Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghiên cứu so sánh về đối tượng chứng minh theo pháp luật tố tụng hình sự việt n...

Tài liệu Nghiên cứu so sánh về đối tượng chứng minh theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam và liên bang nga

.PDF
108
6
130

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ XUÂN THAO NGHIÊN CỨU SO SÁNH VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ LIÊN BANG NGA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ XUÂN THAO NGHIÊN CỨU SO SÁNH VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ LIÊN BANG NGA Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Mạnh Hùng HÀ NỘI - 2014 2 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n Vò Xu©n Thao 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH 8 TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, nội dung và phân loại đối tượng chứng minh 8 trong vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm đối tượng chứng minh 8 1.1.2. Nội dung đối tượng chứng minh 11 1.1.3. Phân loại đối tượng chứng minh 27 1.2. Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự cụ thể 31 1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đối tượng chứng minh trong vụ 35 án hình sự Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH 38 TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ LIÊN BANG NGA 2.1. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về đối 38 tượng chứng minh 2.2. Đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga 4 47 2.3. So sánh các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp 53 luật tố tụng hình sự Việt Nam và trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga 2.3.1. Sự tương đồng trong các quy định về đối tượng chứng minh 53 giữa hai Bộ luật tố tụng hình sự 2.3.2. Sự khác biệt trong các quy định về đối tượng chứng minh 56 giữa hai Bộ luật tố tụng hình sự 2.3.3. Nhận xét về các quy định về đối tượng chứng minh trong hai 58 Bộ luật tố tụng hình sự Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG 69 MINH TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TRÊN CƠ SỞ TIẾP THU KINH NGHIỆM LẬP PHÁP VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ LIÊN BANG NGA 3.1. Hoàn thiện quy định về những vấn đề phải chứng minh trong 70 vụ án hình sự tại Điều 63 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 3.2. Hoàn thiện quy định về những vấn đề phải chứng minh trong 82 vụ án hình sự do người chưa thành niên thực hiện tại Điều 302 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 3.3. Hoàn thiện quy định về những vấn đề phải chứng minh trong 87 vụ án hình sự do người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tại Điều 312 Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 KẾT LUẬN 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99 5 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CTTP : Cấu thành tội phạm 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cũng như các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự, pháp luật tố tụng hình sự là công cụ hữu hiệu của Đảng và Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật. Bởi vì, pháp luật tố tụng hình sự là hệ thống các quy phạm quy định trình tự, thủ tục, các giai đoạn tố tụng; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, của cơ quan, tổ chức và công dân… nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, đáp ứng yêu cầu "Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng" [11, tr. 131] trong giai đoạn hiện nay. Trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 1988, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp lý tố tụng hình sự nhưng không có văn bản nào trực tiếp quy định về chứng cứ và đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, để có cơ sở pháp lý để giải quyết vụ án trong thực tiễn, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an đã có những ghi nhận các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự dựa trên tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong nước và tiếp thu từ pháp luật tố tụng của các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Liên Xô. Năm 1988, BLTTHS đầu tiên của nước ta được ban hành và có hiệu lực thi hành từ 01/01/1989 (đã có những chế định cụ thể quy định về đối tượng chứng minh 7 trong vụ án hình sự), Bộ luật ra đời là kết quả tổng kết kinh nghiệm của hơn 40 năm hoạt động tư pháp hình sự, bước đầu đã thể hiện đường lối đổi mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV. Bộ luật được ban hành đã phát huy tác dụng tích cực trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng đạt được mục đích và nhiệm vụ đặt ra là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân… Để đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong từng giai đoạn nhất định, BLTTHS năm 1988 đã ba lần được sửa đổi, bổ sung (7/1990, 12/1992 và 6/2000) để đảm bảo cơ sở pháp lý cho hoạt động tố tụng hình sự. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động tư pháp hình sự cho thấy, qua các lần sửa đổi, bổ sung, BLTTHS năm 1988 vẫn còn bất cập. Vì vậy, Quốc hội khóa XI đã thông qua việc ban hành BLTTHS năm 2003 thay thế BLTTHS năm 1988. Đánh giá một cách tổng thể, BLTTHS năm 2003 đã sửa đổi, bổ sung nhiều vấn đề chưa được quy định trong BLTTHS năm 1988 nhưng nhìn chung, chế định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự giữa hai Bộ luật này không có sự khác nhau nhiều. Mặc dù đã được ghi nhận trong pháp luật thực định nhưng cho đến nay BLTTHS năm 2003 nói chung và chế định về đối tượng chứng minh nói riêng vẫn còn một số hạn chế: "Hệ thống pháp luật tố tụng hình sự, hình sự… nói chung và các quy định liên quan đến hoạt động chứng minh tội phạm còn chưa đồng bộ và hoàn thiện…" [12] vì vậy cần phải được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện. Trong thực tiễn công tác phát hiện và xử lý tội phạm, việc làm rõ đối tượng chứng minh có ý nghĩa quyết định trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan cũng như bản chất của vụ án, là căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền kết luận hành vi đã thực hiện là tội phạm hay không phải là tội phạm, nếu là tội phạm thì ai là người thực hiện tội phạm đó và trách nhiệm 8 hình sự của người này như thế nào…Trên cơ sở đó, các cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trước yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn giải quyết vụ án hình sự (đảm bảo đúng người, đúng tội; không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội) cũng như thực hiện yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì việc bổ sung, hoàn thiện chế định đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự đảm bảo sự rõ ràng, đầy đủ, có hệ thống, lôgic và khoa học là hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Trong khoa học luật tố tụng hình sự, đã có nhiều công trình nghiên cứu về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu, so sánh pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam với pháp luật tố tụng hình sự một số nước để đưa ra kiến nghị, đề xuất bổ sung về mặt lập pháp. Chính vì vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu các quy định về đối tượng chứng minh trong BLTTHS Việt Nam 2003, trên cơ sở tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm lập pháp của quốc gia có hệ thống pháp luật tương đồng, trên cơ sở đó thấy được những hạn chế của các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành, từ đó đề xuất giải pháp bổ sung, hoàn thiện các quy định về đối tượng chứng minh trong BLTTHS nước ta nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý đầy đủ cho các cơ quan tố tụng hình sự khi giải quyết vụ án hình sự, đáp ứng tốt mục đích, yêu cầu của hoạt động tố tụng hình sự... Đây là lý do chính để chúng tôi chọn đề tài "Nghiên cứu so sánh đối tượng chứng minh theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và Liên bang Nga", thông qua đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Đối tượng chứng minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc giải quyết vụ án hình sự nên ở trong và ngoài nước đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nội dung này ở những phương diện và mức độ khác nhau. 9 Tại Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự (Giáo trình Luật tố tụng hình sự của một số cơ sở đào tạo luật; Khóa luận tốt nghiệp đại học của một số sinh viên chuyên ngành tư pháp hình sự…), các công trình này chủ yếu đề cập đến quá trình chứng minh hay do yêu cầu, mục đích của việc nghiên cứu nên tác giả không tập trung chính vào đối tượng chứng minh hoặc đề cập đến đối tượng chứng minh nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ làm rõ vấn đề (khóa luận tốt nghiệp đại học) nên việc nghiên cứu vấn đề này còn có phần hạn chế. Chẳng hạn, giáo trình Luật tố tụng hình sự của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2000, chương 3 có đề cập đến khái niệm đối tượng chứng minh và phân loại đối tượng chứng minh. Trong khóa luận tốt nghiệp cử nhân của tác giả Phạm Thế Lực K41B - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, đề tài: "Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam", có đề cập đến những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự nhưng việc nghiên cứu chưa sâu sắc và toàn diện. Trong luận án tiến sĩ luật học của tác giả Đỗ Văn Dương, bảo vệ năm 2000, đề tài "Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay" có đề cập đến đối tượng chứng minh nhưng đây không phải là đối tượng nghiên cứu chính của luận án, nên tác giả mới chỉ giải quyết vấn đề một cách chung, khái quát. Trong số các đề tài nghiên cứu về đối tượng chứng minh, có luận văn thạc sĩ của tác giả Tô Hữu Thông, bảo vệ năm 2004, đề tài "Đối tượng chứng minh trong tố tụng hình sự". Luận văn đã phân tích khá sâu sắc một số hạn chế của các quy định của đối tượng chứng minh trong BLTTHS năm 2003 và đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định của BLTTHS Việt Nam về đối tượng chứng minh trên cơ sở tham khảo pháp luật tố tụng hình sự một số nước về đối tượng chứng minh như: Nga, Pháp, Trung Quốc… nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự ở Việt Nam liên quan đến đối tượng chứng minh. Tuy nhiên, qua việc nghiên cứu luận văn, chúng tôi thấy, luận văn mới chỉ đề cập đến một số vấn đề liên quan đến các quy định về đối tượng chứng minh tại Điều 63 BLTTHS mà 10 chưa đề cập đến các quy định về vấn đề chứng minh trong vụ án hình sự do người chưa thành niên hoặc người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tại Điều 302 và Điều 312 BLTTHS năm 2003. Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu độc lập, mang tính chuyên biệt so sánh về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam với pháp luật tố tụng hình sự nước ngoài để qua đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về đối tượng chứng minh. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu trên khía cạnh lập pháp các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành trên cơ sở nghiên cứu, so sánh với các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga, từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Nghiên cứu các chế định về đối tượng chứng minh được quy định trong BLTTHS Việt Nam 2003, đồng thời nghiên cứu, so sánh với chế định này trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga để thấy được sự khác biệt giữa hai chế định của hai hệ thống pháp luật này. - Từ kết quả nghiên cứu về đối tượng chứng minh được quy định trong hai hệ thống pháp luật, luận văn cần làm sáng tỏ một số vấn đề như: Quy định của pháp luật tố tụng hiện hành về đối tượng chứng minh đã đầy đủ, hoàn thiện chưa; phân tích các nội dung chưa đầy đủ hoặc chưa được quy định. 11 - Đề xuất giải pháp hoàn thiện những nội dung cần bổ sung để tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về đối tượng chứng minh, góp phần tích cực và hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm của Đảng và Nhà nước như đã trình bày ở trên. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết nội dụng của đối tượng chứng minh được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành cũng như tổng hợp các kết quả nghiên cứu của các tác giả về lĩnh vực này, đồng thời kết hợp việc nghiên cứu, so sánh với các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga để thấy được sự cần thiết phải bổ sung những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự vào pháp luật tố tụng hình sự nước nhà. Luận văn có tham khảo một số công trình nghiên cứu về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự của các tác giả đã được công bố. 4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả có sử dụng một số phương pháp đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp quy nạp; phương pháp diễn dịch và một số phương pháp khác. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn - Đánh giá kết quả nghiên cứu của một số công trình nghiên cứu đã được công bố để đảm bảo tính chính xác, khoa học của vấn đề cần nghiên cứu. 12 - Nghiên cứu về đối tượng chứng minh quy định trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở so sánh, đối chiếu với quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt trong các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự của mỗi nước. - Luận giải và đưa ra được những đề xuất sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện chế định đối tượng chứng minh của BLTTHS Việt Nam hiện hành. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga. Chương 3: Hoàn thiện các quy định về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm lập pháp về đối tượng chứng minh trong pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga. 13 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ PHÂN LOẠI ĐỐI TƢỢNG CHỨNG MINH TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm đối tƣợng chứng minh Theo triết học Mác - Lênin thì nhận thức là sự phản ánh biện chứng tích cực, sự phản ánh đó là một quá trình vận động và phát triển không ngừng từ không biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến bản chất, từ thấp đến cao, từ nông đến sâu để nắm được bản chất quy luật của sự vật, hiện tượng, bởi vì "hết thảy mọi vật chất đều có một đặc tính về bản chất gần giống nhau như cảm giác, đặc tính phản ảnh" [22, tr. 104] và "…ý thức bao giờ cũng là và chỉ là sự phản ánh tồn tại" [21]. Theo nguyên lý trên của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì mọi hoạt động của con người nói chung và hoạt động tội phạm nói riêng bao giờ cũng để lại dấu vết trong thế giới khách quan, thể hiện dưới dạng vật chất hoặc được phản ánh, lưu lại trong bộ não con người và con người hoàn toàn có thể nhận thức được về nó vì "thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian" [21, tr. 209-210]. Như vậy, theo lý luận triết học Mác - Lênin về nhận thức, con người hoàn toàn có thể nhận thức được thế giới xung quanh, tuy nhiên mức độ nhận thức phụ thuộc vào khả năng nhận thức của từng con người cụ thể, điều kiện của sự nhận thức, mục đích yêu cầu của sự nhận thức…Hoạt động nhận thức của con người diễn ra trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Đối với vụ án hình sự thì đó là hoạt động nhận thức chân lý mang tính gián tiếp, được thể hiện ở chỗ, khi có sự việc phạm tội có nghĩa là sự việc phạm tội đã xảy ra, các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua những dấu vết mà người 14 thực hiện hành vi phạm tội để lại, thể hiện dưới dạng vật chất hoặc được phản ánh trong trí nhớ của con người để khôi phục lại sự thật khách quan, tìm ra chân lý, làm sáng tỏ bản chất của vụ án, trên cơ sở đó giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, đúng quy định của pháp luật. Để đạt được mục đích của sự nhận thức trong quá trình giải quyết vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cần phải tuân thủ những quy luật chung của quá trình nhận thức hiện thực khách quan, đó là quá trình "từ trực quan sinh động đến tư duy trìu tượng, và từ tư duy trìu tượng đến thực tiễn" [22, tr. 179] để nhận thức sự việc phạm tội, người thực hiện tội phạm và những tình tiết khác có liên quan đến vụ án một cách khách quan, có căn cứ và đúng quy định của pháp luật, làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội. Đó cũng chính là quá trình nhận thức và xác định về đối tượng chứng minh. Vậy, đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là gì? Trong một số giáo trình cũng như một số công trình nghiên cứu đã được công bố, có một số quan điểm về đối tượng chứng minh như sau: - Quan điểm thứ nhất: "Đối tượng chứng minh là tổng hợp những vấn đề cần phải được xác định làm rõ để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự" [35, tr. 87]. - Quan điểm thứ hai: "Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tổng hợp tất cả các tình tiết thực tế phản ánh bản chất của sự việc liên quan đến tội phạm và người phạm tội, những tình tiết khác giúp cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự" [19]. Phân tích các quan điểm trên cho thấy, các quan điểm trên đều xác định đối tượng chứng minh là "tổng hợp" những vấn đề hay những tình tiết cần phải xác định để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Tuy nhiên, quan điểm thứ nhất về đối tượng chứng minh chưa bao hàm hết nội dung của đối tượng chứng minh. Cụ thể là khái niệm chưa bao hàm những vấn đề có liên quan đến vụ án cũng như đặt ra các biện pháp phòng ngừa là đối tượng chứng 15 minh. Ở quan điểm thứ hai, nội dung khái niệm mới chỉ mang tính liệt kê những tình tiết thuộc đối tượng chứng minh mà chưa thể hiện được bản chất của đối tượng chứng minh trong khái niệm, chưa nhắc đến các biện pháp phòng ngừa là một trong những vấn đề cần phải chứng minh khi giải quyết vụ án hình sự. - Quan điểm thứ ba cho rằng: Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản chất của vụ án, trên cơ sở đó các cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự [20]. Theo chúng tôi, quan điểm thứ ba đã thể hiện được bản chất của đối tượng chứng minh - là tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản chất của vụ án nhưng xét về nội hàm của khái niệm thì chưa được thật đầy đủ bởi vì nội dung khái niệm chưa bao quát các biện pháp phòng ngừa là một trong những vấn đề cần phải chứng minh khi giải quyết vụ án. - Quan điểm thứ tư cho rằng: Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản chất của vụ án, trên cơ sở đó các cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và đề ra các biện pháp phòng ngừa [32]. Trong các quan điểm về đối tượng chứng minh, chúng tôi thấy quan điểm thứ tư tương đối hoàn chỉnh, thể hiện đầy đủ bản chất của đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự, coi các biện pháp phòng ngừa là một trong những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Như chúng ta đã biết, tội phạm là một hiện tượng xã hội, gắn với xã hội có giai cấp nên tội phạm có sự vận động, biến đổi theo quy luật vận động của xã hội. Vì vậy, cùng với việc chứng minh tất cả những tình tiết làm sáng tỏ bản chất của vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải nghiên cứu, xác định các biện pháp phòng ngừa tội phạm cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển 16 của xã hội, đảm bảo yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm. Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu các quan điểm về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự, chúng tôi đưa ra quan điểm của mình về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự như sau: Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tất cả những vấn đề chưa biết nhưng cần phải biết để làm sáng tỏ bản chất của vụ án, trên cơ sở đó các cơ quan tiến hành tố tụng ra các quyết định phù hợp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đồng thời xác định các biện pháp phòng ngừa tội phạm cho phù hợp với sự phát triển của xã hội trong từng giai đoạn cụ thể. 1.1.2. Nội dung đối tƣợng chứng minh Hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế rất đa dạng. Do tính chất, mức độ và hoàn cảnh của các tội phạm không giống nhau nên phạm vi và yêu cầu xác định đối tượng chứng minh ở mỗi vụ án là khác nhau. Tuy vậy, mọi tội phạm đều có những đặc điểm, quy luật chung giống nhau mà quá trình giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng đều phải chứng minh [6]. Vì vậy, nhà làm luật đã xây dựng "khuôn mẫu chung" những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự để cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào đó xác định đối tượng chứng minh cụ thể cho từng vụ án. Theo BLTTHS năm 2003, đối tượng chứng minh được quy định tại Điều 63 của Bộ luật, theo đó đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự gồm những vấn đề sau: - Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội, - Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý, có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội, - Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm nhân thân của bị can, bị cáo, - Tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra [29]. 17 Đối với vụ án do người chưa thành niên thực hiện thì ngoài những vấn đề cần phải chứng minh được quy định tại Điều 63 BLTTHS, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh những vấn đề được quy định tại Điều 302 BLTTHS, cụ thể là: "Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên; Điều kiện sinh sống và giáo dục; Có hay không có người thành niên xúi giục; Nguyên nhân và điều kiện phạm tội" [29]. Trong vụ án hình sự nếu có căn cứ cho rằng người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự do mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, tức là họ không có năng lực chủ thể để tham gia tố tụng khi giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra phải làm sáng tỏ các vấn đề được quy định tại Điều 312 BLTTHS, bao gồm: "Hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra; Tình trạng tâm thần và bệnh tâm thần của người có hành vi nguy hiểm cho xã hội; Người có hành vi nguy hiểm cho xã hội có mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình hay không" [29]. Để đảm bảo mục đích, yêu cầu khi giải quyết vụ án hình sự là phát hiện nhanh chóng, kịp thời, xử lý công minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, khắc phục hậu quả tội phạm gây ra đồng thời đưa ra những biện pháp đấu tranh, phòng ngừa tội phạm hiệu quả trên cơ sở tuân thủ triệt để luật hình sự và luật tố tụng hình sự đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cần phải làm rõ tất cả những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Vì vậy, đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự không chỉ hạn hẹp bởi những vấn đề liên quan đến bản chất vụ án, liên quan đến trách nhiệm hình sự và hình phạt mà còn bao gồm cả những vấn đề khác có liên quan và có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Để có nhận thức một cách toàn diện và đầy đủ về đối tượng chứng minh thì ngoài việc nghiên cứu các điều luật trong BLTTHS quy định trực tiếp đối tượng chứng minh (Điều 63, Điều 302 và Điều 312 BLTTHS), 18 chúng ta cần phải nghiên cứu một số điều luật khác có liên quan, gián tiếp quy định vấn đề này trong mối quan hệ tổng thể của pháp luật tố tụng hình sự, qua đó mới có thể thấy được tất cả những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Qua việc tiếp cận, nghiên cứu BLTTHS năm 2003 về đối tượng chứng minh, chúng ta thấy ngoài các điều 63, 302 và Điều 312 BLTTHS trực tiếp quy định về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự thì còn một số điều luật khác của Bộ luật gián tiếp quy định vấn đề này mà trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng không thể bỏ qua hoặc phải thực hiện theo đúng yêu cầu nội dung điều luật đã quy định nó, có thể kể đến một số điều luật như: Điều 10, Điều 27, Điều 28, Điều 64, Điều 66, Điều 67, Điều 107, Điều 126, Điều 224 BLTTHS… Nội dung của đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự được xây dựng trên cơ sở mục đích của của tố tụng hình sự, các khái niệm, các quy định của luật hình sự, luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) và BLTTHS hiện hành, chúng ta thấy không phải tất cả các quy định của hai bộ luật này đều trực tiếp hoặc gián tiếp quy định về đối tượng chứng minh, điều này cũng có nghĩa là để xác định đầy đủ nội dung của đối tượng chứng minh cần phải căn cứ vào những quy định có liên quan, đó là các quy định: Khái niệm tội phạm, cơ sở của trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, các giai đoạn thực hiện tội phạm, thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự, án tích… Chẳng hạn, muốn xác định một hành vi phạm tội có phải là tái phạm hay không thì ngoài việc căn cứ vào khái niệm tội phạm, cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải căn cứ vào các nội dung khác có liên quan như: Tái phạm là gì? Người này đã bị kết án hay chưa? Vấn đề xóa án tích của người này ra sao?... Ngoài việc căn cứ vào các quy định trên, xuất phải từ mục đích và yêu cầu của hoạt động tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải căn cứ vào một số quy định khác của BLTTHS như: để đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hình sự được khách quan, đúng người đúng 19 tội, đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự…) cơ quan tiến hành tố tụng cần phải chứng minh mối quan hệ giữa người tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng, giữa người làm chứng với các chủ thể tham gia tố tụng khác. Một nội dung nữa chúng tôi muốn nêu ra trong phạm vi luận văn này, đó là xuất phát từ mục đích, yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm bảo đảm đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu "Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển tội phạm để từng bước kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là tội phạm mới, tội phạm nghiêm trọng" [7] thì pháp luật tố tụng hình sự về đối tượng chứng minh cần phải quy định nguyên nhân và điều kiện phạm tội là một trong những tình tiết phải chứng minh trong mọi vụ án hình sự. Có như vậy mới thực hiện tốt yêu cầu phòng ngừa tội phạm theo quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước… Để giải quyết thỏa đáng hơn các nội dung nêu ra ở trên, chúng ta cần làm rõ từng nội dung của đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự: - Yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất khi giải quyết vụ án hình sự là các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh những vấn đề thuộc về bản chất vụ án, cụ thể là xác định xem có tội phạm xảy ra hay không, nếu có thì thỏa mãn cấu thành tội phạm nào được quy định trong BLHS hiện hành. Nói cách khác, cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định được tội phạm xảy ra là tội phạm gì, được quy định tại chương nào, điều nào, khoản nào trong BLHS, sau đó mới xem xét, chứng minh các vấn đề khác. Để giải quyết được nội dung này, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải thu thập chứng cứ bằng các biện pháp điều tra ban đầu (thường được cơ quan điều tra thực hiện trước khi khởi tố vụ án), trên cơ sở các chứng cứ thu thập được, đối chiếu với khái niệm tội phạm, các khái niệm có liên quan và điều luật cụ thể được quy định trong phần riêng BLHS nhằm xác định hành vi đã thực hiện có phải là hành vi phạm tội hay 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan