Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật doanh nghiệp...

Tài liệu Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật doanh nghiệp

.PDF
141
1
91

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN CÔNG DUY THÔNG NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ CÔNG TY THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ CÔNG TY THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP Chuyên ngành: Luật Kinh tế Định hướng nghiên cứu Mã CN: 8380107 Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS. Bùi Xuân Hải Học viên : Nguyễn Công Duy Thông Lớp : Cao học Luật Kinh tế, Khóa 29 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi tên Nguyễn Công Duy Thông – mã số học viên: 18290710043, là học viên Lớp Cao học Luật Khóa 29, chuyên ngành Luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi là tác giả của Luận văn thạc sĩ Luật học với đề tài “Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật doanh nghiệp” (sau đây gọi tắt là “Luận văn”). Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết quả nghiên cứu độc lập của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến và quan điểm khoa học của một số tác giả, chuyên gia. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác theo quy định. Các dữ liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực. LỜI CẢM ƠN Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn người hướng dẫn khoa học cho Luận văn của tôi - PGS. TS Bùi Xuân Hải. Xin cảm ơn vì cánh cửa đến văn phòng của Phó Giáo sư luôn rộng mở mỗi khi tôi gặp phải rắc rối hoặc có thắc mắc về vấn đề nghiên cứu của mình. Thầy vẫn luôn cho phép tôi tự do bày tỏ quan điểm, đồng thời sẵn sàng đưa ra những nhận xét, góp ý, dẫn dắt tôi đi đúng hướng trong suốt thời gian nghiên cứu, thực hiện đề tài Luận văn này. Tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô của Khoa Thương mại – Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã tâm huyết truyền đạt cho tôi những kiến thức chuyên sâu về chuyên ngành trong suốt thời gian học tập để tôi có được nền tảng kiến thức hỗ trợ rất lớn cho tôi trong quá trình thực hiện Luận văn thạc sĩ. Tôi cũng xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến một số chuyên gia, Luật sư, Thẩm phán, đồng nghiệp, là những người đã đóng góp bình luận, quan điểm pháp lý và kinh nghiệm thực tiễn có giá trị để tôi tham khảo trong quá trình thực hiện Luận văn này. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè vì đã luôn hỗ trợ và khuyến khích tôi trong suốt những năm học tập và quá trình nghiên cứu Luận văn này. Thành tựu này sẽ không thể có được nếu không có họ. Xin chân thành cảm ơn! MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN LỜI CẢM ƠN MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ CÔNG TY .......................................................................................... 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại người quản lý công ty .................................... 6 1.1.1. Khái niệm người quản lý công ty .............................................................................. 6 1.1.2. Đặc điểm của người quản lý công ty ....................................................................... 13 1.1.3. Phân loại người quản lý công ty .............................................................................. 16 1.2. Khái niệm và đặc điểm trách nhiệm của người quản lý công ty ....................... 20 1.2.1. Khái niệm “trách nhiệm” và “nghĩa vụ” trong khoa học pháp lý và theo pháp luật Việt Nam hiện hành ..................................................................................................... 20 1.2.2. Khái niệm “trách nhiệm” và “nghĩa vụ” của người quản lý công ty ....................... 24 1.2.3. Đặc điểm .................................................................................................................. 30 1.3. Cơ sở lý luận về việc quy định trách nhiệm của người quản lý công ty ........... 31 1.3.1. Mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người quản lý của công ty ................................... 32 1.3.2. Sự phân hóa giữa quyền quản lý và quyền sở hữu công ty ..................................... 33 1.4. Mục đích, ý nghĩa về quy định trách nhiệm của người quản lý công ty .......... 34 1.4.1. Đối với công ty và chủ sở hữu (cổ đông hoặc thành viên công ty) ......................... 35 1.4.2. Đối với người lao động............................................................................................ 36 1.4.3. Đối với chủ nợ và bên thứ ba .................................................................................. 37 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.................................................................................................. 38 CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ CÔNG TY, THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN .. 39 2.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm của người quản lý công ty ..................... 39 2.1.1. Trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ một cách trung thực, cẩn trọng và tốt nhất nhằm đảm bảo tối đa lợi ích hợp pháp của công ty và chủ sỡ hữu công ty ................ 41 2.1.2. Trách nhiệm trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh, tài sản khác của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác ....................................... 53 2.1.3. Trách nhiệm thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho doanh nghiệp về doanh nghiệp mà người quản lý, người có liên quan của người quản lý làm chủ hoặc có cổ phần, phần vốn góp theo quy định của Luật Doanh nghiệp................................................ 63 2.1.4. Trách nhiệm thực hiện quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty ..................................................................................................................... 67 2.2. lý Khởi kiện người quản lý công ty khi vi phạm trách nghiệm của người quản ................................................................................................................................. 69 2.3. Đề xuất hướng hoàn thiện các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của người quản lý công ty................................................................................................................... 72 2.3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của người quản lý công ty .................................................................................................................... 72 2.3.2. Các đề xuất cụ thể để hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về trách nhiệm của người quản lý công ty ........................................................................................ 73 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.................................................................................................. 80 KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luật Doanh nghiệp 2020 được Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 17 tháng 06 năm 2020 và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2021, trong đó đã có những bước cải cách nhất định so với Luật Doanh nghiệp 2014 liên quan đến nghĩa vụ của người quản lý công ty. Chế định này có được nhiều sự quan tâm hơn, được dành nhiều dung lượng trong khuôn khổ một đạo luật chung về doanh nghiệp. Tuy nhiên, có thể thấy ở đó vẫn tồn tại một số bất cập và chưa thể đi vào đời sống một cách dễ dàng, bởi lẽ thiếu một nền tảng nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu và riêng biệt về chế định đặc thù này. Các vấn đề lý luận và thực tiễn về nghĩa vụ của người quản lý công ty mới chỉ được giới thiệu chung chung hoặc mang tính khái quát trong các giáo trình giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật, cũng như trong một số công trình nghiên cứu về quản trị doanh nghiệp. Các cơ chế, biện pháp để đảm bảo thực thi nghĩa vụ của người quản lý công ty cũng chưa được nhắc đến cụ thể trong các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đó. Trong khi đó, với việc người quản lý công ty là chủ thể có nhiều quyền lực trong nội bộ công ty, cùng sự phát triển của khoa học – kỹ thuật của thời đại công nghệ 4.0 hiện nay, hiện tượng làm ăn bất chính và vấn đề vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ, không đảm bảo trách nhiệm của người quản lý công ty đang diễn ra ngày một phức tạp, tinh vi hơn và gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường kinh doanh lành mạnh. Bởi những lý do kể trên, tác giả lựa chọn đề tài “Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật doanh nghiệp” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Chế định nghĩa vụ của người quản lý công ty là một chế định truyền thống của luật công ty và được áp dụng rất nhiều trong thực tiễn tranh chấp nội bộ công ty. Do đó, đây là đề tài nghiên cứu khá phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Ở Việt Nam, cũng có một số công trình nghiên cứu liên quan đến nghĩa vụ của người quản lý công ty, có thể kể đến như: “Luật Doanh nghiệp – Bảo vệ cổ đông – Pháp luật và thực tiễn” của PGS. TS Bùi Xuân Hải xuất bản tại Nxb, Chính trị quốc gia – Sự thật năm 2011; “Người quản lý công ty theo luật doanh nghiệp 1999 – Nhìn từ góc độ luật so sánh”, ThS. Bùi Xuân Hải (2005), Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4/2005; - Các bài viết, bài nghiên cứu của một số tác giả như PGS. TS Bùi Xuân 2 Hải là “Người quản lý công ty theo Luật Doanh nghiệp 1999 – Nhìn từ góc độ Luật so sánh” đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý tháng 4 năm 2005, “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề trong pháp luật công ty Việt Nam” đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý năm 2007, “Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: Lý thuyết và thực tiễn trong pháp luật công ty Việt nam” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 7 (79) năm 2007; hoặc của Lê Đức Nghĩa là “Trách nhiệm người quản lý công ty theo luật công ty Việt Nam” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; và Một số luận văn cao học như “Người quản lý công ty – Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong pháp luật Việt Nam” của Huỳnh Đỗ Phương Anh; “Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo Luật Doanh nghiệp 2005” của Nguyễn Thị Thái Vân; “Kiểm soát giao dịch tư lợi của người quản lý công ty theo Luật Doanh nghiệp 2005” của Lý Đăng Thư; “Trách nhiệm pháp lý của người quản lý công ty theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam” của Nguyễn Thị Thanh Huyền; “Kiểm soát giao dịch tư lợi của người quản lý công ty trong công ty cổ phần đại chúng” của Nguyễn Thị Lan Anh; “Nghĩa vụ của người quản lý công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam” của Trần Thị Kiều Oanh; “Nghĩa vụ của người quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên” của Phan Thị Thu Nhài; “Trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp – Kinh nghiệm ở một số quốc gia và đề xuất hoàn thiện cho Việt Nam” của Nguyễn Thị Diễm Phượng. Các công trình nói trên đã có những đóng góp rất tích cực cho khoa học pháp lý và là nền tảng để các nhà lập pháp nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý công ty tại Việt Nam. Tuy vậy, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này ở Việt Nam chưa thực sự mang tính hệ thống, đồng bộ, toàn diện và chưa được cập nhật đầy đủ theo tốc độ phát triển của pháp luật doanh nghiệp Việt Nam (hiện nay là Luật Doanh nghiệp 2020). Một số công trình có mục tiêu nghiên cứu quá chuyên sâu và riêng biệt, một số khác thì chỉ đề cập sơ lược đến chế định người quản lý công ty nói chung (mang tính nguyên tắc) hay về vấn đề quản lý nội bộ trong công ty mà không hướng đến việc nghiên cứu cụ thể về nghĩa vụ của người quản lý công ty. Ngoài ra, các bài viết trong các tạp chí khoa học pháp lý thường chỉ nêu ngắn gọn các vấn đề pháp lý, các bất cập hoặc hạn chế nhưng chưa đưa ra các giải pháp khả thi để cải cách, hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý công ty. Cũng phải nói thêm rằng, các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý về người quản lý công ty chỉ tập trung nghiên cứu nội dung các quy định về nghĩa vụ nhưng chưa đào sâu vào cơ chế đảm bảo thực thi pháp luật trong thực tiễn (chẳng hạn như các loại chế tài dân sự, hành chính, hình sự, và việc khởi kiện của công ty hay quyền khởi kiện phái sinh của cổ đông, nhóm cổ đông, thành viên công ty đối với người quản lý công ty). Chính vì vậy, đề tài “Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật doanh nghiệp” là một lĩnh vực cần có sự đào sâu nghiên cứu ở thời điểm hiện nay, đặc 3 biệt là cơ chế đảm bảo thực thi các quy định về kiểm soát nghĩa vụ của người quản lý công ty và các cách thức bảo vệ các chủ sở hữu công ty. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài Luận văn này nhằm làm sáng tỏ một cách toàn diện và có hệ thống những vấn đề về lý luận; đồng thời đánh giá, phân tích thực trạng quy định của pháp luật doanh nghiệp hiện hành tại Việt Nam và bài học kinh nghiệm của một số quốc gia có nền lập pháp phát triển về nghĩa vụ của người quản lý công ty; từ đó đề xuất các định hướng, giải pháp để khắc phục bất cập và hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp Việt Nam về nghĩa vụ của người quản lý công ty. Ngoài ra, liên quan đến cơ chế đảm bảo thi hành nghĩa vụ của người quản lý công ty, Luận văn cũng sẽ hướng đến việc phân tích các chế tài pháp lý và trách nhiệm pháp lý mà người quản lý công ty có thể phải gánh chịu khi vi phạm nghĩa vụ của mình trong quá trình điều hành, quản lý công ty. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung phân tích các quy định pháp luật doanh nghiệp của Việt Nam hiện hành và kinh nghiệm lập pháp của một số gia phát triển trên thế giới về người quản lý công ty và nghĩa vụ của người quản lý công ty. Dù vậy, Luận văn sẽ không chú trọng phân tích sự khác biệt về trách nhiệm, nghĩa vụ của người quản lý công ty trong các loại hình công ty, doanh nghiệp với nhau, cũng như không tập trung vào mối tương quan giữa những chức danh quản lý trong cùng một công ty. Thay vào đó, Luận văn chú trọng phân tích, đánh giá bản chất của người quản lý công ty và nghĩa vụ, trách nhiệm mà họ phải đảm bảo thực hiện trong quá trình điều hành, quản lý công ty để chỉ ra được các bất cập trong pháp luật hiện hành của Việt Nam và nêu định hướng, giải pháp hoàn thiện. Ngoài ra, đề tài Luận văn này giới hạn phạm vi nghiên cứu về nghĩa vụ, trách nhiệm của người quản lý công ty trong khuôn khổ các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp. Do đó, tác giả sẽ không phân tích sâu vào các loại hình doanh nghiệp khác như: doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, nhóm công ty và các tổ chức kinh doanh khác. Các vấn đề khác liên quan đến tiêu chuẩn, điều kiện để xác lập tư cách người quản lý công ty, cơ chế bổ nhiệm, bãi nhiệm, miễn nhiệm và cách chức đối với các chức danh quản lý trong công ty cũng không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này. 5. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn chủ yếu là các quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2020, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017), một số luật chuyên ngành khác và các văn bản dưới 4 luật có liên quan. Luận văn còn nghiên cứu về Điều lệ công ty và các quy chế nội bộ của một số công ty điển hình liên quan đến nghĩa vụ, trách nhiệm của người quản lý công ty. Bên cạnh đó, Luận văn cũng kết hợp nghiên cứu thực tiễn thực thi các quy định về nghĩa vụ của người quản lý công ty thông qua các vụ việc, tranh chấp thực tế tại Việt Nam. Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp từ các quốc gia có truyền thống pháp luật lâu đời, Luận văn cũng đề cập đến các quy định có liên quan trong phạm vi tương tự của các hệ thống pháp luật phát triển như Anh, Mỹ, Úc, Singapore … và các luật mẫu, quy chế, nguyên tắc được đưa ra bởi một số tổ chức quốc tế như Hiệp hội Luật sư Quốc tế (MBCA), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC). 6. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin như duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp với đường lối của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội, Luận văn chú trọng sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học như sau: Đối với Chương 1: nghiên cứu tài liệu chuyên khảo, phân tích, đánh giá, so sánh, đối chiếu với kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia khác, tìm kiếm các tình huống thực tiễn làm luận cứ, sau đó tổng hợp, hệ thống hóa và đưa ra luận điểm đối với những vấn đề lý luận về người quản lý và nghĩa vụ của người quản lý công ty. Đối với Chương 2: nghiên cứu tài liệu chuyên khảo, phân tích, đánh giá, so sánh, đối chiếu với kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia khác, tìm kiếm các tình huống thực tiễn làm luận cứ, phỏng vấn và tham khảo ý kiến của chuyên gia, sau đó tổng hợp, hệ thống hóa và đưa ra luận điểm đối với thực trạng pháp luật doanh nghiệp về nghĩa vụ của người quản lý công ty và kiến nghị giải pháp khắc phục bất cập, hoàn thiện pháp luật. 7. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Với đề tài nghiên cứu này, tác giả kỳ vọng kết quả nghiên cứu sẽ giúp các nhà lập pháp hoàn thiện các đạo luật về doanh nghiệp và pháp luật có liên quan nhằm xây dựng và củng cố chế định nghĩa vụ của người quản lý công ty, đồng thời đảm bảo việc thực thi trên thực tế thông qua cơ chế khởi kiện của công ty hay cơ chế khởi kiện phái sinh của các thành viên, cổ đông và các chủ thể có liên quan khác, từ đó góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người quản lý công ty và thành viên, cổ đông, nhà đầu tư trong các công ty. 8. Bố cục của luận văn Bên cạnh phần lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung 5 nghiên cứu chủ yếu của Luận văn gồm có 02 chuơng như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm của người quản lý công ty. Chương 2: Quy định pháp luật về trách nhiệm của người quản lý công ty, thực tiễn áp dụng và kiến nghị hoàn thiện 6 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ CÔNG TY 1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại người quản lý công ty 1.1.1. Khái niệm người quản lý công ty Theo khoản 24 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020, người quản lý doanh nghiệp được định nghĩa như sau: “Người quản lý doanh nghiệp là người quản lý doanh nghiệp tư nhân và người quản lý công ty, bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác theo quy định tại Điều lệ công ty.”. Với cách định nghĩa này, người quản lý doanh nghiệp được xếp vào hai nhóm chính là (1) người quản lý doanh nghiệp tư nhân và (2) người quản lý công ty. Người quản lý công ty bao gồm các chức danh tương ứng của mỗi loại hình công ty như sau: Đối với công ty TNHH (cả loại hình công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên trở lên): Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác theo Điều lệ công ty; Đối với công ty cổ phần là: Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác theo Điều lệ công ty; Đối với công ty hợp danh là: thành viên hợp danh, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác theo Điều lệ công ty. Cũng giống các Luật Doanh nghiệp 2005 và 2014, với cách định nghĩa trên, Luật Doanh nghiệp 2020 tiếp tục duy trì khái niệm về người quản lý doanh nghiệp căn cứ theo loại hình doanh nghiệp được thành lập và từng chức danh quản lý cụ thể của doanh nghiệp đó. Luật Doanh nghiệp 2020 cũng đã có sự điều chỉnh và có những quy định tiến bộ hơn để khắc phục bất cập trong thời kỳ trước. Theo đó, tác giả có một số đánh giá như sau: Thứ nhất, tiếp tục kế thừa Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Doanh nghiệp 2020 không còn định nghĩa chủ sở hữu của công ty TNHH và công ty cổ phần là người quản lý doanh nghiệp như quy định trước đây của Luật Doanh nghiệp 2005, mà quy định này chỉ được áp dụng đối với chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân. Điều này cho thấy Luật Doanh nghiệp 2014 và 2020 đều đã có sự tiến bộ hơn trong việc tiếp thu học thuyết về đại diện (agency theory) trong quản trị công ty từ các nước theo hệ thống thông luật (common law system) có pháp luật công ty phát triển như Anh, Úc, Singapore, … Theo đó, quyền sở hữu và quyền quản lý công ty đã được phân biệt một cách rạch ròi, không 7 còn bị nhập nhằng với nhau như thời kỳ trước đây. Thứ hai, đối với loại hình công ty hợp danh, Luật Doanh nghiệp 2020 cũng quy định thành viên hợp danh là người quản lý công ty như Luật Doanh nghiệp 2005 và 2014. Cần lưu ý rằng, pháp luật chỉ thừa nhận thành viên hợp danh trong công ty hợp danh mới là người quản lý, còn thành viên góp vốn thì không. Tuy nhiên, sau phần liệt kê “thành viên hợp danh” trong định nghĩa người quản lý doanh nghiệp, cả Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Doanh nghiệp 2020 đều đã bỏ đi cụm từ “… công ty hợp danh” của Luật Doanh nghiệp 2005 và sau đó đề cập đến cụm từ “… thành viên Hội đồng thành viên” theo nghĩa chung. Điều này có khả năng dẫn đến sự nhầm lẫn cho người áp dụng pháp luật khi hiểu rằng, thành viên góp vốn cũng là một loại thành viên của Hội đồng thành viên trong công ty hợp danh như các quy định tại điểm b và c khoản 1 Điều 177, khoản 1 Điều 182 Luật Doanh nghiệp 2020. Theo đó, thành viên góp vốn cũng có thể bị hiểu lầm là người quản lý công ty theo định nghĩa tại khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 và khoản 24 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020. Trong khi đó, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 187 Luật Doanh nghiệp 2020, thành viên góp vốn hoàn toàn không có quyền tham gia quản lý công ty và cũng không được tiến thành hoạt động kinh doanh nhân danh công ty (chỉ có thể nhân danh cá nhân mình hoặc nhân danh người khác tiến hành kinh doanh ngành, nghề kinh doanh của công ty). Như vậy, có thể thấy rằng cách sử dụng từ ngữ trong việc định nghĩa về người quản lý trong công ty hợp danh của Luật Doanh nghiệp 2020, nhất là đối với thành viên góp vốn, có bất cập và sự điều chỉnh là cần thiết để đảm bảo quy định pháp luật được hiểu rõ ràng, thống nhất một nghĩa và trách nhiệm của người quản lý được áp dụng đúng chủ thể. Thứ ba, khi so sánh với Luật Doanh nghiệp 2014, cách định nghĩa về người quản lý doanh nghiệp của Luật Doanh nghiệp 2020 gần như tương tự. Tuy vậy, Luật Doanh nghiệp 2020 cũng hướng đến việc đưa ra quy định mở để các công ty tùy theo tính chất đặc thù trong trong hoạt động kinh doanh và quản trị nội bộ của mình mà có thể tự quyết định thêm các chức danh quản lý khác, ngoài những chức danh quản lý bắt buộc phải có theo luật định. Điểm khác biệt quan trọng nhất so với Luật Doanh nghiệp 2014 là Luật Doanh nghiệp 2020 đã bỏ cụm từ “có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty” sau cụm từ “chức danh quản lý khác”. Sự thay đổi này thể hiện quan điểm của nhà làm luật là mở rộng phạm vi định nghĩa và giảm bớt các điều kiện để một chức danh trong công ty có thể được xem là người quản lý. Cụ thể, chỉ cần Điều lệ công ty quy định một chức danh hay một cá nhân nào đó là người quản lý thì người này hiển nhiên được xem là người quản lý công ty và chịu các trách nhiệm tương ứng của người quản lý, mà không cần phải tính đến điều kiện có được nhân danh công ty thực hiện giao dịch hay không. Tác giả đánh giá rằng đây là quy định tuy không mới (vì đã từng được đề cập tại 8 khoản 13 Điều 4 của Luật Doanh nghiệp 2005) nhưng đã giúp “cởi trói”, tạo ra sự linh hoạt cho các công ty và cũng rất tiến bộ so với Luật Doanh nghiệp 2014. Bởi lẽ, tùy thuộc vào hoạt động kinh doanh và vấn đề quản trị doanh nghiệp, mỗi công ty đều có thể chủ động quyết định các chức danh quản lý nội bộ cho phù hợp với bối cảnh đặc thù của mình. Vì vậy, với sự thay đổi trong cách định nghĩa về người quản lý doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp 2020, người quản lý công ty có thể được xem xét phân chia thành hai nhóm cơ bản. Một là nhóm người có chức danh phổ biến như được quy định trong Luật Doanh nghiệp. Hai là nhóm người có chức danh khác được quy định theo Điều lệ công ty, chẳng hạn như Giám đốc pháp chế (Legal Director), Giám đốc tài chính (Chief Financial Offier – CFO), Kế toán trưởng (Chief Accountant – CA), các trưởng phòng, … Theo đó, đối với các chức danh quản lý được quy định tại Điều lệ công ty, để xem xét trách nhiệm của những người đảm nhận vị trí này trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn hoặc đưa ra quyết định trong công ty, thì công ty hoặc chủ sở hữu cần phải dựa trên quy định của Điều lệ công ty để đánh giá và kết luận đối với trách nhiệm của họ. Thứ tư, khoản 24 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020 vẫn duy trì cách thức quy định các nhóm chức danh người quản lý doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp 2014, cụ thể là phân chia thành nhóm người quản lý doanh nghiệp tư nhân và nhóm người quản lý công ty, sau đó liệt kê hàng loạt những chức danh cụ thể của các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 2020 đã có sự tiến bộ hơn so với Luật Doanh nghiệp 2014 về cách sắp xếp trật tự từ ngữ trong cách định nghĩa về người quản lý doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp 2020 đã xếp nhóm người quản lý doanh nghiệp tư nhân lên trước nhóm người quản lý công ty, và sau đó liệt kê các chức danh quản lý cụ thể cũng đúng với trật tự này. Nhìn chung, từ những đánh giá nêu trên, tác giả nhận thấy rằng Luật Doanh nghiệp 2020 đã duy trì những điểm tiến bộ, đồng thời loại bỏ những điểm không phù hợp trong cách định nghĩa về người quản lý doanh nghiệp của cả Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Doanh nghiệp 2014. Luật Doanh nghiệp 2020 cũng đã mở rộng phạm vi và quy định chi tiết hơn về định nghĩa các chủ thể được xem là người quản lý. Tuy vậy, khi so sánh với phạm vi định nghĩa về người quản lý công ty theo hệ thống thông luật (common law system) trên thế giới như Anh, Úc, Singapore, …, thì Luật Doanh nghiệp 2020 vẫn chưa bao quát được hết các trường hợp phát sinh trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Hệ quả của việc này là trên thực tế vẫn có những người thực hiện chức năng, công việc như một người quản lý công ty thực thụ, nhưng họ lại không được xem là người quản lý một cách chính thức. Vì vậy, khi họ có hành vi sai phạm, gây thiệt hai cho công ty, thì pháp luật không có cơ sở để áp dụng trách nhiệm của người quản lý đối 9 với những chủ thể này nhằm buộc họ phải chịu các chế tài tương ứng. Kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài về định nghĩa và phân loại người quản lý công ty: Theo kinh nghiệm lập pháp và thực thi pháp luật của các nước theo hệ thống thông luật (nơi có pháp luật công ty phát triển từ rất sớm), việc định nghĩa về người quản lý công ty có nhiều vấn đề khoa học pháp lý tiến bộ mà Việt Nam có thể tham khảo và học hỏi một cách có chọn lọc trong quá trình lập pháp, cụ thể như sau: Thứ nhất, các nước theo hệ thống thông luật (mô hình Anh – Mỹ) xác định rất rõ chức danh nào là người quản lý trong công ty và đồng thời nêu ra các nguyên tắc để xác định một người có phải là người quản lý công ty hay không. Điều 8.01 Luật mẫu Công ty kinh doanh Mỹ (Model Business Corporation Act, MBCA, bản sửa đổi năm 2002) quy định hoạt động kinh doanh của công ty được quản lý bởi hay dưới chỉ đạo của Board of Directors (tức Hội đồng Giám đốc). Điều 198A Luật Công ty Úc 2001 (Corporations Act 2001) và Điều 282 của Luật Công ty Anh (Companies Act 1985) cũng có quy định tương tự về việc hoạt động kinh doanh của công ty được tiến hành theo sự quản lý bởi hay dưới chỉ đạo của các directors (tức các Giám đốc – thành viên của Board of Directors)1, sau đó được sửa đổi tại Điều 154 và Điều 155 của Companies Act 2006 (Anh). Về bản chất, pháp luật Úc quy định các nguyên tắc để xác định người quản lý công ty như sau: (1) người đó có phải là thành viên Hội đồng Giám đốc (Board of Directors) hoặc thành viên thay thế thông qua cơ chế bổ nhiệm chính thức hay không, (2) người đó có giữ vị trí hay thực hiện vai trò như thể một người quản lý công ty chính danh được làm hay không, và (3) người đó có đứng sau để đưa ra các chỉ đạo cho những người quản lý thực hiện theo hay không. Nếu một người được cho là rơi vào một trong ba trường hợp kể trên thì sẽ là người quản lý công ty và phải chịu các trách nhiệm tương ứng2. Những nguyên tắc pháp lý để xác định ai là người quản lý công ty như nêu trên được quy định tại Điều 9 của Luật Công ty Úc 2001, trong Các nguyên tắc Quản trị công ty Hoa Kỳ (Principles of Corporate Governance), Điều 741.(1), Điều 741.(2) của Luật Công ty Anh 19853, Điều 250, Điều 251.(1) của Luật Công ty Anh 2006, Điều 22.(4) Luật Truất quyền giám đốc công ty 1986 (Companies Director Disqualification Act 1986)4. ThS. Bùi Xuân Hải (2005), “Người quản lý công ty theo luật doanh nghiệp 1999 – Nhìn từ góc độ luật so sánh”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4/2005. 2 Australian Institute of Company Directors, “General Duties of Directors”, https://aicd.companydirectors.com.au//media/cd2/resources/director-resources/director-tools/pdf/05446-6-2-duties-directors_general-duties-directors_a4web.ashx, truy cập ngày 20/03/2022. 3 ThS. Bùi Xuân Hải, tlđd 1. 4 Amy Gallimore và Olivia Reader, “What makes a director? De factor directors revisited”, 1 10 Như vậy, có thể thấy rằng, khái niệm Giám đốc (trong Hội đồng Giám đốc) hay người quản lý công ty theo hệ thống thông luật được hiểu ở phạm vi rất rộng, trong đó bao hàm cả những người không được chính thức chỉ định trở thành người quản lý công ty. Theo đó, nhóm người (1) nêu trên được gọi là những người quản lý chính danh (de jure director) – tức là người quản lý được chính thức bầu hoặc bổ nhiệm thông qua một quy trình hợp lệ theo quy định, còn nhóm người (2) và (3) được gọi là người quản lý phi chính danh, gồm người quản lý thực tế và người quản lý ngầm (de facto director và shadow director) – tức là người không chính thức nắm giữ bất kỳ chức danh nào trong công ty, nhưng vẫn đưa ra các chỉ đạo để điều hành, quản lý công ty5. Việc pháp luật nước ngoài đưa ra khái nhiệm về người quản lý phi chính danh của công ty khiến cho việc chính thức bổ nhiệm một chức danh quản lý khó có thể được sử dụng như một lý lẽ hợp lý để biện minh cho việc trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của người quản lý. Về vấn đề này, cũng cần làm rõ các thuật ngữ pháp lý mà pháp luật nước ngoài sử dụng để nói về người quản lý công ty. Theo Từ điển Anh – Việt do Trường Đại học Cambridge (Vương quốc Anh) phát hành, thuật ngữ “director” và “general director” trong tiếng Anh thông thường sẽ được dịch sang tiếng Việt lần lượt là “giám đốc” và “tổng giám đốc”6. Tuy nhiên, bản chất thực sự của “director”, trong tiếng Anh và theo pháp luật công nước ngoài, không phải là giám đốc, mà họ lại là thành viên của Board of Directors (tạm dịch là Hội đồng Giám đốc). Bởi lẽ, căn cứ vào chức năng thì đây là tập thể lãnh đạo cấp cao của công ty, thực hiện việc quản lý, điều hành công ty ở cấp độ cao hơn so với một giám đốc hay tổng giám đốc. Họ sẽ hoạch định đường lối phát triển, chiến lược hoạt động của công ty trong từng thời kỳ hoặc đưa ra các quyết định có tính chất quan trọng (chẳng hạn như chấp thuận hoặc không chấp thuận các giao dịch có giá trị lớn hoặc giao dịch có tính chất tư lợi của người quản lý, quyết định các chức danh quản lý chủ chốt trong công ty, …). Còn tổng giám đốc và giám đốc sẽ không được gọi là “director”, mà theo pháp luật công ty ở các nước phương Tây, chức danh này được gọi là “managing director” hoặc “CEO” (Chief Executive Officer – tạm dịch là giám đốc điều hành). Theo từ điển thuật ngữ pháp lý Black’s Law Dictionary, vị trí “CEO” được hiểu là người quản lý cao nhất trong công ty, điều hành các hoạt động thường ngày của công ty và có trách nhiệm báo cáo kết quả hoạt động cho Hội đồng Giám đốc (Board of Directors) hoặc cơ quan lãnh đạo tương đương trong công ty7. https://www.ashfords.co.uk/news-and-media/general/what-makes-a-director-de-facto-directors-revisited, truy cập ngày 22/03/2022. 5 “Shadow directors and de facto directors – do they owe duties of care?”, https://www.foxwilliams.com/2015/05/22/shadow-directors-and-de-facto-directors-do-they-owe-duties-of-care/, truy cập ngày 22/03/2022. 6 https://dictionary.cambridge.org/dictionary/english-vietnamese/director/, truy cập ngày 22/03/2022. 7 “What is a CEO (Chief Executive Officer)?”, https://corporatefinanceinstitute.com/resources/careers/jobs/what-is-a-ceochief-executive-officer/, truy cập ngày 28/03/2022. 11 Theo đó, vị trí CEO này thực chất vừa giống với chức danh giám đốc hoặc tổng giám đốc, vừa giống với người đại diện theo pháp luật trong Luật Doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy, đã có không ít người nhầm lẫn thuật ngữ “director” và “general director” trong tiếng Anh là giám đốc và tổng giám đốc theo pháp luật Việt Nam. Trong phạm vi Luận văn này, tác giả sẽ sử dụng luân phiên thuật ngữ “giám đốc”, hoặc “tổng giám đốc”, hoặc “thành viên Hội đồng quản trị”, hoặc “thành viên Hội đồng thành viên”, hoặc những người quản lý khác theo cách thức quy định của pháp luật Việt Nam để đảm bảo chính xác trong việc xác định tư cách người quản lý công ty. Ngoài ra, khi nói về người quản lý thực tế của công ty, trong hoạt động xét xử, Tòa án nước ngoài xác định ai là người quản lý công ty không chỉ dựa trên chức danh mà người đó đang nắm giữ (theo pháp luật hay Điều lệ của công ty), mà Tòa án còn xem xét chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn mà họ thực tế đã thực hiện trong quá trình quản trị công ty. Điều này dẫn đến hệ quả là nếu một người chưa chính thức được bổ nhiệm hay được bầu vào chức vụ người quản lý của công ty, nhưng lại thực hiện các chức năng hoặc công việc như thể một người quản lý, thì Tòa án vẫn xem đây là người quản lý công ty, theo đó phải có các nghĩa vụ tương ứng với chức danh quản lý của mình8. Thứ hai, ngoài những chức danh cơ bản đã được quy định, pháp luật Việt Nam có thể tham khảo và luật hóa một số loại chức danh quản lý công ty phổ biến hiện nay. Chẳng hạn, theo quy định của Luật Công ty Úc, những người quản lý cấp cao của các phòng, ban chuyên môn bao gồm: Giám đốc tài chính – CFO (Chief Financial Office), Giám đốc vận hành (Chief Operating Office); Chủ tịch và thành viên Hội đồng Giám đốc (gồm thành viên thường trực, thành viên không thường trực, và thành viên độc lập), thành viên thay thế trong Hội đồng Giám đốc, thành viên danh nghĩa của Hội đồng Giám đốc, các cán bộ quản lý cấp cao và người quản lý khác theo Điều lệ công ty. Mặt khác, như đã nêu trên, Luật Công ty của Úc cũng quy định về những người quản lý phi chính danh như thành viên thực tế của Hội đồng Giám đốc (de facto director) hay thành viên ngầm của Hội đồng Giám đốc (shadow director)9. Về các chức danh nêu trên, Luật Công ty Úc quy định cách thức xác định cho từng chức danh quản lý trong công ty như sau: Giúp việc cho Tổng Giám đốc là những cán bộ quản lý cấp cao thuộc các phòng, ban chuyên môn khác nhau của công ty, chẳng hạn như Giám đốc tài chính (CFO), Giám đốc vận hành (COO), hoặc Kế toán trưởng (Chief Accountant), … Đây cũng được xem là những người quản lý, góp phần vào các công tác điều hành công ty 8 Pamela Hanrahan, Ian Ramsay và Goef Stapledon (2002), Commercial applications of company law, Nxb. CCH Autralia Limited, trang 210 – 211. 9 Pamela Hanrahan, Ian Ramsay và Goef Stapledon, tlđd 8, trang 208 – 211. 12 nhưng ở trong phạm vi chuyên môn hẹp hơn so với Tổng Giám đốc. Hội đồng Giám đốc của công ty gồm giám đốc điều hành (executive director) và giám đốc không điều hành (non-executive director). Trong đó, giám đốc điều hành là người làm việc toàn thời gian cho công ty, đồng thời trực tiếp đưa ra các quyết định quản trị hằng ngày trong công ty để giúp công ty vận hành hiệu quả. Còn giám đốc không điều hành là những người không tham gia toàn thời gian vào việc quản trị công ty, cũng không phải là người lao động của công ty, và chỉ tham gia các cuộc họp Hội đồng Giám đốc để đưa ý kiến của mình. Hội đồng Giám đốc của công ty còn có thành viên độc lập. Đây là loại người quản lý mà Luật Công ty Úc đưa ra các nguyên tắc xác định rất chi tiết. Thành viên toàn quyền (governing director) của Hội đồng Giám đốc là chức danh quản lý thường xuất hiện ở các công ty nhỏ, thông thường là các công ty tiến hành hoạt động kinh doanh của gia đình. Họ sẽ được công ty trao quyền lực rất lớn để điều hành công ty và được quy định trong Điều lệ của công ty. Thành viên danh nghĩa (nominee director) trong Hội đồng Giám đốc là người được bổ nhiệm để đại diện cho lợi ích của một nhóm chủ thể nhất định như các cổ đông, những người lao động, hoặc thậm chí là chủ nợ, trong quá trình quản trị công ty. Thành viên thay thế (alternate director) của Hội đồng Giám đốc là người được các thành viên chính thức của Hội đồng Giám đốc bổ nhiệm để thay mặt họ tham gia vào các cuộc họp Hội đồng Giám đốc khi họ không thể dự họp được. Lưu ý rằng, việc bổ nhiệm thành viên thay thế này chỉ là tạm thời trong một khoảng thời gian nhất định. Thành viên thực tế (de facto director) của Hội đồng Giám đốc là (i) người đã được bổ nhiệm vào vị trí thành viên Hội đồng Giám đốc nhưng không được mô tả là một thành viên; (ii) người thực hiện hành vi như một thành viên Hội đồng Giám đốc nhưng không được bổ nhiệm một cách hợp lệ để trở thành thành viên Hội đồng Giám đốc. Một ví dụ điển hình về loại thành viên thực tế này là việc một người đã được đa số các thành viên tín nhiệm để trở thành viên Hội đồng Giám đốc của công ty, nhưng thủ tục bổ nhiệm chưa thể hoàn thành (chẳng hạn như do không đủ số lượng cổ đông tham dự nên cuộc họp của đại hội đồng cổ đông không thể tiến hành để bổ nhiệm chức danh người quản lý). Vì vậy, về mặt chính danh, người này chưa chính thức trở thành thành viên Hội đồng Giám đốc, nhưng Luật Công ty Úc vẫn thừa nhận cách xác định là thành viên thực tế, theo đó sẽ có các bổn phận như những người quản lý khác của công ty. Thành viên ngầm (shadow director) của Hội đồng Giám đốc là những người không được bổ nhiệm hợp lệ để trở thành thành viên, nhưng các thành viên chính 13 thức của Hội đồng Giám đốc thường thực hiện theo các chỉ đạo hoặc mong muốn của những người này. Thậm chí, Luật Công ty Úc cũng đưa ra cách hiểu là dù công ty không phải một người quản lý (trong tư cách con người, cá nhân về mặt sinh học) nhưng nếu chỉ đạo của công ty đó được thành viên Hội đồng Giám đốc chính thức của một ty khác thực hiện theo, thì công ty đưa ra chỉ đạo có thể được xem là thành viên ngầm của Hội đồng Giám đốc trong công ty đã thực hiện chỉ đạo đó. Tương tự trường hợp thành viên thực tế của Hội đồng Giám đốc nêu trên, thành viên ngầm vẫn phải chịu ràng buộc bởi các trách nhiệm của người quản lý, phải thực hiện quyền và nghĩa vụ khác như đối với các chức danh quản lý chính thức. 1.1.2. Đặc điểm của người quản lý công ty Tùy thuộc đặc điểm lịch sử, đặc thù kinh tế ở mỗi quốc gia mà cách thức pháp luật xác định ai là người quản lý trong công ty và đặc điểm của mỗi chức danh này như thế nào sẽ có những sự khác biệt nhất định. Với Luật Doanh nghiệp 2020, người quản lý công ty sẽ có những đặc điểm sau: Thứ nhất, từ nguyên tắc tách bạch giữa sở hữu và quản lý trong quản trị công ty (được trình bày tại Mục 1.3 của Luận văn), bản chất mối quan hệ giữa người quản lý và các chủ sở hữu (tức thành viên hay cổ đông) là sự ủy quyền. Trong đó, người quản lý công ty sẽ là bên thụ ủy và thay mặt chủ sở hữu quản lý, điều hành các hoạt động đối nội và đối ngoại của công ty. Còn chủ sở hữu là bên ủy quyền, được hưởng lợi gián tiếp từ các công việc do người quản lý thực hiện cho công ty, và trả tiền lương (có bản chất là thù lao ủy quyền) cho người quản lý. Khi này, theo tinh thần của khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Dân sự 2015 về đại diện10, nguyên tắc hành động của người quản lý là phải luôn hướng đến lợi ích của các chủ sở hữu trong quá trình xác lập, thực hiện các giao dịch nhân danh công ty. Người quản lý cũng chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu về quyết định của mình. Thứ hai, hai vai trò người quản lý công ty và chủ sở hữu công ty không nhất thiết phải do hai người riêng biệt đảm nhận. Mặc dù dựa trên nguyên tắc tách bạch giữa quyền quản lý và quyền sở hữu trong công ty như đã nêu trên, Luật Doanh nghiệp 2020 không cấm một người vừa là chủ sở hữu, vừa là người quản lý. Điều này tạo ra sự linh hoạt cho các công ty trong việc quyết định lựa chọn người trở thành người quản lý công ty. Trong thực tiễn ở Việt Nam, có rất nhiều chủ sở hữu (như thành viên của công ty TNHH hay cổ đông của công ty cổ phần) đồng thời đảm nhận vai trò người quản lý của công ty (như Tổng Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng quản trị, người quản lý khác …). Điều 134. Đại diện 1. Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. 10 14 Bởi lẽ, với nhận thức và năng lực quản trị doanh nghiệp tại Việt Nam, nếu thuê một người quản lý từ bên ngoài (không phải một trong số các chủ sở hữu) thì các chủ sở hữu công ty thường có tâm lý lo ngại người quản lý sẽ tư lợi, gây thiệt hại hoặc làm thất thoát tài sản. Vì vậy, các chủ sở hữu sẽ kiêm nhiệm cả vai trò quản lý để đảm bảo kiểm soát được tài sản, tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, cách thức này đã gây ra không ít khó khăn cho chủ sở hữu khi họ không phải là một nhà quản lý chuyên nghiệp có chuyên môn về quản trị, nên khả năng xử lý công việc của công ty sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro, khiến công ty hoạt động kém hiệu quả hoặc không phù hợp với pháp luật. Mặt khác, một người có thể là chủ sở hữu của nhiều công ty khác nhau. Họ sẽ không có đủ thời gian và sự tập trung để theo dõi sát tình hình hoạt động của từng công ty. Thứ ba, người quản lý công ty được phân loại theo từng chức danh cụ thể. Mỗi người quản lý phải là cá nhân, không được là tổ chức. Nếu thành viên hay cổ đông là tổ chức được chọn để tham gia vào Hội đồng thành viên hay Hội đồng quản trị, thì người đại diện tham gia của tổ chức đó trong công ty mới là người quản lý công ty. Ở các quy định cụ thể của từng loại hình công ty TNHH, công ty cổ phần và công ty hợp danh, mỗi chức danh quản lý công ty còn được Luật Doanh nghiệp 2020 quy định về cách thức xác lập, chấm dứt tư cách quản lý thông qua cơ chế bầu, bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm, bãi nhiệm. Luật Doanh nghiệp 2020 cũng cho các công ty quyền tự quyết định các chức danh quản lý nội bộ khác theo quy định của Điều lệ (không đòi hỏi phải có thẩm quyền nhân danh công ty tham gia giao dịch với các bên khác như quy định trước đây của Luật Doanh nghiệp 2014). Điều này giúp cho các công ty có thể linh động và chủ động hơn trong việc sắp xếp việc quản trị nội bộ phù hợp với hoạt động kinh doanh của công ty. Thứ tư, người quản lý công ty phải có năng lực chuyên môn, năng lực quản lý và đạo đức tốt trong hoạt động quản trị công ty. Hiện nay, pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số quốc gia đều đòi hỏi người quản lý công ty phải thỏa mãn ít nhất ba điều kiện trong chế độ trách nhiệm: một là bổn phận hành động với sự mẫn cán, cẩn trọng (duty of care); hai là bổn phận trung thành với công ty (duty of loyalty); và ba là mục đích hành động sẽ luôn vì lợi ích của công ty và lợi ích của các chủ sở hữu (duty to act in the best interest of the company hoặc duty to act in goood faith). Ngoài trình độ và năng lực trong quản trị kinh doanh, Luật Doanh nghiệp 2020 cũng đòi hỏi người quản lý phải có năng lực chuyên môn theo đúng lĩnh vực ngành, nghề mà công ty đang hoạt động (ở một số chức danh nhất định như thành viên Hội đồng thành viên theo khoản 2 Điều 93, hay thành viên Hội đồng quản trị theo điểm b khoản 1 Điều 155 Luật Doanh nghiệp 2020). Thực tế, để có sự tin cậy từ các chủ sở hữu và được xem xét, bổ nhiệm vào những vị trí quản lý, ứng viên cần phải có kiến
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan