Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số vấn đề pháp lý về kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động nhượng q...

Tài liệu Một số vấn đề pháp lý về kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động nhượng quyền thương mại

.PDF
113
68
103

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CHỬ THU HƢƠNG NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT CỦA BÊN NHƢỢNG QUYỀN TRONG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2012 3 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CHỬ THU HƢƠNG NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT CỦA BÊN NHƢỢNG QUYỀN TRONG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60.38.50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Nguyên Khánh Hà Nội – 2012 4 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN 5 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................ 3 MỤC LỤC .................................................................................................... 6 MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 9 CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ KIỂM SOÁT CỦA BÊN NHƢỢNG QUYỀN TRONG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI.......................................................................................... 14 1.1. Những vấn đề pháp lý về hoạt động NQTM.................................... 14 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại hoạt động NQTM ....................... 14 1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động NQTM: ................................................... 14 1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động NQTM: ................................................... 17 1.1.1.3. Phân loại hoạt động NQTM: .......................................................... 21 1.1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về NQTM ........................................ 28 1.1.2.1. Quy định về hình thức nhượng quyền và HĐNQ .......................... 28 1.1.2.2. Các quy định liên quan với sở hữu trí tuệ và cạnh tranh ............... 35 1.2. Những vấn đề pháp lý về kiểm soát của Bên nhƣợng quyền trong hoạt động NQTM ...................................................................................... 38 1.2.1. Cơ sở quyền kiểm soát của Bên nhượng quyền trong NQTM ......... 38 1.2.1.1. Cơ sở lý luận quyền kiểm soát của Bên nhượng quyền trong NQTM ......................................................................................................... 38 1.2.1.2. Cơ sở thực tiễn việc kiểm soát của bên nhượng quyền trong NQTM ..................................................................................................................... 41 1.2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền trong NQTM ....................................................................... 42 1.2.2.1. Quy định trong Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thương mại ................................................................................. 42 1.2.2.2. Quy định trong các văn bản pháp luật liên quan ............................ 43 6 CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT CỦA BÊN NHƢỢNG QUYỀN TRONG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM ................................................................................... 48 2.1. Thực trạng pháp luật về kiểm soát của bên nhƣợng quyền thông qua Luật thƣơng mại và các văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật thƣơng mại............................................................................................................... 48 2.1.1. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền thông qua các quy định về chủ thể của hợp đồng NQTM ............... 48 2.1.2 Thực trạng pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền thông qua các quy định về nội dung của hợp đồng NQTM ........................ 53 2.1.3 Thực trạng pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền thông qua các quy định về hình thức của hợp đồng NQTM ....................... 55 2.1.4 Thực trạng pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng NQTM ......................................................................................................... 57 2.1.5 Thực trạng pháp luật về kiểm soát của bên nhượng quyền thông qua các quy định về điều kiện pháp lý của việc giao kết hợp đồng NQTM và thời hạn, thay đổi và chấm dứt hợp đồng NQTM ....................................... 63 2.2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhƣợng quyền thông qua hợp đồng theo mẫu và điều kiện thƣơng mại chung. ......................................................................................................... 68 2.3. Thực trạng pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhƣợng quyền trong pháp luật về sở hữu trí tuệ và pháp luật cạnh tranh ................... 73 2.3.1. Thực trạng pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền trong pháp luật về sở hữu trí tuệ ................................................................. 73 2.3.2. Thực trạng pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền trong pháp luật cạnh tranh ........................................................................... 79 7 CHƢƠNG III: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT CỦA BÊN NHƢỢNG QUYỀN TRONG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................................. 90 3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh kiểm soát của bên nhƣợng quyền trong NQTM .................................................................... 90 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh NQTM nói chung trên quan điểm nhìn nhận, đánh giá khách quan những hạn chế, bất cập của pháp luật điều chỉnh NQTM của Việt Nam nói chung ....................................................... 90 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh NQTM trên cơ sở đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống pháp luật thương mại. ....................................................... 93 3.1.3. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại phải đáp ứng yêu cầu hội nhập .................................................................................. 94 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh kiểm soát của bên nhƣợng quyền trong NQTM .................................................................... 95 3.2.1 Sửa đổi, bổ sung một số quy định về NQTM trong Luật Thương mại 2005, các văn bản hướng dẫn Luật thương mại 2005 và các văn bản pháp luật liên quan ............................................................................................... 95 3.2.2 Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng NQTM ............................................................................................... 97 3.2.5 Hoàn thiện các quy định về sở hữu trí tuệ điều chỉnh hoạt động NQTM nói chung và kiểm soát của bên nhượng quyền nói riêng ............ 103 3.2.6 Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động NQTM dưới góc độ pháp luật cạnh tranh ........................................................................................... 104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 108 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhượng quyền thương mại (“NQTM”) là một phát triển tất yếu và là yêu cầu của kinh tế thị trường. Mô hình này đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Khi chủ động hội nhập quốc tế, , Việt Nam phải mở cửa cho các nước thành viên được giao dịch thương mại tại đất nước mình và phải thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO. Mô hình kinh doanh NQTM là một trong những dự báo được nhiều thương hiệu nổi tiếng trên thế giới quan tâm và có kế hoạch phát triển tại Việt Nam, đây là một khó khăn mà các doanh nghiệp phải đối mặt. Là một đất nước có nền kinh tế tăng trưởng cao suốt 5 năm qua, GDP bình quân 7,5%/năm, không có xung đột về tôn giáo, chính trị; một thị trường tiềm năng với dân số 84 triệu người, trong đó 70% số dân trong độ tuổi dưới 30, ẩn chứa tiềm năng lớn về tiêu thụ các sản phẩm tiêu dùng. Theo khảo sát của Tổng cục thống kê gần đây trong lĩnh vực tiêu dùng cho thấy, có 90% người tiêu dùng quyết định mua sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ thông qua thương hiệu và theo số liệu của Hội đồng nhượng quyền thương mại thế giới – WFC, năm 2006 Việt Nam được xếp là thị trường bán lẻ đứng thứ ba thế giới với sức mua khoảng 21 tỷ đô la Mỹ, có trên 70 hệ thống nhượng quyền đang họat động với tốc độ tăng trưởng mỗi năm khoảng 15 – 20%. Đây là xu hướng và cũng là cơ hội cho những doanh nghiệp Việt Nam muốn thử sức bằng các hình thức nhượng quyền. Những năm gần đây, hình thức “Nhượng quyền thương mại” không còn xa lạ và trở thành vấn đề gây chú ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nhìn một cách tổng quan, hoạt động nhượng quyền tại Việt Nam đã khởi sắc, hứa hẹn một thị trường đầy hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh các thương hiệu nhượng quyền nổi tiếng như Cà phê Trung Nguyên, Phở 24, Kinh Đô, Vissan…đã xuất hiện các thương hiệu 9 mới như thời trang Foci, Nino Max, chuỗi cửa hàng G7, Nước mía siêu sạch…Ngoài những thương hiệu trong nước, các thương hiệu nổi tiếng ở nước ngoài cũng tham gia thị trường nhượng quyền như KFC, Lotteria, Jollibee đã chuyển nhượng thành công tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Đặc biệt sau hội nhập, NQTM đang nóng lên từng ngày, nhiều tập đoàn lớn trên thế giới như Mc Donald‟s, cà phê Starbucks, cửa hàng tiện lợi Seven-Eleven, tập đoàn bán lẻ hàng đầu của Mỹ – WalMart… đang có kế hoạch xâm nhập thị trường Việt Nam. Việt Nam đang trong giai đoạn khởi động lĩnh vực NQTM nên tiềm năng phát triển trong lĩnh vực này còn rất lớn và chắc chắn sẽ tăng trưởng mạnh trong vài năm tới. Tuy nhiên, điều rất đáng lưu ý là, những tranh chấp trong hoạt động nhượng quyền thương mại đang ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong quá trình thực hiện quyền kiểm soát của bên nhượng quyền trong nhượng quyền thương mại. Sở dĩ có nguyên nhân này là vì, các quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại nói chung, về nội dung và phương thức kiểm soát của bên nhượng quyền nói riêng còn nhiều bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn và không phù hợp với thực tiễn phát triển hệ thống nhượng quyền ở Việt Nam hiện nay. Vì những lý do nêu trên, tác giả Luận văn đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Một số vấn đề pháp lý về kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động nhượng quyền thương mại” là đề tài Luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc Trong thời gian qua đã có các nghiên cứu liên quan đến nhượng quyền thương mại với các góc độ nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và mức độ khác nhau, có thể khái quát lại như sau: - Tác giả Vũ Đặng Hải Yến với nghiên cứu “Nhượng quyền thương mại trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh và sở hữu trí tuệ”. Nghiên cứu này có đề cập đến các quan điểm tư tưởng luật học về nhượng quyền 10 thương mại và pháp luật về nhượng quyền thương mại trong mối quan hệ với pháp luật sở hữu trí tuệ và pháp luật cạnh tranh; các văn bản pháp luật thực định của Việt Nam về nhượng quyền thương mại liên quan đến pháp luật sở hữu trí tuệ và pháp luật cạnh tranh; thực tiễn xây dựng, áp dụng pháp luật về nhượng quyền thương mại liên quan đến pháp luật sở hữu trí tuệ và pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam. - Tác giả Nguyễn Thị Vân với nghiên cứu “Hợp đồng nhượng quyền thương mại theo pháp luật Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”. Luận văn này khái quát chung về nhượng quyền thương mại và hợp đồng nhượng thương mại, nghiên cứu các vấn đề pháp lý cơ bản về hợp đồng nhượng quyền thương mại bao gồm quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng, việc gia hạn, chấm dứt và thời hạn của hợp đồng từ đó giúp các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng hiểu được bản chất của loại hợp đồng này cũng như đưa ra nhận định về quy định của pháp luật Việt Nam trong trường hợp liên quan; phân tích thực trạng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam và đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại. Hay tác giả Đỗ Tuyết Nhung với nghiên cứu “Pháp luật Việt Nam về hợp đồng nhượng quyền thương mại”, tập trung vào các vấn đề sau: lý luận hoạt động nhượng quyền thương mại nói chung và pháp luật điều chỉnh về hợp đồng nhượng quyền thương mại tại Việt Nam nói riêng; phân tích thực trạng thực trạng pháp luật hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay, đánh giá những ưu điểm cũng như những mặt còn hạn chế, tồn tại trong các quy định pháp luật hiện hành về hợp đồng nhượng quyền thương mại; đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi của pháp luật hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên tập trung khái quát về toàn bộ hệ thống pháp luật nhượng quyền thương mại mà chưa có nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu vấn đề kiểm soát của bên nhượng quyền. Đề tài “Một số 11 vấn đề pháp lý về kiểm soát của bên nhƣợng quyền trong hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại” là đề tài hoàn toàn mới chưa được ai nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của Luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý cơ bản về kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động thương mại; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động thương mại; để từ đó đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động thương mại ở nước ta hiện nay Để đạt được mục tiêu trên. Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau đây: - Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý cơ bản về nhượng quyền thương mại và kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động thương mại; - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động thương mại; - Nghiên cứu so sánh về pháp luật về kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động thương mại của Việt Nam với pháp luật của một số quốc gia trên thế giới; - Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động thương mại ở Việt Nam hiện nay. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài dựa trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật, đồng thời vận dụng đường lối, quan điểm, 12 định hướng của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phương pháp luận nghiên cứu trong đề tài này sử dụng phép biện chứng duy vật nhằm tổng kết, phản ảnh hiện thực những quy định của pháp luật của bên nhượng quyền trong hoạt động thương mại của Việt Nam hiện nay. Luận văn này cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu như thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích, … nhằm phục vụ cho nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu của đề tài nghiên cứu này. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu là hoạt động NQTM và pháp luật về kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động NQTM Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu: khi đánh giá thực tiễn, luận văn chỉ tiến hành khảo sát việc áp dụng các quy định pháp luật về kiểm soátcủa bên nhượng quyền đối với các hoạt động NQTM đã được đăng ký tại Việt Nam 6. Bố cục của Luận văn : Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, nội dung nghiên cứu được chia thành ba chương: Chương I : Những vấn đề pháp lý cơ bản về kiếm soát của bên nhượng quyền trong NQTM Chương II: Thực trạng pháp luật về kiểm soát của bên nhượng quyền trong NQTM ở Việt Nam Chương III: Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát của bên nhượng quyền trong NQTM ở Việt Nam hiện nay. 13 CHƢƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ KIỂM SOÁT CỦA BÊN NHƢỢNG QUYỀN TRONG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI 1.1. Những vấn đề pháp lý về hoạt động NQTM 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại hoạt động NQTM 1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động NQTM: Có xuất xứ từ châu Âu nhưng phát triển mạnh nhất tại Mỹ từ những năm 60, NQTM (còn gọi là NQTM) là một trong những hoạt động thương mại thu hút được sự chú ý của đông đảo các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực như kinh doanh đồ uống, đồ ăn, khách sạn, nhà hàng, thời trang, bất động sản, giáo dục, đào tạo … trên thế giới. Do sự khác biệt về quan điểm và môi trường kinh tế, chính trị, xã hội giữa các quốc gia, các định nghĩa về NQTM của các nước thường khác nhau. Theo từ điển Anh - Việt của Viện Ngôn ngữ học “NQTM có nghĩa là cho phép một thương nhân hoặc một doanh nghiệp chính thức được bán hàng hoá hay dịch vụ của một công ty ở một khu vực cụ thể nào đó”, trong khi đó Từ điển Webster của Anh thì định nghĩa “NQTM là một đặc quyền được trao cho một người hay một nhóm người để phân phối hay bán sản phẩm của chủ thương hiệu”. Do nằm trong khuôn khổ từ điển nên cả hai định nghĩa trên đều ngắn gọn nên chưa mô tả được hết nội dung của từ NQTM. Hội đồng Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (Federal Trade Commission) đã đưa ra định nghĩa “NQTM là một hợp đồng hay một thoả thuận giữa ít nhất hai người, trong đó người mua quyền thương mại được cấp quyền bán hay phân phối sản phẩm, dịch vụ theo cùng một kế hoạch hay hệ thống tiếp thu này gắn liền với nhãn hiệu, thương hiệu, biểu tượng, khẩu hiệu, tiêu chí, quảng cáo và những biểu tượng khác của chủ thương hiệu. Người mua quyền phải trả một khoản phí, trực tiếp hay gián tiếp, gọi là phí NQTM”. Định nghĩa này tuy đã khá dài và chi tiết nhưng một số nước vẫn đưa ra 14 nhiều định nghĩa khác mà nội dung có thêm một số ý mới. Trong cuốn “ Hướng dẫn NQTM tại Malaysia”, tác giả Awalan Abdul Aziz lại định nghĩa “NQTM là một hình thức tiếp thị và phân phối một sản phẩm hay dịch vụ dựa trên mối quan hệ giữa hai bên đối tác, một bên gọi là bên nhượng quyền hay bên bán quyền (franchisor) và một bên được gọi là bên được nhượng quyền hay bên mua quyền (NQTM). Bên mua quyền được cấp phép sử dụng thương hiệu của bên bán quyền để kinh doanh tại một địa điểm hay một khu vực nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định”. Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh quốc tế (the International Fanchise Association) đã định nghĩa NQTM như sau: “Nhượng quyền thương mại là mối quan hệ theo hợp đồng, giữa Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền, theo đó Bên nhượng quyền đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp của Bên nhận quyền trên các khía cạnh như bí quyết kinh doanh (know – how), đào tạo nhân viên; Bên nhận hoạt động dưới nhãn hiệu hàng hoá, phương thức, phương pháp kinh doanh do bên nhượng sở hữu hoặc kiểm soát”. Theo định nghĩa này, vai trò của Bên nhận quyền kinh doanh trong việc đầu tư vốn và điều hành doanh nghiệp được đặc biệt nhấn mạnh hơn so với trách nhiệm của Bên nhượng quyền. Trong khi đó, Liên minh Châu Âu EU lại định nghĩa NQTM theo hướng nhấn mạnh tới quyền của bên nhận. Mặc dù có ghi nhận vai trò của thương hiệu và hệ thống bí quyết kinh doanh của Bên nhượng quyền, định nghĩa này không đề cập tới những đặc điểm khác của việc NQTM. EU định nghĩa NQTM là “tập hợp những quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan tới nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết hoặc sáng chế sẽ được khai thác bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng”. Luật Mêhicô đề cập tới lợi ích của việc NQTM về mặt hỗ trợ kỹ thuật (technical assistance) và nhấn mạnh tới việc chuyển giao “kiến thức kỹ thuật” (technical knowledge) để bán sản phẩm hoặc dịch vụ đồng bộ và 15 có chất lượng. Luật sở hữu công nghiệp của Mêhicô có hiệu lực từ tháng 6/1991 quy định “NQTM tồn tại khi có sự chuyển giao kiến thức công nghệ hoặc hỗ trợ kỹ thuật để một người sản xuất, chế tạo hoặc bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ đồng bộ với các phương pháp vận hành (operative methods), các hoạt động thương mại hoặc hành chính đã được chủ thương hiệu (brand owner) thiết lập, với chất lượng, danh tiếng, hình ảnh của sản phẩm hoặc dịch vụ đã tạo dựng được dưới thương hiệu đó. Định nghĩa này phản ánh một phần quan điểm của Mêhicô là một nước đang phát triển có nhu cầu rất lớn trong việc nhập khẩu công nghệ và bí quyết kinh doanh từ nước ngoài. Tương tự như định nghĩa của EU, định nghĩa của Nga nhấn mạnh tới việc Bên nhượng chuyển giao một số quyền sở hữu trí tuệ độc quyền cho Bên nhận để đổi lấy những khoản phí nhất định mà không đề cập đến vai trò, nghĩa vụ của bên nhận và được thể hiện tại Chương 54, Bộ Luật dân sự Nga như sau “ Theo Hợp đồng NQTM, một bên (bên có quyền) phải cấp cho bên kia (bên sử dụng) quyền được sử dụng đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thương mại, quyền đối với bí mật kinh doanh và các quyền độc quyền theo hợp đồng đối với các đối tượng khác như nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ …với một khoản thù lao và theo một thời hạn xác định”. Tất cả các định nghĩa về NQTM trên đây đều dựa trên quan điểm cụ thể của các nhà làm luật tại mỗi quốc gia. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng các điểm chung trong tất cả những định nghĩa này là việc một Bên nhận phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng hoá, các đối tượng khác của quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống kinh doanh đồng bộ do một bên khác (Bên nhượng) phát triển và sở hữu. Để được phép làm việc này, bên nhận phải trả phí và chấp nhận một số hạn chế do bên nhượng quy định. Theo quan điểm của Việt Nam, tại mục 8, chương VI, Luật Thương mại (sửa đổi) được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005, NQTM được định nghĩa “là hoạt động thương mại, theo 16 đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây: - Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền. - Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh”. Định nghĩa này được xây dựng với mục đích xác định rõ phạm vi điều chỉnh hoạt động NQTM, trách nhiệm và nghĩa vụ của Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền ….và tương đối phù hợp với định nghĩa về NQTM của Hiệp hội NQTM quốc tế và của Liên minh châu Âu EU. 1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động NQTM: Theo quy định của Luật Thương mại Việt Nam năm 2005, có thể thấy rõ rằng về bản chất NQTM là “một hoạt động thƣơng mại”, trong đó bên nhượng quyền sẽ chuyển giao quyền sử dụng đối tượng nhượng quyền cho bên nhận quyền. Bên nhận quyền sau khi ký hợp đồng nhượng quyền (UFOC) được phép khai thác kinh doanh trên một không gian địa lý nhất định và phải trả một khoản phí chuyển nhượng cũng như tỷ lệ phần trăm doanh thu định kỳ cho bên nhượng quyền trong một khoảng thời gian nhất định. Điểm đặc trưng của hoạt động NQTM là tạo nên một mối quan hệ hợp tác cùng có lợi giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền trong việc cùng khai thác giá trị thương mại các đối tượng NQTM của bên nhượng quyền nhưng lại hoàn toàn riêng rẽ độc lập, không phụ thuộc nhau về mặt pháp lý và tài chính. Nói cách khác, NQTM là hoạt động thể hiện mối quan hệ hợp tác cả phụ thuộc lẫn bình đẳng, độc lập. NQTM là quan hệ phụ thuộc khi xem xét dưới góc độ là các sản phẩm, dịch vụ được phân phối từ Bên nhượng quyền đến Bên nhận quyền rồi đến người tiêu dùng; Quan hệ 17 NQTM là quan hệ bình đẳng khi xem xét dưới góc độ pháp lý, tài chính với nghĩa là các bên nhận quyền và bên nhượng quyền là các chủ thể độc lập với nhau về mặt pháp lý và tài chính, có sự cạnh tranh với nhau (và cạnh tranh cả với Bên nhượng quyền) ở cùng một cấp độ cạnh tranh trong việc đưa sản phẩm, dịch vụ đến người tiêu dùng. Bảng 1. Sự khác biệt cơ bản giữa Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền Điểm khác biệt Bên nhƣợng quyền Bên nhận quyền I- Sự khác biệt cơ - Sở hữu thương hiệu; - Được cấp giấy phép sử bản dụng thương hiệu; - Cung cấp hỗ trợ (đào - Điều hành cửa hàng tạo, quảng cáo, tiếp thị); với sự giúp đỡ của chủ - Nhận phí nhượng thương hiệu; quyền. - Trả phí nhượng quyền. II- Chức năng, nhiệm vụ: 1. Chọn mặt bằng Hỗ trợ Chọn với sự đồng ý của chủ thương hiệu 2. Thiết kế Cung cấp mẫu thiết kế Áp dụng mẫu thiết kế trả phí 3. Nhân viên Giới thiệu hỗ trợ Tuyển dụng, giám sát, điều hành 4. Thực đơn Xây dựng, quy định Thay đổi khi được chấp thuận 5. Giá Đề nghị tư vấn 6. Nguồn cung cấp Có thể yêu cầu Bên Phối hợp, tuân theo nhận quyền mua hàng của mình hoặc mua theo chỉ định nguồn cung cấp cho hệ thống NQTM 18 Quyết định hoặc yêu cầu theo các tiêu chuẩn nhất định. 7. Quảng cáo Thiết kế chương trình, Trả phí quảng cáo. Phải yêu cầu đóng góp 8. Kiểm soát chất Xây dựng tiêu chuẩn. lượng được chấp thuận Huấn luyện nhân viên. Đào tạo nhân viên thanh Triển khai giám sát hàng tra. ngày. Việc xem xét sự khác biệt của hoạt động NQTM với một số hoạt động thương mại khác dưới đây sẽ giúp hiểu rõ hơn về bản chất của hoạt động NQTM. a- NQTM và bán hàng đa cấp: Bán hàng đa cấp là một hình thức kinh doanh mới xuất hiện ở Việt Nam trong mấy năm gần đây. Bản chất của hình thức bán hàng đa cấp là tiếp thị để bán lẻ hàng hoá thông qua mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau, hàng hoá được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia; người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận. Tuy bán hàng đa cấp và NQTM đều là hình thức phát triển kinh doanh thông qua một mạng lưới bán lẻ, nhưng trên thực tế bản chất của bán hàng đa cấp và NQTM là rất khác nhau, thể hiện ở một số điểm sau đây: - Khi NQTM thì Bên nhượng quyền được phép thu một khoản phí dưới danh nghĩa phí gia nhập mạng lưới NQTM, phí đào tạo và các khoản phí khác cho việc xây dựng mở cửa hàng … Trong khi đó, theo hình thức bán hàng đa cấp, ngoài khoản phí đặt cọc (để mua hàng hóa), người tham 19 gia không phải trả bất kỳ khoản phí nào kể cả dưới danh nghĩa khóa học, khoá đào tạo, hội thảo, hoạt động xã hội hay các hoạt động tương tự khác. - Khi kinh doanh theo nhượng quyền thì bên nhận quyền bắt buộc phải mở cửa hàng với cách trang trí, cách phục vụ đồng nhất với bên nhượng quyền. Trong khi theo hình thức bán hàng đa cấp thì người tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp không cần thời gian cố định, địa điểm cố định mà họ hoạt động rất cơ động trên thị trường này đến thị trường khác vào bất kể thời gian nào. - Theo phương thức NQTM thì lợi nhuận của Bên nhận quyền là doanh thu từ hoạt động kinh doanh của mình. Còn với phương thức bán hàng đa cấp, lợi nhuận nằm ở phần trăm hoa hồng được hưởng từ công ty bán hàng đa cấp (công ty bán hàng đa cấp trả hoa hồng cho người tham gia tuỳ theo công sức đóng góp). - NQTM là một phương thức kinh doanh rất được khuyến khích phát triển ở nhiều nước trên thế giới, còn bán hàng đa cấp bị kiểm soát rất chặt chẽ bởi Nhà nước. b- NQTM và đại lý bán hàng hoá: Hoạt động NQTM và đại lý bán hàng hoá có nhiều nét mà nhìn về hình thức là giống nhau. Trên thực tế thì nhiều người không phân biệt được một cửa hàng đại lý với một cửa hàng kinh doanh nhượng quyền. Tuy nhiên, về bản chất thì NQTM và đại lý bán hàng hoá là tương đối khác nhau. Đại lý bán hàng là việc bên đại lý nhận hàng của bên nhượng đại lý để bán và hưởng thù lao do bên nhượng đại lý trả trên cơ sở thoả thuận giữa các bên trong hợp đồng đại lý. Thù lao đại lý là khoản tiền do bên nhượng đại lý trả cho bên đại lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá. Trong hình thức đại lý bán hàng thì Bên nhượng đại lý có quyền ổn định giá mua, giá bán hàng hoá đại lý, nhưng đồng thời cũng có trách nhiệm trả thù lao cho Bên đại lý, bên đại lý không phải trả phí cho bên 20 nhượng đại lý khi trở thành đại lý của bên nhượng đại lý. Ngược lại trong quan hệ NQTM, Bên nhận quyền phải trả phí cho bên nhượng quyền khi trở thành Bên nhận quyền của Bên nhượng quyền. Và điều khác nhau quan trọng nhất là trong suốt quá trình làm đại lý, bên đại lý được hưởng thù lao do bên nhượng đại lý trả thì ngược lại với quan hệ NQTM trong quá trình sản xuất, kinh doanh theo nhượng quyền, Bên nhận quyền phải trả phí theo định kỳ (tính theo tỷ lệ phần trăm doanh thu) cho Bên nhượng quyền. Một điểm khác nhau nữa là cách trang trí của đại lý là hoàn toàn theo ý thích của chủ cửa hàng đại lý, còn việc trang trí cửa hàng nhượng quyền là phải tuân theo những tiêu chuẩn, quy cách thống nhất do Bên nhượng quyền đặt ra. c- NQTM và bán hàng qua hệ thống cửa hàng chi nhánh: Trong hoạt động NQTM thì Bên nhận quyền là các chủ thể kinh doanh độc lập với bên nhượng quyền về mặt tài chính và pháp lý. Ngược lại, việc bán hàng qua hệ thống các cửa hàng chi nhánh thì các cửa hàng chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp, kể cả chức năng đại diện theo uỷ quyền. Các cửa hàng chi nhánh thực hiện các hoạt động kinh doanh phụ thuộc vào Bên nhượng quyền cả về mặt pháp lý, tài chính, toàn bộ quyền sở hữu các cửa hàng chi nhánh là thuộc về doanh nghiệp. 1.1.1.3. Phân loại hoạt động NQTM: Về mặt lý thuyết, muốn phân loại đầy đủ các hình thức hoạt động NQTM cần phải dựa trên cơ sở hệ thống các tiêu chí về bản chất của hoạt động NQTM; phạm vi lãnh thổ hoạt động của hoạt động NQTM (hoạt động NQTM trong nước và hoạt động NQTM ra nước ngoài); đối tượng kinh doanh NQTM (sản phẩm hàng hoá, sản phẩm dịch vụ …) và thậm chí cả mức độ kiểm soát của bên nhượng quyền với bên nhượng quyền. Tuy nhiên, trong phạm vi của đề tài, việc phân loại chủ yếu dựa theo tiêu chí về bản chất của hoạt động NQTM. 21 a. Căn cứ vào bản chất của NQTM mà có thể phân loại hoạt động NQTM theo hai hình thức sau: * Nhượng quyền phân phối sản phẩm : Nhượng quyền phân phối sản phẩm là loại hình NQTM, trong đó bên nhận quyền chỉ giới hạn ở việc bán các sản phẩm được sản xuất và mang nhãn hiệu của Bên nhượng quyền. Theo hình thức NQTM này thì bên nhượng quyền trực tiếp thực hiện việc sản xuất sản phẩm và phân phối sản phẩm đó cho bên nhận quyền để bên nhận quyền bán cho người tiêu dùng dưới nhãn hiệu của bên nhượng quyền và trong các cửa hàng mang biển hiệu của bên nhượng quyền. Đối với hình thức nhượng quyền này, bên nhận quyền thường không nhận được sự hỗ trợ đáng kể nào từ phía chủ thương hiệu ngoại trừ việc được phép sử dụng tên nhãn hiệu (trade mark), thương hiệu (trade name), biểu tượng (logo), khẩu hiệu (slogan) và phân phối sản phẩm hay dịch vụ của bên chủ thương hiệu trong một phạm vi khu vực và thời gian nhất định. Điều này có nghĩa bên nhận quyền sẽ quản lý điều hành cửa hàng nhượng quyền của mình khá độc lập, ít bị ràng buộc nhiều bởi những quy định từ phía chủ thương hiệu. Bên nhận quyền trong trường hợp này thậm chí có thể cải tiến cung cách phục vụ và kinh doanh theo ý mình. * Nhượng quyền phương pháp kinh doanh (NQTM trọn gói): Nhượng quyền phương pháp kinh doanh là loại NQTM mà Bên nhượng quyền cho phép Bên nhận quyền thực hiện hoạt động kinh doanh đối với tất cả các đối tượng NQTM của mình như thực hiện kinh doanh dưới tên thương mại, nhãn hiệu của Bên nhượng quyền và sử dụng toàn bộ phương pháp quản lý và thực hiện kinh doanh, bao gồm tất cả các yếu tố cần thiết để hoạt động kinh doanh với các hoạt động đào tạo, trợ giúp cần thiết dựa trên những cơ sở được xác định trước. Bản chất của loại hình NQTM trọn gói là bên nhận quyền mua quyền sử dụng các bí quyết kỹ thuật, bí mật thương mại, kinh nghiệm, phương 22
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan