong đời sống tình cảm của các em.Ngoài ra, khó khăn trong học tập và một số lịch vực khác cũng là nội dung của tư vấn 2 Dictionary of Psychology, Adrew M.Colman, năm 2001 7 học đường. Nhà tư vấn có thể là chính giáo viên của nhà trường hoặc chuyên gia tư vấn – Tư vấn viên riêng tùy vào điều kiện của mỗi trường. 1. 2. Một số đặc điểm cơ bản về sinh lý, tâm lý của học sinh THPT Lứa tuổi THPT còn gọi là đầu tuổi thanh niên. Trên thực tế không phải em nào ở lứa tuổi này cũng được đi học nhưng người ta thường gọi chung lứa tuổi này là tuổi THPT bởi vì đây là lứa tuổi trùng với tuổi học sinh THPT trên toàn thế giới. 1.2.1 Sự phát triển thể chất Tuổi THPT là thời kỳ phát triển khá ổn định chấm dứt sự phát triển dữ dội về thể chất. Nhịp độ tăng trưởng về chiều cao đã chậm lại, sức mạnh cơ bắp tăng nhanh và hệ thần kinh vẫn tiếp tục phát triển. Đa số các em đã qua thời kỳ phát dục. Nhìn chung, đây là lứa tuổi cơ thể phát triển cân đối, khỏe và đẹp. 1.2.2 Điều kiện xã hội của trẻ THPT: Các em chiếm vị trí trung gian giữa trẻ em và người lớn. Vai trò xã hội của lứa tuổi THPT thay đổi một cách cơ bản: vai trò và mức độ trách nhiệm của các em trong gia đình và xã hội càng lớn: các em gia nhập vào Đoàn thanh niên, đến 18 tuổi các em là một công dân, hoặc là anh chị trong gia đình, tham gia lao động và ý thức về việc chọn nghề. Đây là giai đọan mà con người có những điều kiện thể chất thuận lợi dẫn đến sự hòan thiện vẻ đẹp mỹ mãn về con người tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động học tập, lao động, thể thao, nghệ thuật… Vai trò, trách nhiệm quyền hạn xã hội thay đổi về chất, được xã hội thừa nhận một cách chính thức dẫn đến sự tăng cường các hoạt động xã hội, chi phối, quyết định sự phát triển của các em về mọi mặt. 1.2.3 Đặc điểm phát triển nhân cách của lứa tuổi THPT: Sự phát triển của tự ý thức: Hơn bất cứ lứa tuổi nào, đây là lứa tuổi mà các em có sự tự đánh giá hình ảnh bản thân một cách tỉ mỉ, nghiêm khắc. Có một số em mang trong mình những “Bi kịch về tiêu chuẩn” hình thức mà người lớn ít khi nào quan tâm đến. Bên cạnh sự tự ý thức về hình thể, các em cũng xuất hiện sự đánh giá về những phấm chất giới tính của mình. 8 Bên cạnh đó là sự tự đánh giá về những phẩm chất đạo đức của bản thân. Các em tự hành động theo hai cách: Có em tự nhận những nhiệm vụ khó khăn và cố gắng hòan thành nó để tự thể hiện tinh thần trách nhiệm và năng lực của mình mặc dù các em còn rất ít kinh nghiệm sống. Có em thường đánh giá mình bằng cách ngầm so sánh với những người xung quanh nhất là người mà họ ngưỡng mộ. Đôi khi thanh niên tự quan sát, tự phán xét về bản thân. Điều này thể hiện rõ trong việc ghi nhật ký của các em. Nội dung nhật ký cho thấy các em khá khắt khe với bản thân, có khi là tự xỉ vả, hối hận về hành vi sai trái nào đó của mình. Song song với sự phát triển của sự tự ý thức, tự đáng giá thì tính tự trọng ở tuổi này cũng bắt đầu phát triển mạnh. 1.2.4 Đời sống tình cảm của lứa tuổi THPT: Lứa tuổi THPT là lứa tuổi có nhiều biến đổi mới trong quá trình phát triển và xã hội hóa các cảm xúc. Quan hệ với cha mẹ và bạn bè: Tình bạn là thứ tình cảm quyến luyến nhất và là giai đoạn tất yếu của quá trình hiểu biết, cảm thông lẫn nhau. Quan hệ với bạn bè cùng tuổi chiếm vị trí tuyệt đối trong khi quan hệ với những bạn bè lớn tuổi hơn hoặc ít tuổi hơn chỉ chiếm một vị trí nhỏ bé. Điều này chứng tỏ thanh niên khao khát có những quan hệ bình đẳng trong cuộc sống. Còn trong quan hệ với cha mẹ thì quan hệ phụ thuộc dựa dẫm dần bị thay thế bằng quan hệ bình đẳng tự lập. 1.3. Các học thuyết liên quan đến Tư vấn học đường được áp dụng trong đề tài Đại diện cho “Thuyết hành vi” là H. Homans, thuyết này cho rằng: động cơ riêng biệt của tính cá nhân rất khác nhau nhưng không có vai trò đáng kể đối với sự diễn biến liên tục của hành vi con người. Như vậy động cơ mang tính chủ quan trong khi đó hành vi diễn ra đều đặn và thay đổi theo tình huống. Tức là theo một quy luật nào đó “con người chịu sự tác động bởi yếu tố môi trường, nếu môi trường thay đổi thì thái độ ứng xử của con người thay đổi theo”. Phân tích “lý thuyết hành vi” giúp cho nhân viên xã hội (tư vấn viên) hiểu được rõ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của con người: môi trường sống cá nhân thay đổi. Như vậy theo quan điểm, về mặt phương pháp người ta không thể nắm bắt được thế giới nội tâm của mỗi con người, cái duy nhất có thể là được là quan sát những gì thể 9 hiện ra bên ngoài. Đề tài “Thực trạng tư vấn học đường ở các trường THPT trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh – Điển cứu tại 2 trường THPT Thủ Đức và THPT Mạc Đĩnh Chi” cho phép ta giải thích những vấn đề về tâm lý của trẻ thanh niên (15 – 18) – học sinh THPT: không chỉ bị chi phối bởi yếu tố động cơ mà ta con phải kể đến các yếu tố liên quan đến môi trường sống của cá nhân như: môi trường gia đình, học tập, xã hội... Đồng thời lý giải những biểu hiện cụ thể về mặt tâm lý thông qua hành vi giúp chúng ta tiếp cận với học sinh THPT để từ đó xây dựng lên một mô hình tư vấn học đường hợp lý . Tiêu biểu cho “Thuyết hành động” là hai nhà xã hội học M. Weber và H. Mead. Theo M. Weber: con người ngoài việc phản xạ với kích thích từ môi trường thì còn suy nghĩ về nó và lựa chọn một cách ứng xử “khôn ngoan” và tuân theo cả tình cảm của bản thân. Hoàn cảnh tác động tới cá nhân nhưng cá nhân trước khi hành động một việc gì đó đều suy nghĩ về những nhu cầu, những động cơ của mình trong hoàn cảnh đó để từ đó sẽ tìm ra phương thức tốt nhất để thực hiện mục tiêu đề ra. Chính vì vậy nếu ta muốn nghiên cứu con người thì phải đặt mình vào từng hoàn cảnh của mỗi cá nhân khác nhau để mà có một cách nhìn toàn diện và đúng đắn về con người đó (tư duy, tình cảm, nhận thức…). Trong thuyết hành động M. Weber đã chia thành 4 loại hành động:  Thứ nhất là, hành động do cảm xúc: là hành động mang tính nhất thời bộc phát, khó kiểm soát và đặc biệt dễ thay đổi theo thời gian. Loại hành động này luôn thay đổi theo môi trường sống, ở trong một hoàn cảnh có thể thể hiện bằng nhiều hành động khác nhau.  Thứ hai là, hành động mang tính truyền thống: đặc điểm thường thấy ở loại hành động này đó là sự đi theo lối mòn, tập quán củ bị chi phối bởi thói quen và tuân theo những chuẩn mực, giá tri đạo đức của cộng đồng nơi cá nhân sinh sống.  Thứ ba là, hành động hợp lý về giá trị: có nghĩa là một cá nhân nào đó trước khi hành động một việc gì đó thì sẽ xem điều đó có giá trị hay không và sẽ hành động nếu thấy có giá trị và ngược lại thì sẽ không hành động.  Và cuối cùng là hành động hợp mục đích: con người đề ra mục đích và sẽ nghĩ xem nên chọn phương thức hành động nào để đạt được mục đích đề ra. Riêng đối với nhà xã hội học H. Mead thì ông cho rằng: hành động của con người xuất phát từ mối liên hệ cá nhân. Nghĩa là cá nhân con người muốn trưởng thành trong xã hội là 10 phải thông qua sự tương tác với các cá nhân khác (chế ngự phần con, phát triển hoàn thiện phần người) “con người trở thành cá nhân tự phát triển như thế nào thông qua sự tương tác với các cá nhân khác”.Vì vậy vấn đề giáo dục con người đặc biệt đối tượng trẻ thanh niên rất là quan trọng. Từ việc áp dụng hai thuyết nói trên cho chúng ta có một cách nhìn toàn diện về tâm lý của con người đặc biệt là tâm lý của trẻ thanh niên từ 15 – 18 tuổi đây được xem là lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ con sang người lớn nên tâm lý của các em rất là phức tạp và hành động chủ yếu theo cảm tính của bản dễ bị kích động đặc biệt các em rất dễ bị xúc động khi nhận được sự quan tâm từ người khác và ngược lại các em rất dễ bị tổn thương khi có ai đó động chạm tới “cái tôi” của mình. Diễn biến tâm lý được đan xen và chịu tác động của hàng loạt các yếu tố khác nhau từ những yếu tố nằm bên trong bản thân mỗi cá nhân như: động cơ, đặc điểm sinh lý… đến những yếu tố bên ngoài như: môi trường sống, thái độ của bàn bè , áp lực học tập, thái độ của bố mẹ…Việc áp dụng nội dung học thuyết tiếp cận sẽ góp phần tìm ra nguyên nhân chính, sâu xa dẫn đến những thay đổi trong tâm lý của các em và phương thức hành động của học sinh THPT để từ đó đề ra biện pháp tư vấn giúp đở các em trong việc điều chỉnh hành vi của mình và ổn định tâm lý khi các em gặp những khó khăn khúc mắc không giải quyết nổi và cũng không biết tỏ cùng ai? Tâm lý học của trẻ đầu thanh niên cũng cần đặt trong từng hoàn cảnh khác nhau của mỗi cá nhân khác nhau, có như thế ta mới có thể hiểu cặn kẽ nhất về tâm lý, khúc mắc của mỗi cá nhân cụ thể để có cách giúp đở thích hợp và kịp thời nhất. Bên cạnh hai học thuyết vừa nói trên thì trong đề tài nghiên cứu này nhóm chúng tôi còn áp dụng “Thuyết nhu cầu” của Maslow trong việc xem xét các khía cạnh có liên quan đến nhu cầu của con người đặc biệt là đối với trẻ thanh niên – học sinh THPT. Chúng ta đều biết nhu cầu là biểu hiện xu hướng về nguyện vọng của cá nhân, là những gì mà cá nhân cần được thỏa mãn để sống và hoạt động. “Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu mà cá nhân cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển. Nó có vai trò luôn thúc đẩy hoạt động của con người nhằm hướng tới một đối tượng nào đó”3 Theo Maslow, nhu cầu cơ bản của con người gồm các khía cạnh: 3 Tâm lý học đại cương, lưu hành nội bộ, tr 138. 11  Nhu cầu liên quan đến sinh học, thể lý  Nhu cầu được an toàn.  Cá nhân có nhu cầu được tôn trọng và có vị trí.  Nhu cầu được nhìn nhận.  Nhu cầu được hiểu biết, học hỏi, khám phá, đạt đến nét đẹp, giá trị đạo đức, sự hài hòa, cân đối trong cuộc sống. Như vậy ta có thể thấy rằng nhu cầu của con người rất phong phú và đa dạng, luôn phát triển theo sự phát triển của xã hội. Vì vậy nhu cầu mang tính lịch sử xã hội. Theo Sveciski A.L thì “phạm vi nhu cầu và sự thỏa thuận nhu cầu của cá nhân được quy định bởi ảnh hưởng của nền văn hóa xã hội nói chung và của những nhóm xã hội lớn hoặc nhỏ mà cá nhân đó là thành viên”. Nhu cầu của con người dường như không có giới hạn.Cùng với sự phát triển của xã hội thì nhu cầu của con người ngày càng cao. Khi nhu cầu này được thỏa mãn thì lại xuất hiện nhu cầu khác cao hơn. Trong đề tài này, chúng tôi muốn đề cập đến một trong nhưng nhu cầu thiết yếu của con người mà đặc biệt là độ tuổi thanh thiếu niên – học sinh THPT đó là nhu cầu tư vấn tâm lý.Đây là nhu cầu xã hội được nảy sinh khi con người cảm thấy cần được tư vấn, giúp đỡ nếu tâm lý xảy ra những vấn đề khúc mắc mà bản thân người đó không thể tự giải quyết được. Nhu cầu tư vấn tâm lý rất cần thiết cho cuộc sống nhất là trong xã hội ngày nay khi mà con người luôn phải đứng trước những khó khăn trong cuộc sống dẫn đến sự rối nhiễu tâm lý như mâu thuẫn trong cuộc sống, áp lực học tập, gia đình không hạnh phúc, vỡ mộng về tình yêu, bạn bè thầy cô xa lánh…. Con người luôn có nhu cầu được giải tỏa, được cảm thông, thấu hiểu và chia sẻ để từ đó lấy lại sự thăng bằng về tình cảm, ổn định tâm lý và tái tạo lại sức lao động và học tập. Nhu cầu tư vấn học đường ngày càng đa dạng và phong phú với nhiều hình thức, nội dung khác nhau. 12 Chương 2: Tư vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) 2.1. Nhu cầu tư vấn học đường của học sinh THPT Ở Việt Nam, chưa thấy công bố những thống kê đầy đủ về tình hình tự tử, trầm cảm ở mọi lứa tuổi nói chung và tự tử ở tuổi dậy thì nói riêng. Nhưng hiện tượng trầm cảm, khủng hoảng và dẫn đến những hành vi thiếu suy nghĩ của HS được báo chí nêu lên là rất đáng lo ngại. Việc khắc phục hậu quả sau những hành vi nông nổi của các em không phải là yếu tố quyết định mà yếu tố quyết định chính là tìm ra những nguyên nhân và cách phòng tránh những hành vi này xảy ra ở các em. Theo bác sĩ Phạm Anh Tuấn, Khoa Cấp cứu, Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương cho biết: 90% trẻ vị thành niên tự tử vì cảm thấy không được gia đình thấu hiểu.4 “Theo một số nghiên cứu gần đây, ở các nước phát triển, cứ 10 học sinh thì có một trẻ bị rối nhiễu tâm lý. Tại Việt Nam, đây là một vấn đề rất đáng quan tâm trong học đường.”5 Theo chuyên gia tư vấn thuộc Trung tâm Tư vấn học đường tại TP.HCM - Chuyên viên Nguyễn Hồng Sơn - thì: "Đối với trẻ vị thành niên, có thể bị mất thăng bằng bởi chính những điều tưởng như vặt vãnh ấy nếu không được những người xung quanh quan tâm, giúp đỡ và chia sẻ kịp thời”. Như vậy, nhu cầu cần sự giúp đỡ từ phía người lớn là vô cùng bức thiết với trẻ. Môi trường gia đình và nhà trường hai môi trường có vai trò và ý nghĩa to lớn trong việc tư vấn cho trẻ để trẻ có một đời sống tâm lý tốt. Vài năm trở lại đây các trường THPT như Nguyễn Thị Minh Khai, Khai Nguyên, Nguyễn Thượng Hiền thường xuyên tổ chức những buổi tư vấn trực tiếp tại trường. Lượng học sinh đến dự bao giờ cũng đông nghẹt. Cô Nguyễn Thị Tuyết Xuân, giáo viên kiêm công tác tư vấn học đường Trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai, tâm sự: “Học sinh cũng như người lớn, đều có rất nhiều vấn đề khúc mắc trong cuộc sống. Tuy nhiên, các em còn nhỏ, vốn sống còn ít ỏi nên đôi khi loay hoay không biết cách nào giải quyết những vấn đề đó”. Học sinh luôn lúng túng, khó khăn trong học tập; lúng túng trong công tác được giao trên lớp; thắc mắc giới tính; gặp khó khăn trong cư xử với bạn bè; cảm xúc và cách cư xử với bạn khác giới; vướng mắc trong quan hệ với cha mẹ, anh chị em; bị sức ép học tập từ 4 Theo báo Đất Việt 16/12/2008 5 Sharevn.org, 12/11/2008 13 cha mẹ; vướng mắc trong quan hệ với giáo viên. Đó là những vấn đề mà các học sinh phải đối đầu và cần phải có sự giúp đỡ của mọi người để vượt qua những khó khăn trên. Lâu nay, nhiều người vẫn nghĩ rằng, tư vấn học đường là phòng tư vấn dành cho HS. Nhưng Thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Hồng đã giúp mọi người ngộ ra: giáo viên và phụ huynh cũng có nhu cầu được tham vấn. Bởi, thực tế cho thấy những sai sót của các nhà giáo dục ở nhà trường có liên quan đến trạng thái tinh thần, tâm lý của học. Và HS thường là nạn nhân của sự bất ổn đó.6 2.2. Vai trò của tư vấn học đường (TVHĐ), nhân viên xã hội (NVXH) và tư vấn viên (TVV): 2.2.1 Vai trò của TVHĐ: Tư vấn học đường: là hoạt động tương tác giữa nhà tư vấn và thân chủ (có cả gia đình thân chủ) nhằm hỗ trợ, gúp đỡ thân chủ giải quyết những khó khăn trong nhận thức, cảm xúc và hành vi. Qua đó, phát triển nhân cách, định hướng nghề nghiệp, cách sống lành mạnh và những vấn đề khác thuộc các rối lọan cảm xúc và nhân cách.7 "Phòng TV là chỗ dựa của học sinh", là ý kiến của nhiều trường. Đến nay có trên 5.000 HS tìm đến phòng tư vấn và trên 6.000 lượt HS được TVTL.( Theo Phunhuan.net). Khi các em tìm đến phòng TVHĐ và được thầy cô tư vấn thì chính các em trở thành những người chủ động trò chuyện chia sẻ chuyện của mình với giáo viên. Như vậy các em không còn tránh né thầy cô như có thể xảy ra, chắc cũng không còn sự sợ hãi khi được gọi đến. "HS tự nguyện tìm đến TVV". Tại buổi hội thảo"Tư vấn tâm lý - giáo dục - thực tiễn và định hướng phát triển" tổ chức tại TPHCM , TS Mai Ngọc Luông đã nhấn mạnh: "Chính trong những biến đổi của cuộc sống đang thay đổi với tốc độ quá nhanh, HS cần được tư vấn về cách nhìn, thái độ tích cực đối với cuộc sống để nhạy bén, sắc sảo và năng nổ trong tư duy cũng như trong chính những hoạt động học tập rèn luyện kiến thức và kỹ năng. Nếu không, các em sẽ mất phương hướng, không đủ sức vươn lên để chọn lựa một ngành nghề phù hợp với yêu cầu 6 Vietnamnet.com.vn 7 Ngô Minh Huy, Hội thảo khoa học “Hỗ trợ tâm lý cho học sinh, sinh viên”, 18-12-2007. 14 phát triển kinh tế xã hội và với chính bản thân: sẽ không đủ sức mạnh để vượt qua chính mình và sẽ mất phương hướng trong việc chọn ngành nghề". Hàng năm công tác hướng nghiệp diễn ra rất sôi nổi ở các trường THPT trên địa bàn TP.HCM, các em HS bao giờ cũng có những thắc mắc, lo lắng mong muốn được giải đáp. Vì vậy TVHĐ không những có vai trò quan trọng trong việc định hướng nghề nghiệp cho HS mà con là nơi tạo điều kiện cho HS rèn luyện và phát triển nhân cách của bản thân trong suốt quá trình học tập tại trường. Theo Thạc sĩ cộng đồng Nguyễn Thị Oanh, các em còn nhỏ nên đôi khi thổi phồng vấn đề lên, coi những vướng mắc của mình là cực kỳ to lớn nên cảm thấy bất lực. Khi gia đình không có điều kiện gần gũi tìm hiểu và giúp đỡ, các em sẽ cảm thấy chới với, không có chỗ dựa. Khi phòng tư vấn học đường phát huy được vai trò của mình là chỗ dựa tinh thần cho các em thì chắc chắn sẽ giúp các em tìm lại được ý nghĩa trong cuộc sống, tránh được những lầm lạc không đáng có. 8 2.2.2 Vai trò của nhân viên xã hội và tư vấn viên: Vì nhu cầu TVHĐ ngày càng tăng cao trong các trường trên cả nước Bộ GD-ĐT đã có quyết định đưa vị trí chuyên viên tư vấn học đường vào biên chế chính thức. "TVV là điểm nối kết học sinh, thầy cô, phụ huynh và cộng đồng". Các trường đều nhìn nhận như vậy. Đây là một sự xích lại gần nhau tự nhiên, không cần ban bệ để giải quyết vấn đề chung. Một kết quả rõ nét là nạn lưu ban bỏ học, các tệ nạn xã hội đã giảm nhiều. Phòng TV còn kết hợp với đoàn thể thực hiện các hoạt động ngoại khóa về giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản. Ở một trường, chính hội phụ huynh trả lương cho TVV vì họ biết rất rõ lợi ích của TV. Cô Lao Thị Thu Cúc, vừa là giáo viên vừa là nhân viên tư vấn của trường THPT Mạc Đĩnh Chi dường như là một người “bạn lớn” của các học sinh trong trường suốt mấy năm gần đây. Cô luôn tỏ ra gần gũi, quan tâm đến các em học sinh và chủ động đến với các em khi cô nhận thấy các em có nhu cầu được sẻ chia những vướng mắc. Cô Cúc tâm sự “khi thấy các em vào phòng tư vấn òa khóc, ra khỏi phòng lại mỉm cười là cô thấy vui lắm.” 9. Với các em HS, TVV không những là những người có chuyên môn, kinh nghiệm mà coi là những người bạn luôn bên cạnh HS khi các em có nhu cầu sẻ chia. 8 Thanh Lê – Báo Người Lao Động, 21/12/2008 9 Báo Nhịp sống trẻ - thứ 2, 02/03/2009 15 2.3. Thực trạng về tư vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh - Ở các nước phát triển, phòng tư vấn trong trường học là một điều không thể hình dung. Nhưng ở Việt Nam, hoạt động này vẫn còn đang mới lạ và đang thầm lặng ở các cấp cơ sở. Cô Nguyễn Thị Hường, Hiệu trưởng trường Hà Huy Tập cho biết: số trường có phòng tư vấn dành cho học sinh chỉ đếm trên đầu ngón tay trong khi nhu cầu của các em thì ngày càng lớn. Theo cô Phan Thanh Minh ( làm việc tại Sở Lao động Thương binh và Xã hội TP.HCM) cho biết: “Hiện nay tại TP.HCM có 9 trường THPT có phòng tư vấn học đường”. Trong khi tại TP.HCM có đến 12.946 em học sinh (Tháng 08/2005)và đang tiếp tục tăng lên về số lượng vào các năm sau tại các trường THPT, thì số lượng phòng TVHĐ như vậy là còn quá ít ỏi chưa đáp ứng được nhu cầu của học sinh trên địa bàn thành phố. Tiến sĩ Huỳnh Công Minh, giám đốc Sở GD-ĐT TP.HCM cho biết sở đang lên kế hoạch tuyển giáo viên biên chế làm công tác tư vấn tâm lý cho HS trong trường THCS, THPT. Việc tuyển giáo viên tâm lý sẽ được thực hiện trong hè năm 2008 và đến năm học 2008-2009, tất cả các trường THCS, THPT trên địa bàn đều sẽ có Phòng tư vấn học đường10. Nhưng đến nay kế hoạch trên vẫn chưa được thực hiện. Mặc dù một số trường đã có phòng tư vấn học đường nhưng phương pháp và cách thức hoạt động của các phòng tư vấn vẫn mắc phải sai sót, không làm tròn làm đúng với vai trò của mình và đôi khi đi ngược lại sự mong đợi của học, phụ huynh và những người lập ra phòng tư vấn. 10 Theo báo Tuổi Trẻ, 26/02/2006. 16 Sau đây là mô hình truyền thống của các trường THPT đã và đang áp dụng. Học sinh có vấn đề  chia sẻ với ban cán sự lớp   Gặp cô giáo chủ nhiệm Đưa lên gặp Ban Giám hiệu  Gặp phụ huynh  Nhắc nhở, trách mắng học sinh  Học sinh chán nản  Vấn nạn học đường ( không muốn tâm sự, trầm cảm, tự tử… Đưa về gia đình Mô hình 1: Nhà trường GVCN Hội phụ huynh học sinh Không có NVXH Ban cán sự lớp  Sở dĩ mô hình này không đạt đ Đối tượng: học sinh có vấn đề.  ược hiệu quả cao vì những hạn  Hạn chế của mô hình như sau: - Khi HS gặp phải vấn đề gì không tự giải quyết được, có những chuyện các em không biết chia sẽ cùng ai từ đó mọi việc cứ dồn nén tạo ra những áp lực khiến các em không thể tập trung cho việc học; thậm chí các em còn có những hành vi nông nổi bên ngoài. Lúc đó GVCN nhận thấy được những thay đổi từ các em nhưng một phần chưa nắm rõ tâm lý lứa 17 tuổi học đường và công việc của giáo viên chủ nhiệm quá nhiều nên thường thì chỉ nhìn nhận ở một phía, sau đó đỗ lỗi cho các HS của mình mà không tìm hiểu rõ nguyên nhân bên trong, có giáo viên còn dùng các hình phạt với HS làm cho mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh ngày càng xa cách. HS không muốn chia sẻ cùng GVCN vì không có niềm tin. - Trước mặt giáo viên nhiều HS không muốn nói về chuyện của mình, các em tỏ ra ngang bướng khiến giáo viên phải dung biện pháp là đưa các em này lên gặp Ban Giám Hiệu (BGH). Sau đó BGH lại mời phụ huynh của các em lên thay vì để tìm ra nguyên nhân và cách điều chỉnh hành vi của các em, thì BGH lại liệt kê tất cả các tội mà các em đã mắc phải trong nhà trường và quy trách nhiệm cho phụ huynh. - Có nhiều phụ huynh khi biết được con cái học hành sa sút, bị sự khiển trách của nhà trường thì tỏ ra tức giận trách phạt và lại đỗ mọi lỗi là do các em gây ra. Chính vì vậy mà HS tỏ ra chán nản, mất niềm tin, trầm cảm,…  Mặc dù còn nhiều hạn chế như vậy, nhưng mô hình này vẫn được duy trì ở nhiều trường hiện nay. Bởi vì: - Vấn đề TVHĐ chưa được quan tâm đúng mức, nhiều trường vẫn chưa đủ điều kiện kinh phí và nguồn nhân lực để đáp ứng cho nhu cầu được tư vấn của HS. Chính vì vậy mà các trường áp dụng mô hình trên vì nó đơn giản và ít tốn chi phí. - Có nhiều trường quan tâm đến việc TVHĐ cho học sinh và tin tưởng, tận dụng đội ngũ giáo viên sẵn có trong trường để làm công tác tư vấn cho HS. Mặc dù đội ngũ giáo viên trong các trường chỉ có trình độ chuyên môn sư phạm chứ chưa có điều kiện để tham gia vào các lớp tập huấn về tâm lý học đường. 2.4. Nguyên nhân của sự tồn tại hiện tượng này Mặc dù Bộ GD-ĐT đã có quyết định đưa vị trí chuyên viên tư vấn học đường vào biên chế chính thức. Nhưng hiện nay ở các trường vẫn có "khoảng trống" tư vấn học đường. Nạn tự tử của học sinh THPT tại TP.HCM là kết quả của"khoảng trống" trong nhà trường: tư vấn học đường. Người ta chỉ quan tâm đến việc”dạy chữ”, luyện học sinh giỏi để lập thành tích này nọ, không ai quan tâm đến việc “dạy làm người”. Lý do là hoạt động tư vấn học đường chưa được quy định trong điều lệ trường phổ thông. Nhiều trường chưa có nguồn kinh phí để tổ chức. 18 Nhiều trường trung học ở TPHCM đã quan tâm đến công tác tư vấn tâm lý học đường. Thế nhưng các em học sinh vẫn ngần ngại trong việc chia sẻ với chuyên viên tư vấn về những vướng mắc của mình, Nên dù trường đã có phòng TVHĐ nhưng nhiều em vẫn không tìm đến khi gặp khó khăn. Nguyên nhân dẫn đến việc phòng TVHĐ chưa làm việc hiệu quả và không được phổ biến là do: Chưa có sự phối hợp giữa chuyên viên tư vấn và các giáo viên chủ nhiệm, giám thị; cán bộ Đoàn, Đội; các bậc cha mẹ… trong việc tư vấn, hướng dẫn cho HS. Thái độ của các thầy cô trong trường đối với chuyên viên còn e ngại, dè chừng khi thấy HS của mình thích tâm sự với các chuyên viên hơn...Chính các giáo viên trong trường cũng không hưởng ứng nhiều về việc mở phòng TVHĐ. 2.5. Thực trạng về tư vấn học đường tại hai trường nghiên cứu nói trên 2.5.1 Tại trường THPT Thủ Đức: Hiện trường THPT Thủ Đức vẫn chưa có phòng tư vấn học đường, nhưng thỉnh thoảng có mở những buổi tư vấn hướng nghiệp tập thể dưới sân trường. “Tư vấn học đường thì… lâu lâu trường em tổ chức một lần, mà ít lắm chị ơi!” đây là chia sẻ của một HS lớp11 trong trường. Các buổi hướng nghiệp này chỉ có thể đáp ứng một phần nhỏ những thắc mắc về lựa chọn nghề nghiệp của các em HS lớp 12 khi các em bước vào kỳ thi tuyển sinh Đại học. Trong số những học sinh được phỏng vấn thì có 4/6 học sinh (HS) gặp phải những áp lực học tập thường xuyên, đặc biệt trước những kỳ thi quan trọng. Một bạn HS nam lớp 11 gặp nhiều áp lực học tập cho biết: “Bây giờ tụi em cứ phải kiểm tra liên tục, mệt lắm!”. Còn với bạn HS nữ lớp 11 thì: “Đến kỳ thi cuối kỳ thì ngày nào em cũng thấy căng thẳng”. Ngoài những khó khăn trong học tập thì có 5/6 HS gặp phải những rắc rối trong quan hệ bạn bè, áp lực từ thầy cô, nhà trường. Khi được hỏi là “ngoài gặp áp lực trong học tập, bạn còn gặp vấn đề gì nữa không?” thì bạn HS nam lớp 10 trả lời: “Cái đó thì…với em thì… quan hệ bạn bè là nhiều.” Đặc biệt áp lực từ thầy cô cũng không nhỏ đối với các bạn HS trường THPT Thủ Đức. Bạn HS nữ lớp11 cho biết: “Mấy cô trong trường khó lắm, tụi em thấy là sợ lắm rồi.”, “tụi em sợ Ban Giám Hiệu lắm”. Theo những ý kiến trên ta thấy áp lực học tập luôn là áp lực lớn nhất và diễn ra thường xuyên với các em HS trong trường này. 19 Qua đó thấy rằng cùng một lúc nhưng HS phải chịu áp lực từ khá nhiều phía vì vậy các em cần có nơi để giải bày, chia sẽ những vấn đề mà các em đang gặp phải. Chính vì thế 6/6 HS được phỏng vấn đều trả lời là các em mong muốn có một phòng TVHĐ trong trường của mình. Học sinh trong trường không biết chia sẻ cùng ai những khó khăn mình đang gặp phải. Một HS tâm sự: “Bạn bè thì mình nói với nó cũng như không, vì nó cũng như mình. Tụi em gặp áp lực mà nói với ba, mẹ thì ba, mẹ còn chửi thêm.” Học sinh THPT Thủ Đức đang bước vào kỳ thi cuối kỳ đầy căng thẳng cùng với việc phải đối mặt với hàng loạt những tác động từ đời sống tinh cảm, khiến nhiều lúc các em cảm thấy mất thăng bằng, không biết giải quyết sao cho hợp lý mọi việc. HS rất muốn được trò chuyện, tâm sự với những người biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của các em, khi các em cảm thấy nhận được sự cảm thông từ phía gia đình, thầy cô và bạn bè. Có đến 4/6 HS có nhu cầu được tư vấn bởi nhà tâm lý (NTL) hoặc nhân viên xã hội (NVXH). - Kết quả: HS chịu áp lực từ nhà trường, gia đình, bạn bè,…Nhưng không biết chia sẻ cùng ai. Tuy có bạn bè là dễ tâm sự nhất nhưng bạn bè không có cách giải quyết hợp lý nhất, chỉ là chia sẻ vượt qua những khó khăn tạm thời. Chính vì vậy các HS rất ngại khi tiếp xúc trò chuyện và bộc bạch với mọi người vì sợ thầy, cô; sợ ba, mẹ, và không muốn làm phiền bạn các em tự giải quyết vấn đề của mình theo cảm tính, suy nghĩ của bản thân. 2.5.2 Tại trường THPT Mạc Đĩnh Chi: Trường THPT Mạc Đĩnh Chi (Q.6) mở phòng tư vấn học đường vào cuối học kỳ 1, năm học 2005-2006. Ngoài việc hướng nghiệp, phòng tư vấn kiêm luôn việc tư vấn tâm lý cho HS, phụ huynh và cả giáo viên (GV). Nhiều cựu HS vẫn tìm đến đây khi gặp “vấn đề”. Qua 2 năm hoạt động, phòng tư vấn học đường của Trường THPT Mạc Đĩnh Chi, Q.6 TPHCM, đã đón gần 200 học sinh đến tư vấn. Con số này chưa nhiều so với hơn 3.000 học sinh của trường nhưng những kết quả đạt được ở đây rất đáng khích lệ11. Đã 2 năm nay, cứ đến thứ ba, thứ năm mỗi tuần là cô Lao Thị Thu Cúc và anh Nguyễn Văn Hòa, hai chuyên viên tư vấn của Trường THPT Mạc Đĩnh Chi, lại có mặt ở phòng làm việc của mình. Phòng chỉ rộng chừng 10 m2 nhưng nhiều lúc cả hai chuyên viên tư vấn 11 Huy Lân - báo Người Lao Động, 15/01/2009 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan