Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) ch...

Tài liệu Nâng cao hiệu quả viết bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cho học sinh lớp 9 qua rèn luyện kĩ năng so sánh

.PDF
23
98
106

Mô tả:

MỤC LỤC NỘI DUNG Trang I. MỞ ĐẦU 1 1.1. Lý do chọn đề tài. 1 1.2. Mục đích nghiên cứu 2 1.3. Đối tượng nghiên cứu 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu 2 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. 2 2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm. 4 2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 7 2.3.1. Biện pháp 1: Rèn luyện kĩ năng cho học sinh so sánh nhân vật văn học ở tác phẩm truyện( hoặc đoạn trích). 7 2.3.2. Biện pháp 2: Rèn luyện kĩ năng cho học sinh so sánh ở cấp độ tác phẩm truyện( hoặc đoạn trích). 9 2.3.3. Biện pháp 3: Rèn luyện kĩ năng cho học sinh so sánh ở cấp độ đề tài. 2.3. 4. Biện pháp 4: Rèn luyện kĩ năng so sánh cho học sinh ở cấp độ khuynh hướng tư tưởng ( Đối với học sinh giỏi). 12 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. 16 III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 17 3.1. Kết luận 17 3.2. Kiến nghị 18 14 0 I. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài. Trong nhà trường phổ thông, Ngữ văn là môn khoa học xã hội có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Học Ngữ văn vừa giúp người học có trình độ học vấn phổ thông vừa giúp người học phát triển và hoàn thiện về mặt nhân cách, giúp các em biết yêu cái hay cái đẹp, ghét cái xấu, biết cách ăn nói, giao tiếp ... trong cuộc sống hàng ngày. Giúp học sinh cảm nhận và bày tỏ ý kiến về cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương là một trong những sứ mệnh của người giáo viên để hoàn thành mục tiêu giáo dục ấy. Làm sao để từ những nội dung vấn đề của tác phẩm các em có thể bộc lộ những đánh giá, suy nghĩ riêng của cá nhân mình qua các bài viết một cách sâu sắc, toàn diện ? Tác phẩm truyện có ảnh hưởng rất lớn trong nhận thức và hình thành nhân cách của học sinh. Tuy nhiên, mục tiêu giáo dục của môn Ngữ văn không chỉ dừng lại ở việc đọc hiểu các tác phẩm truyện, mà từ đó còn rèn cho học sinh kĩ năng thực hành, bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về tác phẩm. Đó chính là kĩ năng nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). Thực tế, trong các đề bài trong sách giáo khoa hay các đề thi vào THPT yêu cầu tái hiện kiến thức về các văn bản văn học (nghị luận văn học) luôn chiếm 50% số điểm của bài thi. Trong đó phần nghị luận văn học về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là một trong những đơn vị kiến thức thuộc cấu trúc đề thi. Từ tầm quan trọng đó đã đặt ra nhiều băn khoăn, trăn trở đối với giáo viên phụ trách bộ môn Ngữ văn. Làm sao để học sinh cảm thụ văn bản truyện tốt, làm sao để các em vận dụng tốt các kĩ năng và kiến thức về tác phẩm truyện vào bài nghị luận văn chương,… Người giáo viên không chỉ hướng dẫn học sinh bám vào đặc trưng thể loại, vào kiến thức cách làm bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) mà còn phải hướng dẫn cho các em những cách vận dụng những kĩ năng hợp lí để giúp bài văn hay, sinh động hơn. Trong bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), kĩ năng so sánh không phải là một kĩ năng mới lạ. Song trên thực tế trong khung kiến thức chương trình, kĩ năng này lại không được hệ thống thành kiến thức riêng biệt, bài bản. Chính vì vậy, khi viết bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) việc sử dụng kĩ năng so sánh học sinh thường lúng túng, nhiều em không làm được, nếu có thì hiệu quả đạt được chưa cao. Bởi vậy, với học sinh khối 9, để thực hiện mục tiêu nâng cao hơn nữa chất lượng đại trà và chất lượng mũi nhọn thì việc hướng dẫn học sinh cảm thụ tác phẩm truyện bằng kĩ năng so sánh là một nhu cầu bức thiết đối với học sinh và cả với người dạy. Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường THCS thị trấn Cành Nàng nhiều năm ôn thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh đạt nhiều học sinh giỏi cho trường, bản thân thấy được vai trò ý nghĩa lớn của đổi mới phương pháp trong dạy và học hiện nay. Để góp phần nho nhỏ trong việc nâng cao kiến thức cho học sinh và việc đổi mới phương pháp trong quá trình giảng dạy và ôn luyện cho học sinh lớp 9 môn Ngữ văn, tôi xin góp một phần cách hiểu, cách rèn luyện học sinh qua đề tài: Rèn luyện kĩ năng so sánh nhằm nâng cao hiệu quả viết văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) 1 cho học sinh lớp 9 trường THCS thị trấn Cành Nàng, huyện Bá Thước. Với đề tài này, bản thân tôi mong muốn đưa lại hiệu quả cao trong dạy và học Ngữ văn THCS. Vì vậy rất mong được sự ủng hộ và chia sẻ của các đồng nghiệp! 1.2. Mục đích nghiên cứu. Với đề tài Rèn luyện kĩ năng so sánh nhằm nâng cao hiệu quả viết văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cho học sinh lớp 9 trường THCS thị trấn Cành Nàng, huyện Bá Thước, tôi mong muốn nâng cao chất lượng giờ học tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) và kĩ năng viết bài văn nghị luận văn chương về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cũng như tạo được niềm yêu thích của các em học sinh với bộ môn Ngữ văn. Hơn thế, tôi cũng mong được chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân với các đồng nghiệp để góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng bộ môn Ngữ văn đáp ứng mục tiêu giáo dục mà cả xã hội đang kỳ vọng. 1.3. Đối tượng nghiên cứu. Đề tài Rèn luyện kĩ năng so sánh nhằm nâng cao hiệu quả viết văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cho học sinh lớp 9 trường THCS thị trấn Cành Nàng, huyện Bá Thước, tôi sẽ tập trung nghiên cứu các khai thác, sử dụng kĩ năng so sánh có hiệu quả cho học sinh lớp 9 khi làm kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp xây dựng cơ sở lý thuyết : Nghiên cứu tài liệu, để nắm rõ như thế nào là dạy học so sánh và áp dụng vào bài học ra sao. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Trong công tác giảng dạy giáo viên hiểu rõ tâm lí, năng lực của từng đối tượng học sinh, thông qua bài kiểm tra để đánh giá chất lượng học sinh, điều tra khảo sát thực tế giáo viên và học sinh về tình hình tiếp cận, sử dụng kĩ năng so sánh để thu thập thông tin; thống kê, xử lý số liệu… Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Phân tích và xử lý số liệu kết quả bài kiểm tra trước và sau khi áp dụng đề tài. II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm. Kiểu bài văn nghị luận là một kiểu bài chiếm thời lượng lớn trong chương trình THCS. Các em được học văn nghị luận từ học lớp 7, lớp 8 và lớp 9. Ở lớp 7, các em được học kiến thức khái quát chung về văn nghị luận và chú trọng hai phép lập luận chứng minh và giải thích. Lớp 8, học sinh được học tiếp về văn nghị luận ở nội dung cách viết bài văn nghị luận có sử dụng yếu tố biểu cảm, tự sự và miêu tả. Ở lớp 9 đã có sự kế thừa, nâng cao kiến thức về văn nghị luận. Đó là cung cấp cho các em phép lập luận phân tích và tổng hợp trong văn nghị luận; là kiến thức và kĩ năng về kiểu bài nghị luận văn chương và nghị luận xã hội. Văn nghị luận là văn được viết ra nhằm xác lập cho người đọc, người nghe một tư tưởng, quan điểm nào đó. Mỗi một bài nghị luận đều phải có luận điểm, luận cứ và lập luận. Trong một bài văn có thể có một luận điểm chính và các luận điểm phụ. Luận điểm được xem là linh hồn của bài văn nghị luận. Bởi luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài văn được nêu ra dưới hình 2 thức câu khẳng định (hay phủ định), được diễn đạt sáng tỏ, dễ hiểu, nhất quán. Luận điểm là linh hồn của bài viết, nó thống nhất các đoạn văn thành một khối. Luận điểm phải đúng đắn, chân thực, đáp ứng nhu cầu thực tế thì mới có sức thuyết phục. Để làm sáng tỏ luận điểm phải cần tới lí lẽ, dẫn chứng (luận cứ) là đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Luận cứ phải chân thật, đúng đắn, tiêu biểu thì mới khiến cho luận điểm có sức thuyết phục. Và lập luận là cách nêu luận cứ để dẫn đến luận điểm. Lập luận phải chặt chẽ, hợp lí thì bài văn mới có sức thuyết phục [7]. Với bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) học sinh tiếp tục cần phải nắm vững vừa phải vận dụng linh hoạt những kiến thức chung về văn nghị luận vào bài làm. Vì nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là “trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nhân vật, sự kiện, chủ đề hay nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể. Bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cần có bố cục mạch lạc, có lời văn chuẩn xác, gợi cảm.” [9]. Từ đó, ta thấy bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là kiểu bài có tính chất tổng hợp cao, đòi hỏi người viết không chỉ nắm vững tác phẩm truyện mà còn phải biết bày tỏ chính kiến riêng của mình về vấn đề nghị luận. Vì vậy khi viết bài phải sử dụng nhiều thao tác nghị luận. Trong chương trình THCS, học sinh được học các thao tác lập luận thành bài riêng biệt là phép lập luận chứng minh, phép lập luận giải thích, phép lập luận phân tích và tổng hợp. Phép lập luận chứng minh là dùng những lí lẽ, bằng chứng chân thực, đã được thừa nhận để chứng tỏ luận điểm mới (cần được chứng minh) là đáng tin cậy [7]. Phép lập luận giải thích là làm cho người đọc hiểu rõ các tư tưởng, đạo lí, phẩm chất, quan hệ... cần được giải thích nhằm nâng cao nhận thức, trí tuệ, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cho con người [7]. Phép lập luận phân tích là phép lập luận trình bày từng bộ phận, phương diện của một vấn đề nhằm chỉ ra nội dung của sự vật, hiện tượng. Để phân tích nội dung của sự vật, hiện tượng, người ta có thể vận dụng các biện pháp nêu giả thiết, so sánh, đối chiếu,... và cả phép lập luận giải thích, chứng minh [9]. Phép lập luận tổng hợp là phép lập luận rút ra cái chung từ những điều đã phân tích. Không có phân tích thì không có tổng hợp. Lập luận tổng hợp thường đặt ở cuối đoạn hay cuối bài, ở phần kết luận của một phần hoặc toàn bộ văn bản [9]. Ngoài ra khi tìm hiểu các bài văn mẫu làm ngữ liệu các em còn được làm quen với phép lập phép lập luận so sánh. Theo “Từ điển Tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên thì “so sánh là nhìn vào cái này mà xem xét cái kia để thấy sự giống nhau, khác nhau hoặc sự hơn kém”. Theo “Từ điển Tu từ – phong cách học – thi pháp học” của tác giả Nguyễn Thái Hoà (NXB Giáo dục) thì “so sánh là phương thức diễn đạt  tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn là giữa hai sự vật có một nét tương đồng nào đó để gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mỹ trong nhận thức của người đọc, người nghe”. Trong thực tế đời sống, so sánh trở thành một thao tác phổ biến, thông dụng nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức, đánh giá của con người trong nhiều lĩnh vực và hoàn cảnh. Với môn Ngữ văn trong nhà trường THCS, khái niệm so sánh cần phải được hiểu theo theo những lớp nghĩa cơ bản. Thứ nhất, so sánh ở phạm vi là một phép tu từ từ vựng ở phần kiến thức Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn 6 tập 2: so sánh là đối chiếu sự vật, sự việc này với sự vật, sự việc khác có nét tương đồng 3 để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt [6] chủ yếu giúp các em phát hiện ra các phép so sánh có trong tác phẩm văn học. Từ đó học sinh tìm ra tác dụng của biện pháp so sánh trong khả năng biểu đạt nội dung của văn bản cũng như tài năng sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Thứ hai, trong văn nghị luận kĩ năng so sánh trong nghị luận văn học là một thao tác lập luận như các thao tác lập lụân mà các em đã được học (phép lập luận chứng minh, phép lập luận giải thích, phép lập luận phân tích và tổng hợp): So sánh là đối chiếu hai hay nhiều sự vật, đối tượng hoặc là các mặt của một sự vật để chỉ ra những nét giống nhau hay khác nhau, từ đó thấy được giá trị của từng sự vật hoặc một sự vật mà mình đang bàn luận [11]. Như vậy, so sánh là phương pháp nhận thức trong đó đặt sự vật này bên cạnh một hay nhiều sự vật khác để đối chiếu, xem xét nhằm hiểu sự vật một cách toàn diện, kỹ lưỡng, rõ nét và sâu sắc hơn. Tuy nhiên, so sánh văn học như một kiểu bài nghị luận văn học lại chưa được cụ thể bằng một bài học độc lập trong chương trình Ngữ văn THCS. Từ những khái niệm trên khi vận dụng so sánh vào việc rèn kĩ năng làm bài nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) sẽ giúp cho học sinh hiểu rõ hơn đối tượng (có thể là những chi tiết, nhân vật, hình tượng, quan niệm, …), cảm nhận được những mới mẻ, độc đáo của đối tượng văn học cũng như những sáng tạo của nghệ sĩ. Để rèn luyện và hướng dẫn học sinh thực hiện tốt kĩ năng này nói riêng, cảm thụ văn học nói chung, về phía học sinh, giáo viên cần phải chỉ đường cho học sinh biết cách sử dụng so sánh khi làm bài một cách cụ thể, dễ nhớ, dễ hiểu. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 2.2.1 Tình hình địa phương: Thị trấn Cành Nàng là đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc huyện Bá Thước, cách Thành phố Thanh Hóa khoảng 110 km về phía Tây. Là một Thị trấn huyện lỵ, là một trung tâm buôn bán sầm uất của huyện Bá Thước. Thị trấn Cành Nàng được chia thành 5 đơn vị khu dân cư ( 5 khu phố) trải dài theo Quốc lộ 217 với chiều dài khoảng 3 km. Trường THCS Thị trấn Cành Nàng đóng tại phố 3 thị trấn Cành Nàng. 2.2.2 Tình hình nhà trường: - Từ ngày 01/10/ 2014 UBND Huyện phê duyệt đề án: Thành lập trường trung tâm các lớp chất lượng cao ở Trường THCS Thị trấn Cành Nàng, nhà trường đã tuyển sinh thu hút nhiều học sinh năng khiếu trên địa bàn huyện về học tại trường nên đa phần đối tượng học sinh nói chung, học sinh khối lớp 9 nói riêng đều chăm ngoan và có ý thức học tập tốt. - Tình hình đội ngũ giáo viên: Ban giám hiệu: 03, giáo viên 22, nhân viên 03. Có 2 tổ chuyên môn: Tổ Tự nhiên 13, tổ Xã hội 9 ( trong đó môn Ngữ văn có 4 đồng chí). - Thực trạng chương trình: Trong chương trình Ngữ văn ở bậc Trung học cơ sở, phần đọc hiểu văn bản chiếm một thời lượng khá lớn trong chương trình. Với chương trình lớp 9, đọc hiểu văn bản là 59 tiết/175 tiết (chiếm 33.7%) thì đọc hiểu tác phẩm truyện là 29/59 (chiếm 49.2% thời lượng), đọc hiểu tác phẩm thơ là 15/175 tiết (chiếm 25.4% thời lượng), còn lại các thể loại khác là 15/175 tiết (chiếm 25.4% thời lượng). 4 - Thực trạng nhận thức của giáo viên Ngữ văn trong nhà trường khi giảng dạy kĩ năng so sánh: Nội dung Hiểu được vai trò của kĩ năng so sánh trong bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). Hướng dẫn học sinh vận dụng kĩ năng so sánh trong bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). Hướng dẫn HS vận dụng kĩ năng so sánh trong bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) có tính bài bản, hệ thống. Mức độ GV đã hiểu, hướng Chưa thực dẫn, vận dụng hiện SL % SL % 4 100% 0 0% 2 50% 2 50% 1 25% 3 75% Qua điều tra và thực tế trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy: Với giáo viên dạy Ngữ văn, rèn kĩ năng so sánh cho học sinh thật sự rất cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên thực tế việc hướng dẫn học sinh kĩ năng này còn mang tính chủ quan tìm kiếm, mày mò từ kinh nghiệm cá nhân nên một số giáo viên còn e ngại và chưa rèn học sinh vận dụng kĩ năng này nhiều. Thực trạng nhận thức của học sinh đối với môn Ngữ văn về việc thực hiện kĩ năng so sánh: Nội dung HS đã hiểu được vai trò của kĩ năng so sánh trong bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) HS hiểu được vai trò của kĩ năng so sánh trong bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) HS vận dụng kĩ năng so sánh trong bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) có tính bài bản, hệ thống Mức độ HS đã sử dụng, Chưa thực hiểu, vận dụng hiện SL % SL % 60 100% 0 0% 20 33% 40 62% 9 15% 51 85% Về phía học sinh ở bậc trung học cơ sở nói chung và học sinh khối 9 nói riêng khả năng cảm thụ tác phẩm bằng kĩ năng so sánh chưa tốt. Phần lớn các em chỉ cảm nhận bằng cảm tính vai trò của kĩ năng này và vận dụng nó còn tùy tiện mà chưa có bài bản, khoa học. Hơn nữa trong xu thế xã hội hiện nay, việc 5 hứng thú với văn chương và tạo nên những sản phẩm cảm thụ văn chương của học sinh có giá trị thật sự chưa nhiều ... Kết quả qua bài kiểm tra của học sinh: Sau khi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn 9 trong năm học 2015 - 2016, kết quả bài kiểm tra nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) của học sinh lớp 9 chưa được cao. Qua bài kiểm tra tiết 48 (Kiểm tra truyện trung đại - học kỳ I) và tiết kiểm tra 120 (Viết bài tập làm văn số 6- học kỳ II) với đề bài có một câu yêu cầu học sinh cảm thụ tác phẩm truyện thì kết quả chưa đạt như kì vọng của giáo viên. Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm dưới 3 9 - 10 6,5 – 8,5 5,0 – 6,0 3,0 – 4,5 Sĩ Lớp số Tổng Tổng Tổng Tổng Tổng % % % % % số số số số số 9A 30 0 0 4 13 20 66 6 20 1 3 9B 30 0 0 6 20 20 67 4 13 0 0 Thực trạng về vận dụng kĩ năng so sánh trong bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) còn tồn tại như trên đã phần nào hạn chế khả năng tiếp thu, cảm nhận tác phẩm văn chương khi các em vận dụng vào làm bài tập. Bởi vậy, trên thực tế hàng năm khả năng lĩnh hội cũng như kĩ năng làm bài văn ở các em đạt kết quả chưa cao như mong muốn của người dạy. Trong các bài kiểm tra văn về phần truyện hay các bài viết nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) trong chương trình Ngữ văn 9, xa hơn là kì thi vào PTTH chất lượng bài làm chưa cao, nhiều em bài thi môn Ngữ văn chỉ đạt dưới 5. Thậm chí một số em trong đội tuyển học sinh giỏi khi làm bài này chưa hay, sâu sắc. Một phần là do các em chưa chịu tích luỹ kiến thức giữa các tác phẩm văn chương với nhau, chưa có ý thức tự học, tự tìm tòi sáng tạo mà còn mang thói quen ỷ lại, thụ động vào sự hướng dẫn của thầy cô, hoặc tài liệu tham khảo. Ngoài ra còn nguyên nhân chính khác là các em chưa hiểu so sánh giữa các tác phẩm là phải so sánh cái gì ? So sánh như thế nào? Ngoài kết quả chưa cao từ các đề kiểm tra trên thì khi kiểm tra vở bài tập của học sinh, tôi nhận thấy các bài tập trong sách giáo khoa có vận dụng kĩ năng so sánh các em đều làm chưa đạt yêu cầu. Bên cạnh kết quả chưa mấy khả quan trên của học sinh đại trà, thì chất lượng học sinh giỏi cũng đạt chưa cao. Về phía học sinh ở bậc THCS nói chung và học sinh khối 9 nói riêng khả năng sử dụng kĩ năng so sánh chưa tốt. Phần lớn các em chỉ cảm nhận bằng cảm tính vai trò của những kĩ năng này và vận dụng nó còn tùy tiện mà chưa có bài bản, khoa học. Hơn nữa kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) đòi hỏi học sinh phải có những nhận xét, đánh giá về truyện. Các nhận xét, đánh giá về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) trong bài nghị luận phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách, số phận của nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát. Đồng thời phải được trình bày rõ ràng, đúng đắn, có luận cứ và lập luận thuyết phục. Tuy nhiên thực tế, trong xu thế xã hội và tình hình học Ngữ văn hiện nay, học sinh chưa thực sự ham học chịu khó tìm tòi, góp nhặt, tích lũy để xâu chuỗi 6 thành hệ thống kiến thức mà còn bị các thú tiêu khiển hấp dẫn từ đời sống mạng ảo lôi kéo ... Vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra một số biện pháp rèn luyện kĩ năng so sánh nhằm nâng cao hiệu quả viết văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cho học sinh lớp 9 trường THCS thị trấn Cành Nàng, huyện Bá Thước với mong muốn cải tiến phương pháp dạy học theo hướng tích cực, đưa lại hiệu quả cao trong dạy và học Ngữ văn. 2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề . 2.3.1. Biện pháp 1: Rèn luyện kĩ năng cho học sinh so sánh nhân vật văn học ở tác phẩm truyện( hoặc đoạn trích). Nhân vật văn học là khái niệm chỉ hình tượng cá thể người trong tác phẩm văn học - cái đã được nhà văn nhận thức, tái tạo, thể hiện bằng các phương diện riêng. Ðối tượng chung của văn học là cuộc đời nhưng trong đó con người luôn giữ vị trí trung tâm. Những sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những bức tranh thiên nhiên, những lời bình luận...đều góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho tác phẩm nhưng cái quyết định chất lượng tác phẩm văn học chính là việc xây dựng nhân vật. Ðọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những con người được nhà văn thể hiện. Tô Hoài đã có lí khi cho rằng "Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác" [3]. Vì vậy, nghị luận về nhân vật trở thành con đường quan trọng nhất để đi đến giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của tác phẩm, để nhận ra lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Khi nghị luận về nhân vật ta cần làm bật thông điệp mà người nghệ sĩ gửi gắm ở nhân vật qua các phương thức, phương tiện, phương pháp thể hiện như: lai lịch, ngoại hình, lời thoại, nội tâm, hành động, … của nhân vật. Tuy nhiên để làm bật những phương diện này ta không chỉ dừng lại đơn thuần ở nhân vật mà phải đặt nhân vật trong tương quan với các nhân vật khác hoặc có thể là mâu thuẫn, xung đột kịch. Khi nghị luận về nhân vật, ta có thể đối chiếu, so sánh, … các kiến thức để làm nổi bật nhân vật. Ví dụ 1: Đề bài: Cảm nhận về nhận vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” (trích “Truyện Kiều”) của Nguyễn Du. Với đề bài này yêu cầu học sinh phải biết nghị luận về nhân vật. Khi cảm nhận nhân vật Thúy Kiều qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” (trích “Truyện Kiều”), học sinh bám những lời thơ giới thiệu của Nguyễn Du về Kiều để bày tỏ suy nghĩ, tình cảm của mình cho nhân vật. Tuy nhiên để bài viết trình bày nổi bật về bức chân dung tuyệt sắc giai nhân Thúy Kiều vật thì học sinh cần phải đối sánh việc đại thi hào giới thiệu về Thúy Vân, Thúy Kiều. Đồng vận dụng kiến thức đã học về thi pháp trung đại để làm sáng tỏ về nhân vật Thúy Kiều. Bởi nếu tả nàng Vân, nhà thơ chỉ dành 4 câu thì tả Thúy Kiều nhà thơ dành tới 12 câu thơ. Với Vân, nhà thơ chủ yếu tả vẻ đẹp ngoại hình, còn với nàng Kiều vẻ đẹp của nàng là cả nhan sắc, tài năng, tâm hồn. Và so với Vân, nàng có phần hơn cả về tài và sắc. Gợi tả vẻ đẹp của Kiều, tác giả vẫn dùng những hình tượng nghệ thuật ẩn dụ qua thủ pháp ước lệ, tượng trưng: thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu. Nếu vẽ Vân, nhà thơ cụ thể ở khuôn mặt, làn da, mái tóc,... thì tả Kiều nhà thơ thiên về gợi và chỉ tập trung ở đôi mắt nhưng vẫn tạo được một ấn tượng chung về vẻ 7 đẹp của một tuyệt thế giai nhân. Chọn đôi mắt để thể hiện vẻ đẹp của Kiều, tác giả đã thể hiện sự tinh anh nhất của con người, nó thể hiện tâm hồn và trí tuệ của mỗi con người. ở Kiều, đôi mắt của nàng như làn thu thuỷ - làn nước mùa thu dợn sóng gợi lên một vẻ đẹp trong sáng, long lanh, linh hoạt. Còn đôi lông mày thì như nét xuân sơn, nét vẽ núi mùa xuân lại gợi nên một đôi mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung của người đẹp. Vẻ đẹp của Kiều khiến hoa đã phải "ghen" (tức), liễu đã phải "hờn" (giận). Không chỉ vậy, sắc đẹp của nàng có thể khiến nghiêng nước nghiêng thành. Không chỉ đẹp về nhan sắc, Kiều còn đẹp ở tài năng. Nếu tả nhan sắc, nhà thơ chỉ dành một phần thì khi tả tài Thúy Kiều nhà thơ dành số lượng câu chữ đến hai phần. Vốn bản chất thông minh trời phú, tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, gồm đủ cả cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ), hoạ (vẽ). Trong đó nổi bật nhất là tài đánh đàn của nàng. Tài đàn của nàng đã là sở trường, năng khiếu (nghề riêng), vượt lên trên tất cả mọi người (ăn đứt). Quả thật, nghe tiếng đàn của nàng khiến lòng người đều rung động. Tả tài đàn của Kiều cũng là nhà thơ ca ngợi cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn “ bạc mệnh” mà Kiều tự sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm. Như vậy vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp của cả sắc tài – tình, vẻ đẹp của một quốc sắc thiên hương. Cũng như Thuý Vân, chân dung của Kiều là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp của Kiều khiến tạo hoá phải ghen ghét, đố kị nên dự báo số phận của nàng sẽ éo le, đau khổ. Qua sự đối sánh ta thấy được sự tinh tế và tài tình của Nguyễn Du khi tả chân dung người đẹp. Ví dụ 2: Đề bài: Cảm nhận vẻ đẹp của tình cha trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. [14] Với đề bài này, học sinh phải nắm vững kiến thức bài văn yêu cầu là một bài nghị luận văn học về nhân vật trong tác phẩm truyện (người cha – anh Sáu). Để làm rõ được tình cảm cha con thiêng liêng, sâu nặng ở người cha đáng kính này, ta rất cần phải vận dụng kỹ năng so sánh. Đó là việc ta đối chiếu diễn biến tâm lí, hành động giữa anh Sáu với bé Thu trong lần gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách. Được về thăm nhà sau bao năm ở chiến khu, khao khát đốt lòng anh Sáu là được gặp con, được nghe con gọi tiếng ba, được ôm đứa con bé bỏng trong vòng tay yêu thương. Vì thế, về gần tới nhà, thoáng thấy bóng con, anh Sáu vô cùng xúc động, không chờ xuồng cập bến, anh nhón chân nhảy thót lên xô chiếc xuồng tạt ra rồi vội vàng bước những bước dài. Tiếng gọi "Thu! Con…" anh phải kìm nén bao lâu nay bỗng bật ra thật cảm động, làm người đọc thấy nghẹn ngào. Nhưng ngược lại với điều anh Sáu mong muốn, bé Thu - con gái anh lại ngơ ngác, hốt hoảng rồi vụt chạy và kêu thét lên khiến người cha đau khổ, hai tay buông thõng như bị gãy. Rồi suốt ba ngày nghỉ phép, anh không dám đi đâu xa, chỉ quanh quẩn gần con. Song, anh càng xích lại gần nó càng lùi xa; anh càng khao khát được nghe tiếng “ba” từ lòng con, nó càng không gọi... Bị con cự tuyệt, anh Sáu đau khổ nhưng vẫn cố nén thất vọng để yêu thương và bù đắp cho con… Phát hiện ra sự đối lập trong lần gặp gỡ giữa cha con anh Sáu, giáo viên sẽ giúp học sinh thấy được tấm lòng người cha mêng mang, dành tình yêu thương con hết mực của anh Sáu. Không chỉ vậy, để học sinh hiểu rõ hơn nữa tình cha 8 con sâu nặng trong cảnh ngộ éo le của cuộc chiến tranh, giáo viên còn hướng dẫn học sinh tích hợp kiến thức văn học sử. Truyện “Chiếc lược ngà” được Nguyễn Quang Sáng viết năm 1963, khi nhà văn đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Giáo viên gợi nhớ cho học sinh bối cảnh xã hội nước ta được gửi gắm trong tác phẩm lúc bấy giờ. Đó là thời kì diễn ra cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ. Là tinh thần cả dân tộc hi sinh tất cả vì nền độc lập cho dân tộc. Vì vậy câu chuyện của cha con anh Sáu không còn là chuyện một nhà mà là câu chuyện của muôn nhà trong thời chiến. Rộng ra đó còn là chuyện của muôn thời, muôn đời. Giá trị sâu xa, lay động lòng người được gợi ra từ nhân vật, từ tác phẩm cần phải được ta tìm hiểu từ những thao tác so sánh, tích hợp quý giá ấy. Như vậy, mục đích của việc hướng dẫn học sinh so sánh nhân vật trong tác phẩm truyện là để : - Các em tìm thấy những nét riêng của nhân vật. - Các em phát hiện ra khả năng sáng tạo vô cùng và kì diệu của các tác giả đã tạo nên sự phong phú hấp dẫn cho thế giới văn học, đem đến những cảm nhận vừa lạ vừa quen cho người thưởng thức… Để học sinh đạt được hiệu quả nhờ kĩ năng so sánh khi học và cảm thụ văn thì trước hết ta cần tạo lập cho các em các bước so sánh nhân vật. Cụ thể: - Xác định được nhân vật cần nghị luận trong tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). - Xác định được vấn đề nghị luận về nhân vật cần nghị luận trong tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). - Hình dung được những đặc điểm cơ bản về nhân vật cần nghị luận trong tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) như: lai lịch, diện mao, lời nói, cử chỉ, … - Nhân vật khiến ta liên tưởng tới những nhân vật nào trong chính tác phẩm (nếu có), hoặc nhân vật trong các tác phẩm văn chương khác đã học (hoặc đọc thêm), hoặc các sự kiện xã hội nào đã và đang diễn ra. - Từ sự so sánh ấy ta rút ra nhận xét về thông điệp cuộc sống của tác giả gửi gắm trong tác phẩm văn học... Như vậy, thao tác so sánh nhân vật trong tác phẩm truyện chính là chìa khoá để các em bước vào tìm hiểu và phát hiện ra những nét riêng của nhân vật trong tác phẩm đồng thời cảm nhận được vẻ đẹp phong phú của tác phẩm, mở ra những khả năng khám phá về thế giới hình ảnh kì diệu trong văn học. 2.3.2. Biện pháp 2: Rèn luyện kĩ năng cho học sinh so sánh ở cấp độ tác phẩm truyện( hoặc đoạn trích). Khi hướng dẫn học sinh cảm thụ tác phẩm truyện, người giáo viên sẽ hướng dẫn các em cảm thụ văn bản theo đặc thù của thể loại văn chương. Sau bước khám phá đó để giúp các em hiểu sâu, nắm kĩ hơn tác phẩm ta có thể hướng dẫn học sinh thao tác so sánh ở cấp độ tác phẩm. Trong kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), dạng đề yêu cầu học sinh phải vận dụng kĩ năng so sánh tương đối nhiều, đặc biệt là trong quá trình ôn luyện bồi dưỡng học sinh mũi nhọn. Mục đích của việc so sánh giữa tác phẩm này với tác phẩm kia để phát hiện ra : - Những tác phẩm trước nó để thấy sự kế thừa và cách tân. - Những tác phẩm sau nó để thấy đặc điểm của văn chương thời đại và sự phát triển của văn chương nói chung. 9 - Những tác phẩm cùng thời để thấy được sự độc đáo. - Những tác phẩm của chính nhà văn để thấy vẻ riêng, nét riêng hoặc một quy luật chung nào đó. Để làm được điều này, thì giáo viên cũng phải hướng dẫn cho học sinh cách so sánh, tích hợp: - Xác định vấn đề cần nghị luận trong tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). - Vận dụng những kiến thức đã học để phát hiện ra tác phẩm có điểm chung và riêng gì so với các tác phẩm khác (có thể cùng hoặc khác thời) - Từ sự so sánh đó rút ra những nhận xét khái quát, nâng cao. Ví dụ 1: Với đề bài: Từ truyện cổ tích dân gian “Vợ chàng Trương” và “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, em hãy chỉ rõ sự sáng tạo của nhà văn Nguyễn Dữ trong tác phẩm“Chuyện người con gái Nam Xương”. Để giúp các em phát hiện được sự sáng tạo nghệ thuật của nhà văn trong tác phẩm thì giáo viên cần hướng dẫn học sinh tiến hành các bước: - Đọc truyện cổ tích dân gian “Vợ chàng Trương”. - Phát hiện và liệt kê những điểm giống và khác giữa truyện cổ tích dân gian “Vợ chàng Trương” với “Chuyện người con gái Nam Xương” bằng hệ thống các ý trả lời cho các câu hỏi: ? Sự việc chính trong truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” và“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ? “Vợ chàng Trương” “Chuyện người con gái Nam Xương” - Vũ Nương và Trương Sinh lấy nhau. - Trương Sinh xin mẹ “đem trăm lạng Vừa cưới vợ xong đã phải đi lính. vàng” cưới Vũ Nương. Vừa cưới vợ xong đã phải đi lính. - Vũ Nương ở nhà phụng dưỡng mẹ - Vũ Nương ở nhà phụng dưỡng mẹ già, nuôi con nhỏ. Để dỗ con, nàng già, nuôi con nhỏ. thường chỉ bóng mình trên tường mà bảo đó là cha nó. - Giặc tan Trương Sinh trở về, nghe lời - Giặc tan Trương Sinh trở về, nghe con nhỏ, nghi oan là vợ mình không lời con nhỏ, nghi oan là vợ mình chung thuỷ. không chung thuỷ. - Vũ Nương bị oan, bèn gieo mình - Vũ Nương bị oan, bèn gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. - Khi hiểu ra nỗi oan của vợ, Trương - Một đêm Trương Sinh cùng con trai Sinh đã lập đàn giải oan cho nàng ở ngồi bên đèn, đứa con chỉ chiếc bóng bến sông ấy. trên tường và nói đó chính là người hay tới đêm đêm. Lúc đó chàng mới hiểu ra vợ mình bị oan. - Phan Lang tình cờ gặp lại Vũ Nương dưới thuỷ cung. Khi Phan Lang trở về trần gian, Vũ Nương gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn cho Trương Sinh. - Trương Sinh lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương trở về 10 ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng, lúc ẩn, lúc hiện. ? So sánh về cách sắp xếp các sự việc giữa hai tác phẩm và rút ra nhận xét? “Vợ chàng Trương” “Chuyện người con gái Nam Xương” - Truyện cổ tích chỉ thiên về - Trên cơ sở cốt truyện “Vợ chàng Trương”, kể những sự kiện dẫn đến nỗi trong “Chuyện người con gái Nam Xương” tác oan khuất của Vũ Nương. giả đã sắp xếp lại một số tình tiết, thêm bớt hoặc tô đậm những tình tiết có ý nghĩa, có tính chất quyết định đến quá trình diễn biến của truyện cho hợp lí, tăng cường tính bi kịch và cũng làm cho câu chuyện trở nên hấp dẫn và sinh động hơn. Từ đó HS đánh giá được một số nhận xét về sự sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ được thể hiện ở các biểu hiện cụ thể như : + Ở phần đầu truyện nhà văn đã thêm chi tiết Trương Sinh “đem trăm lạng vàng” cưới Vũ Nương về để thấy được cuộc hôn nhân trở nên có tính chất mua bán. + Tác giả đã đặt nhân vật vào nhiều hoàn cảnh khác nhau như : trong cuộc sống vợ chồng bình thường; khi tiễn chồng đi lính; khi xa chồng; khi bị chồng nghi oan. Trong mỗi cảnh nhà văn đã thêm rất nhiều những tình tiết. + Không dừng lại ở tình tiết các sự việc, Nguyễn Dữ còn sáng tạo thêm ở phần cuối truyện bằng cách thức đưa yếu tố kì ảo đan xen với những yếu tố thực về địa danh, về thời điểm lịch sử, sự kiện lịch sử … Cách thức này làm cho thế giới kì ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần với cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng. + Nếu truyện cổ tích chỉ thiên về cốt truyện và những diễn biến hành động nhân vật thì trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, dưới ngòi bút sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ, nhân vật có đời sống, có tính cách rõ rệt hơn nhiều. Chính vì vậy “Chuyện người con gái Nam Xương” trở nên có kịch tính hơn, gợi cảm hơn… Từ đó chúng ta nhận thấy rằng cách so sánh giữa tác phẩm với tác phẩm là một trong số những kĩ năng không thể thiếu được trong cảm thụ tác phẩm văn học. Ví dụ 2: Khi hướng dẫn học sinh làm đề văn: Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã sáng tạo được những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về con người vừa giàu phẩm chất truyền thống vừa đậm nét thời đại. Bằng những cảm nhận về bài thơ “Đồng chí” (Chính Hữu) và truyện ngắn “Làng” (Kim Lân), em hãy làm sáng tỏ nhận định trên. [3] Đây là kiểu bài nghị luận văn học có định hướng. Học sinh cần phát huy năng lực tổng hợp kiến thức, kĩ năng lập luận so sánh, phân tích, tổng hợp … để giải quyết vấn đề. Trên cơ sở định hướng của đề và những nội dung kiến thức từ hai tác phẩm, học sinh có thể triển khai bài viết theo những cách khác nhau. Cụ thể, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh giải thích nhận định Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã sáng tạo được những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về 11 con người vừa giàu phẩm chất truyền thống vừa đậm nét thời đại. Tiếp theo sẽ giúp học sinh làm sáng tỏ nhận định. Ở nội dung này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh từng nội dung chung, sau đó đối sánh trong từng tác phẩm. Chẳng hạn như: - Hình tượng con người giàu phẩm chất truyền thống: + Người lính trong bài thơ Đồng chí hiện lên với vẻ đẹp chân chất, mộc mạc, gắn bó tha thiết với quê hương, giàu tình yêu nước… + Những người nông dân trong truyện ngắn Làng, đặc biệt là ông Hai là những người thật thà, chất phác, chăm chỉ, yêu làng quê tha thiết… - Hình tượng con người mang đậm nét thời đại: + Ở Đồng chí là tình đồng chí đồng đội. Đây là những tình cảm mới của con người Việt Nam giai đoạn này. + Ở truyện ngắn Làng, sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu làng quê với tình yêu đất nước và niềm tin yêu cách mạng, kháng chiến là vẻ đẹp mới của người nông dân Việt Nam, cũng là của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Từ sự so sánh kết hợp với cách dùng lí lẽ, dẫn chứng chặt chẽ, tiêu biểu, học sinh sẽ rút ra được điểm gặp gỡ giữa các tác phẩm. Hai tác phẩm đã xây dựng thành công hình tượng nghệ thuật về con người Việt Nam vừa kết tinh giá trị cao đẹp của truyền thống vừa mang những nét tiêu biểu của con người thời đại. Những vẻ đẹp ấy giúp ta có cái nhìn chân thực, toàn diện về con người Việt Nam trong 30 năm chiến tranh vệ quốc và xây dựng đất nước. Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về con người Việt Nam đã chứng tỏ sự gắn bó am hiểu sâu sắc cũng như tình cảm của Chính Hữu, Kim Lân với cuộc sống con người. Nhận định đã khái quát được những thành tựu nổi bật của văn học Việt Nam từ 1945-1975, giúp ta có cái nhìn sâu sắc về một giai đoạn văn học có ý nghĩa lớn trong quá trình phát triển của nền văn học dân tộc. Những thành tựu này đã làm sáng tỏ hơn nữa quy luật kế thừa và sáng tạo của văn học. Như vậy, cách so sánh giữa tác phẩm với tác phẩm là một trong số những kĩ năng không thể thiếu được trong kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). 2.3.3. Biện pháp 3: Rèn luyện kĩ năng cho học sinh so sánh ở cấp độ đề tài. Để sáng tác văn học, người nghệ sĩ không thể không lựa chọn đề tài sáng tác. Đề tài là “Phạm vi các sự kiện tạo nên cơ sở chất liệu đời sống của tác phẩm, đồng thời gắn với việc xác lập chủ đề của tác phẩm” [15]. Bởi vậy khi hướng dẫn học sinh phân tích văn học, chúng ta cũng cần rèn cho các em cách so sánh ở cấp độ đề tài tiến hành theo các bước: - Xác định đề tài của tác phẩm đang cảm thụ, phân tích. - Đối chiếu để so sánh cách khai thác đề tài trong tác phẩm với các tác phẩm khác (có thể so sánh đề tài với các tác phẩm của tác giả khác hoặc của chính tác giả) Cách so sánh này nhằm: - Phát hiện sự gặp gỡ về đề tài giữa các tác phẩm. - Phát hiện ra cách xử lí đề tài của các tác giả. - Sự đóng góp về đề tài từ các tác phẩm đối với nền văn học dân tộc. 12 Thực tế khi đọc tác phẩm văn học, học sinh dễ dàng nhận ra giữa các tác phẩm tuy không cùng tác giả, không được sáng tác cùng thời nhưng giữa các bậc văn nhân lại có thể có cùng sự gặp gỡ ở sự ngẫu nhiên về đề tài sáng tác. Song cùng một đề tài nhưng cách xử lí để tài của các tác giả lại khác nhau. Ví dụ cùng viết về đề tài người phụ nữa trong xã hội phong kiến, nhưng Nguyễn Dữ và Nguyễn Du lại có những cách thể hiện rất khác nhau. Hay đều viết về người nông dân trước cách mạng nhưng Ngô Tất Tố, Nam Cao, Kim Lân, … lại có những khám phá rất khác nhau. Chính vì vậy khi nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) để giúp các em cảm nhận sâu giá trị nghệ thuật và có cái nhìn bao quát toàn bộ tác phẩm thì kĩ năng so sánh ở cấp độ đề tài có vai trò rất đắc dụng. Bởi vì điều quan trọng trong văn chương không phải là đề tài mà là cách xử lí đề tài của tác giả. Ví dụ 1: Như khi hướng dẫn học sinh làm đề văn : Cảm nhận về thân phận và vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua hai nhân vật: Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn Dữ), Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du). [3]. Đề bài yêu cầu học sinh phải biết vận dụng kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) để phân tích, bình giá, tổng hợp, khái quát vấn đề (Cụ thể: phân tích, nhận xét, đánh giá 2 nhân vật: Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương), Thúy Kiều (Truyện Kiều) để tổng hợp khái quát vấn đề: thân phận và vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến). Để giúp học sinh làm tốt bài này, giáo viên hướng dẫn học sinh nhớ lại kiến thức từ hai tác phẩm qua việc so sánh. Học sinh cần giới thiệu được một cách khái quát về hai nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn Dữ), Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du). Tiếp đó nêu và phân tích được những đặc điểm chung nhất của hai nhân vật về thân phận và vẻ đẹp: + Thân phận: Thân phận của những con người chịu nhiều bất công, oan ức và bị chà đạp về nhân phẩm. + Vẻ đẹp: Vẻ đẹp của nhan sắc, tâm hồn; vẻ đẹp của khát vọng tình yêu, hạnh phúc và quyền sống … Từ sự tổng hợp kiến thức từ hai tác phẩm, học sinh khái quát được vấn đề nghị luận: Số phận Vũ Nương, Thúy Kiều hội đủ những bi kịch của người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến. Vẻ đẹp của Vũ Nương, Thúy Kiều là vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Qua hai nhân vật ta cảm nhận được giá trị nhân đạo toát lên từ hình tượng nhân vật. Đó là tiếng nói cảm thương sâu sắc trước số phận bi kịch và tiếng nói khẳng định, ngợi ca con người và những khát vọng chân chính của con người. Ví dụ 2: Như khi hướng dẫn học sinh làm đề văn: Vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước qua hai nhân vật: anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” ( Nguyễn Thành Long) và Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi” ( Lê Minh Khuê). Đề bài yêu cầu học sinh phải biết vận dụng kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) để phân tích, bình giá, tổng hợp, khái quát vấn đề (Cụ thể: phân tích, nhận xét, đánh giá 2 nhân vật: anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa”, Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi” để tổng hợp khái quát vấn 13 đề: Vẻ đẹp trong công việc và trong đời sống tâm hồn, tình cảm. Để giúp học sinh làm tốt bài này, giáo viên hướng dẫn học sinh nhớ lại kiến thức từ hai tác phẩm qua việc so sánh. Học sinh cần giới thiệu được một cách khái quát về hai nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” ( Nguyễn Thành Long) và Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi ( Lê Minh Khuê). Tiếp đó nêu và phân tích được những đặc điểm của hai nhân vật: * Vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam được thể hiện qua các nhân vật: - Nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa”: + Trong công việc: anh là một người say mê công việc; có tinh thần trách nhiệm; có ý chí, nghị lực để vượt qua gian khổ; dũng cảm khi sống đơn độc giữa non xanh; biết lấy công việc làm niềm vui, thực sự hạnh phúc khi hiểu được ý nghĩa công việc của mình là sống có lí tưởng, hoài bão: sống là để cống hiến, phục vụ cho nhân dân, cho đất nước. + Trong cách sống, trong tâm hồn: Anh có cách sống giản dị, biết tổ chức cuộc sống khoa học, ngăn nắp, sạch sẽ; ham học hỏi, cần cù, chịu khó; giàu tình cảm; sống cởi mở, chân tình; và cũng rất khiêm tốn là: Đời sống tâm hồn phong phú, sôi nổi trẻ trung, lạc quan yêu đời. - Nhân vật Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi: + Trong công việc: Hoàn cảnh sống và công việc rất gian khổ, nguy hiểm nhưng cô vẫn tự nguyện, sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ, hi sinh, làm việc với một tinh thần trách nhiệm cao; đặc biệt trong giờ phút căng thẳng đối diện với cái chết, cô vẫn tở ra bình tĩnh, gan dạ, dũng cảm. + Trong đời sống tâm hồn, tình cảm: Dù sống trong hoàn cảnh ác liệt, căng thẳng, dữ dội nhất nhưng cô có một tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, vô tư, lạc quan, yêu đời; nhạy cảm, giàu mộng mơ, có tình cảm yêu mến, sự cảm phục và sẵn lòng giúp đỡ đồng đội trong tổ, trong đơn vị.. Từ sự tổng hợp kiến thức từ hai tác phẩm, học sinh khái quát được vấn đề nghị luận: Vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước qua hai nhân vật: anh thanh niên và Phương Định. Một người ở hậu phương, một người ở tiền tuyến nhưng cả hai có điểm chung là đều có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc; không ngai gian khổ hi sinh trong hoàn cảnh đơn độc hay ác liệt; sống có lí tưởn, sống là để cống hiến, phục vụ, sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cả hai nhân vật cùng có tinh thần dũng cảm, lạc quan, yêu đời, trẻ trung, sôi nổi hồn nhiên; giản dị, khiêm tốn. Qua hai nhân vật cho ta thấy: Vẻ đẹp của tuổi trẻ Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước mà hai nhà văn muốn khẳng định, ca ngợi. Chính từ cách so sánh đề tài giữa các tác phẩm như thế này, ta không chỉ giúp các em nhận ra cách khai thác đề tài của tác giả mà còn phát hiện được tài năng của các thi nhân, văn nhân qua cách xử lí đề tài. 2.3.4. Biện pháp 4: Rèn luyện kĩ năng so sánh cho học sinh ở cấp độ khuynh hướng tư tưởng ( Đối với học sinh giỏi). Văn học Việt Nam là sản phẩm tinh thần quí báu của dân tộc, phản ánh tâm hồn và tính cách Việt Nam với những nét bền vững đã thành truyền thống và có sự vận động trong trường kì lịch sử. Bởi vậy khi hướng dẫn học sinh cảm thụ các tác phẩm văn học, người dạy cần hướng dẫn các em nhận ra những nội 14 dung chủ đạo của văn học Việt Nam như: tinh thần yêu nước, ý thức cộng đồng; tinh thần nhân đạo; sức sống bền bỉ và tinh thần lạc quan. Vậy làm thế nào để học sinh nhận ra và hiểu sâu, nắm vững được những nội dung chủ đạo này của văn học nước nhà thì rất cần thao tác đối chiếu, so sánh, tích hợp, tổng hợp giữa các tác phẩm văn học. Để làm được tốt thao tác này thì ta cần tiến hành các bước: - Phát hiện những nội dung tư tưởng có trong từng tác phẩm. - So sánh giữa các tác phẩm để tìm ra những điểm giống và khác nhau khi biểu hiện nội dung tư tưởng đó. - Quy chiếu, tổng quát lại thành những nét nổi bật của văn học nước nhà. Chẳng hạn, khi hướng dẫn học sinh học tiết 167, 168, 169: Tổng kết Văn học, ở mục III: Mấy nét đặc sắc nổi bật của văn học Việt Nam ( Bài 34, trang 191, Ngữ văn 9, tập 2) thì giáo viên cần phải chỉ rõ cho học sinh nhận ra những biểu hiện của tinh thần yêu nước, tinh thần nhân đạo qua các tác phẩm văn học. Ở nội dung tinh thần nhân đạo trong các tác phẩm văn học Việt Nam ta có thể minh chứng điều này qua văn bản “Tức nước vỡ bờ”( trích “Tắt đèn”) của tác giả Ngô Tất Tố và “Lão Hạc” của nhà văn Nam Cao. Giáo viên giúp học sinh xác định tinh thần nhân đạo với các câu hỏi giúp học sinh phát hiện và củng cố: ? Chỉ ra những biểu hiện của tinh thần nhân đạo qua các đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” (trích “Tắt đèn”) - Ngô Tất Tố, “Lão Hạc” - Nam Cao? ? Từ đó so sánh và rút ra nhận xét về cách thể hiện nội dung nhân đạo trong các tác phẩm văn học? - Qua hoạt động học tập học sinh cần chỉ ra : Văn bản Biểu hiện của tinh thần nhân đạo - Qua đoạn trích Ngô Tất Tố cho thấy bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến trước Cách mạng tháng Tám ở Việt Nam với sưu cao thuế nặng khiến người dân lâm vào tình cảnh khốn đốn, cùng cực. Bên cạnh đó là sự ca ngợi những giá trị và phẩm chất của con người. Cùng với sự thông cảm và trân trọng của “Tức nước tác giả về người nông dân trong xã hội cũ, ông còn cho thấy cả sự vỡ bờ” tất yếu của quy luật xã hội: có áp bức thì có đấu tranh như là quy luật của tự nhiên: tức nước vỡ bờ. Vì thế “Tức nước vỡ bờ” (“Tắt đèn”) được coi là bản án đanh thép về chính sách thuế má bất công, vô lí đương thời. Qua đoạn trích này dường như nhà văn đã lờ mờ nhận ra con đường để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc chỉ có thể là bằng đấu tranh bằng bạo lực cách mạng. “Lão Hạc” - Với của nhà văn Nam Cao, ông lại đặc biệt quan tâm tới nhân tính, nhân phẩm của con người. Chính vì vậy ông đi sâu vào phân tích những bi kịch tinh thần của con người trong sự lựa chọn giữa sự sống - cái chết và nhân cách con người.Lão Hạc rơi vào hàng loạt những bi kịch. Vợ mất, con cũng phẫn chí bỏ làng, bỏ mình đi vì cái nghèo khiến nó không có tiền cưới được vợ. Mọi tình cảm dành cho con ông gửi cả vào kỉ vật nó để lại là con chó, nhưng lại một lần nữa cái đói nghèo lại cướp con chó ra khỏi lão khiến lão 15 thêm một lần đau đớn, dằn vặt… Bán chó có tiền rồi nhưng lão lại phân vân, xót xa khi nghĩ đến ăn vào số tiền đó và cả những tiền khác lão dành dụm lâu nay cho con. Lão quyết tâm không phiền luỵ đến hàng xóm. Lão cũng không thể theo gót Binh Tư, bán rẻ lương tâm để kiếm ăn qua ngày. Lão đã lặng lẽ chọn cho mình một con đường để bảo toàn nhân cách của mình thật khiến ta xót xa, đau đớn mà vô cùng cảm động: ăn bả chó tự tử! Cái chết của lão đã khẳng định cái đẹp của tâm hồn con người vẫn toả sáng trong xã hội đầy rẫy tối tăm, cạm bẫy. Nhân tính người dẫu rơi vào tận cùng của éo le, cùng quẫn vẫn không thể mất đi mà càng được khẳng định, tỏa sáng. Qua sự so sánh trên, học sinh sẽ nhận ra được sự gặp gỡ nhau về tấm lòng nhân đạo của Ngô Tất Tố và Nam Cao dành cho người nông dân trước Cách mạng. Điều đó được thể hiện ở sự cảm thông trước số phận khốn khổ, bất hạnh của người nông dân và sự trân trọng những vẻ đẹp ở họ. Đồng thời cũng giúp các em nhận ra được tư tưởng nhân đạo ấy lại không phải được các nhà văn thể hiện một cách rập khuôn, sáo mòn mà là cách thể hiện riêng biệt, sáng tạo mang đậm cách nhìn riêng của mỗi tác giả về con người, cuộc đời. Qua mỗi trang viết nhà văn muốn gửi tới độc giả những suy nghĩ, tư tưởng của mình về hiện thực cuộc sống với những mơ ước, khát vọng nhằm hướng tới sự đồng điệu tâm hồn ở người đọc. Cùng khuynh hướng tư tưởng nhân đạo song giữa các tác giả lại có những biểu hiện khác nhau. Tư tưởng nhân đạo tuy là cái nền của mỗi tác phẩm, là chân giá trị, là mẫu số chung của mọi tác phẩm, là điểm gặp gỡ giữa những nhà văn chân chính nhưng với mỗi tác giả cụ thể ta có thể thấy có những nét đặc sắc riêng. Chính vì mục đích sáng tác là vì con người và phục vụ con người nên các tác phẩm văn học dẫu ra đời không cùng thời đại hay thời gian cách xa nhau cả hàng mấy trăm năm, thậm chí hàng ngàn năm… song ở họ đều có mối liên hệ gần gũi, tương đồng. Mối gắn kết kì diệu đó chính là sự gặp gỡ nhau ở cảm xúc, ở các khuynh hướng tư tưởng. Chính vì vậy, khi hướng dẫn học sinh khai thác một tác phẩm văn học, người dạy cần hướng dẫn học sinh mở rộng ra ngoài tác phẩm bằng cách liên hệ so sánh khuynh hướng tư tưởng giữa các tác phẩm với nhau. Từ cách so sánh các khuynh hướng tư tưởng giữa các tác phẩm, không chỉ giúp học sinh củng cố sâu hơn tư tưởng của tác phẩm đang cảm thụ mà còn giúp các em mở rộng khả năng cảm thụ, có cái nhìn đa dạng phong phú hơn về phạm vi kiến thức từ một tác phẩm. Làm được điều này, chính là người giáo viên đang giúp các em phát huy trí tưởng tượng và sáng tạo tư duy trong học tập. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. Trong quá trình hướng dẫn cho học sinh thực hiện vận dụng kĩ năng so sánh trong làm bài văn nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), chúng tôi nhận thấy các em học sinh hứng thú hơn với giờ học Ngữ văn. Dường như không còn thái độ ngại ngùng khi các em làm các đề bài về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). Hướng dẫn cho học sinh thực hiện được các bước của kĩ năng so sánh trong bài văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) qua 16 thực hành các bài tập thì năng lực làm bài của học sinh cũng có những tiến bộ rõ rệt. Học sinh nắm vững hơn các kỹ năng làm văn, được tiếp cận với nhiều dạng đề, từ đó, rèn luyện nhiều thao tác nghị luận. Sau đó tôi tiếp tục tiến hành điều tra việc hiểu biết và vận dụng kĩ năng so sánh khi làm bài nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) ở học sinh thì đã có kết quả khả quan như sau: Kết quả tiết 48 (Kiểm tra truyện trung đại - học kỳ I): Lớp Sĩ số 9A 30 9B 30 Điểm 9 - 10 Tổng % số 2 7 3 10 Điểm 6,5 – 8,5 Tổng % số 15 50 19 63 Điểm 5,0 – 6,0 Tổng % số 11 36 8 27 Điểm 3,0 – 4,5 Tổng % số 2 7 0 0 Điểm dưới 3 Tổng % số 0 0 Kết quả tiết kiểm tra 120 (Viết bài tập làm văn số 6 - học kỳ II): Điểm Điểm Điểm Điểm Điểm dưới 9 - 10 6,5 – 8,5 5,0 – 6,0 3,0 – 4,5 3 Sĩ Lớp số Tổng Tổng Tổng Tổng Tổng % % % % % số số số số số 9A 30 2 7 14 46 12 40 2 7 0 9B 30 3 10 18 60 9 30 0 0 0 Bên cạnh đó kết quả thi học sinh giỏi của nhà trường bước đầu đã đạt được thành tích đáng khích lệ. Trong năm học 2015 - 2016, các em đội tuyển lớp 9 đạt 2 giải nhì, 2 giải ba, 5 giải khuyến khích cấp Huyện; lớp 8 đạt 1 giải nhất, 2 giải nhì, 2 giải ba, 6 giải khuyến khích cấp huyện; khối 7 đạt 1 giải nhì, 4 giải ba, 5 giải khuyến khích giao lưu cấp Cụm; kết quả thi vào 10 đạt tỉ lệ môn Ngữ văn từ 5 điểm trở lên là 95 % ( 60 em), trong đó có cả học sinh đạt điểm 9. Trong năm học 2016 - 2017, có 10 em đạt giải cấp Huyện, có 5 em được tham gia ôn luyện đội tuyển cấp tỉnh. Quả thực với chúng tôi, đó là nguồn khích lệ động viên vô cùng đáng quý sau bao thời gian thầy trò cùng nhau đồng hành trong những giờ học, mùa thi... III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ. 3.1. Kết luận: Từ thực tế giảng dạy, chúng tôi nhận thấy: - Kĩ năng so sánh có một tầm quan trọng đặc biệt trong việc nhận thức, rút ra những kết luận, những đánh giá về các hiện tượng văn học. - Kĩ năng so sánh còn mài sắc năng lực tư duy và năng lực cảm thụ, hướng đến việc phát hiện những vẻ đẹp độc đáo không lặp lại của văn học. Tuy nhiên muốn phát huy được kĩ năng này, người dạy phải hướng dẫn người học kinh nghiệm để thực hành kĩ năng so sánh có hiệu quả như: 17 - Phải có vốn kiến thức phong phú về văn học. Muốn có được điều này giáo viên phải hướng dẫn các em tích luỹ qua từng bài học, từng lớp học để xâu chuỗi có hệ thống về kiến thức văn học. - Bên cạnh vốn kiến thức là nền tảng, các em cần có một tư duy sắc sảo và trường liên tưởng nhạy bén. - Trong khi cảm thụ tác phẩm văn chương cần luôn có ý thức so sánh, có nghĩa là so sánh phải trở thành một phản xạ thường trực trong tư duy. Tuy vậy, để kĩ năng so sánh thực sự đạt hiệu quả trong quá trình cảm thụ văn bản, chúng tôi nghĩ rằng cần lưu ý một số yêu cầu sau: - So sánh phải hợp lí - nghĩa là đối tượng so sánh phải cùng một bình diện, một cấp độ. - So sánh phải có tính phát hiện, phải tìm ra được nét mới. Nghĩa là so sánh phải có mục đích, không nửa vời. - So sánh phải có mức độ, chừng mực, phù hợp với phạm vi biểu hiện của đối tượng. Để đạt hiệu quả cao chúng ta phải tuân thủ 4 biện pháp sau: Rèn luyện kĩ năng cho học sinh so sánh nhân vật văn học ở tác phẩm truyện( hoặc đoạn trích), rèn luyện kĩ năng cho học sinh so sánh ở cấp độ tác phẩm truyện( hoặc đoạn trích) , rèn luyện kĩ năng cho học sinh so sánh ở cấp độ đề tài, rèn luyện kĩ năng so sánh cho học sinh giỏi ở cấp độ khuynh hướng tư tưởng. Khi vận dụng các biện pháp rèn luyện kĩ năng so sánh nhằm nâng cao hiệu quả viết văn nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) cho học sinh lớp 9 trường THCS thị trấn Cành Nàng, huyện Bá Thước là cách mà từng bước chúng tôi hình thành, rèn luyện năng lực văn chương ở học sinh. Từ đó giúp các em thấy được vẻ đẹp của văn học, của đời, có tình cảm yêu thích bộ môn Ngữ văn và tình yêu văn học. Vì vậy, trong khuôn khổ của sáng kiến kinh nghiệm của cá nhân, tôi xin trân trọng giới thiệu cách thực hiện này tới các đồng nghiệp với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc cải tiến phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng bộ môn Ngữ văn ngày càng tốt hơn. 3.2. Kiến nghị: Chương trình thay sách giáo khoa của ngành giáo dục là một sự chuyển mình rất mạnh mẽ, mang lại những tiến bộ tích cực, thu hút được rất nhiều sự quan tâm của các cấp, ngành và nhân dân. Với vai trò là giáo viên trực tiếp giảng dạy Ngữ văn THCS nói chung và Ngữ văn 9 nói riêng. Tôi xin mạnh dạn có một số kiến nghị đề xuất: - Trong chương trình Ngữ văn 9 được xem là điểm kết thúc cho vòng 2 của chương trình THCS. Nó vừa tổng kết kiến thức, kĩ năng được học tập và rèn luyện trong bốn năm học cho học sinh vừa chuẩn bị cho kì thi cuối khoá; đồng thời tạo tâm thế, tiềm lực cho người học lên PTTH hoặc đi vào cuộc sống. Cho nên có vị trí, tầm quan trọng rất lớn. Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy kĩ năng so sánh trong tác phẩm văn chương có một tầm quan trọng lớn. Vì vậy, trong thời gian tới, ở chương trình sách giáo khoa chỉnh lí nên có bài dạy về kĩ năng so sánh khi cảm thụ tác phẩm văn học nói chung và nghị luận về tác phẩm truyện nói riêng. Đồng thời, chúng tôi rất mong có sự điều chỉnh về thời gian và kiến thức phù hợp với năng lực, tầm hiểu biết của học sinh. 18 - Các SKKN có chất lượng cao, mang tính thực tiễn ở huyện, tỉnh ... cần được đưa về các cơ sở để thảo luận và triển khai thực hiện nhằm nâng cao hơn nữa tầm hiểu biết kinh nghiệm dạy học của giáo viên. Tôi xin chân thành cảm ơn! Xác nhận của thủ trưởng đơn vị Bá Thước , ngày 2 tháng 04 năm 2017 ...................................................... Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, ...................................................... không sao chép nội dung của người khác. .......................................................... (Ký và ghi rõ họ tên)) Lê Thị Tâm 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan