Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái phạm theo pháp luật hình sự việt nam ...

Tài liệu Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái phạm theo pháp luật hình sự việt nam luận văn ths. luật

.PDF
102
113
71

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ NGỌC MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁI PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ NGỌC MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁI PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành Mã số : Luật hình sự : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. Lê Văn Cảm Hà nội – 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lê Thị Ngọc MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Trang LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT 1.1 MỞ ĐẦU 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI PHẠM 7 Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa pháp lý hình sự của tái 7 phạm 1.1.1 Khái niệm tái phạm 7 1.1.2 Các đặc điểm cơ bản của tái phạm 12 1.1.3 Ý nghĩa pháp lý hình sự của tái phạm 17 1.2 Các hình thức tái phạm 21 1.2.1 Tái phạm 22 1.2.2 Tái phạm nguy hiểm 22 1.2.3 Tái phạm đặc biệt nguy hiểm 23 1.3 Phân biệt tái phạm với các dạng khác của đa (nhiều) tội phạm 24 1.3.1 Phân biệt tái phạm với phạm tội nhiều lần 25 1.3.2 Phân biệt tái phạm với phạm nhiều tội 28 1.3.3 Phân biệt tái phạm với phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 30 1.4 Tính nguy hiểm đáng kể của tái phạm và sự cần thiết phải trừng phạt 33 nghiêm khắc đối với tái phạm 1.4.1 Tính nguy hiểm đáng kể của tái phạm 33 1.4.2 Sự cần thiết phải trừng phạt nghiêm khắc đối với tái phạm 35 1.5 Quy định về tái phạm trong luật hình sự của một số nước trên thế giới 36 Kết luận chương 1 43 Chương 2. CÁC QUY ĐỊNH VỀ TÁI PHẠM TRONG PHÁP 46 LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1 Các quy định về tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam 46 2.1.1 Các quy định về tái phạm từ năm 1945 đến trước năm 1985 46 2.1.2 Các quy định về tái phạm từ năm 1985 đến nay 50 2.2 Thực tiễn áp dụng chế định tái phạm trong quá trình giải quyết các vụ 62 án hình sự ở Việt Nam hiện nay 2.2.1 Tình hình áp dụng chế định tái phạm 62 2.2.2 Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng chế định tái phạm 68 và nguyên nhân Kết luận chương 2 78 Chương 3. VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH TÁI PHẠM 81 TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH NÀY TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 3.1 Vấn đề hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam 81 3.1.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật hình sự 81 Việt Nam 3.1.2 Phương hướng hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật hình sự 83 Việt Nam 3.2 Vấn đề hướng dẫn áp dụng chế định tái phạm trong quá trình giải 86 quyết các vụ án hình sự 3.3 Một số giải pháp phối hợp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định 87 tái phạm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự Kết luận chương 3 89 KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Ký hiệu viết tắt Ý nghĩa BLHS Bộ luật Hình sự TNHS Trách nhiệm hình sự TANDTC Tòa án nhân dân tối cao VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao TP Tái phạm TPNH Tái phạm nguy hiểm MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại tới các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Khi một hành vi đã bị Nhà nước coi là tội phạm (biểu hiện bằng việc quy định nó là một tội danh trong luật hình sự) thì nhất định người thực hiện hành vi ấy phải chịu sự trừng phạt. Sự trừng phạt tội phạm bằng các chế tài hình sự - biện pháp xử lý nghiêm khắc nhất của Nhà nước là rất cần thiết nhằm trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội; khôi phục lại công bằng, trật tự cho xã hội; răn đe, ngăn ngừa sự phát sinh những tội phạm mới. So với tội phạm thông thường thì tái phạm là trường hợp phạm tội thể hiện tính nguy hiểm cho xã cao hơn bởi vì tái phạm có nghĩa là sự phạm tội lần nữa của người trước đây đã từng phạm tội và bị kết án về hành vi phạm tội ấy. Tính nguy hiểm không phải chỉ thể hiện ở chỗ người này thực hiện nhiều tội phạm mà quan trọng hơn nữa là người phạm tội đã từng gánh chịu biện pháp xử lý về hình sự, từng được cơ quan chức năng giáo dục, cải tạo nhưng không ăn năn, hối cải. Vì vậy, tái phạm bị coi là một yếu tố đặc biệt xấu trong nhân thân người phạm tội và được quy định là một tình tiết làm tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người phạm tội ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Không có ai có thể nghi ngờ về tính đúng đắn, công bằng và cần thiết của đường lối xử lý nghiêm khắc hơn đối với người tái phạm so với trường hợp phạm tội thông thường. Nhận thức được tính nguy hiểm cao cho xã hội trong trường hợp tái phạm và sự cần thiết phải xử lý hình sự nghiêm khắc hơn đối với người tái phạm, nhà làm luật nước ta đã sớm quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985 và tái khẳng định trong BLHS năm 1999 về tái phạm là tình tiết tăng nặng TNHS. Ngoài ra, tái phạm cũng là tình tiết định tội hoặc định khung tăng nặng trong nhiều quy định của hai Bộ luật này. Ngoài quy định trong hai lần pháp điển hóa luật hình sự nói trên, Nhà nước ta cũng ban hành 1 một số văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến việc áp dụng chế định tái phạm. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng chế định này bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập như: xác định nhầm lẫn tái phạm, bỏ lọt tái phạm, không thống nhất về áp dụng tái phạm giữa các cơ quan áp dụng pháp luật... Tình trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: thiếu sót của các quy định pháp luật về tái phạm, tính phức tạp tự thân của trường hợp tái phạm, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật... Tuy vậy nhưng trên tất cả các phương diện lý luận, lập pháp cũng như thực tiễn vấn đề này chưa được quan tâm, nghiên cứu, khắc phục, dẫn đến tình trạng hiệu quả áp dụng của chế định tái phạm chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì những lý do đó nên tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái phạm theo luật hình sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. Khi thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến tái phạm, góp phần hoàn thiện chế định tái phạm trong luật hình sự Việt Nam, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong thực tế giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Mặc dù còn tồn tại những thiếu sót về mặt lập pháp cũng như khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng nhưng trên phương diện lý luận chế định tái phạm vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức để tìm ra giải pháp khắc phục toàn diện những vấn đề đó. Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, công phu và đầy đủ ở cấp độ một cuốn sách chuyên khảo, một luận văn thạc sĩ hay một luận án tiến sĩ về đề tài này. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay, tái phạm mới chỉ được nghiên cứu chung trong chế định nhiều (đa) tội phạm với tư cách là một dạng của chế định này. Ví dụ như được đề cập đến trong sách tham khảo “Chế định 2 nhiều tội phạm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Lê Văn Đệ xuất bản năm 2003 bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hay được phân tích trong mục III - Chế định nhiều (đa) tội phạm, chương IV về Tội phạm trong Sách chuyên khảo Sau đại học: “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự - Phần chung” của PGS.TSKH. Lê Văn Cảm do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2005. Tái phạm cũng được nghiên cứu với tư cách là một trong các tình tiết tăng nặng TNHS trong các giáo trình luật hình sự của các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật hoặc các sách bình luận khoa học về phần chung bộ luật hình sự. Chẳng hạn như “Giáo trình luật hình sự Phần chung” của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2001 do TSKH. Lê Văn Cảm chủ biên. Hay “Giáo trình luật hình sự Việt Nam” Tập 1 của Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 2007 bởi tại Nhà xuất bản Công an nhân dân. Hoặc gần đây nhất là sách “Bình luận khoa học BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 - Phần chung” do TS. Nguyễn Đức Mai chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2012. Tuy nhiên, trong các sách này thường chỉ đơn thuần phân tích nội dung quy định pháp luật hình sự thực định về tái phạm. Tái phạm còn được đề cập đến trong một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật như: “Hoàn thiện chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm” của tác giả Nguyễn Thị Xuân (Tạp chí Tòa án nhân dân số 9 năm 2001); “Những quan điểm khác nhau khi xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo quy định của BLHS năm 1999 và Nghị quyết số 32/1999/NQ- QH10”của tác giả Nguyễn Thị Mai (Tạp chí Tòa án nhân dân số 1 năm 2003); “Xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong các tội chiếm đoạt có yếu tố đã bị kết án” của tác giả Nguyễn Chí Công (Tạp chí Tòa án nhân dân số 15 năm 2004); “Xóa án tích với việc xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh (Tạp chí Tòa án nhân dân số 23 năm 2005)... Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở cấp độ các bài viết hẹp, đề cập đến một khía cạnh của chế định tái phạm hay một vài trường hợp áp dụng cụ thể của chế định nay. Có thể nói rằng, cho đến nay Luận văn 3 “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái phạm theo luật hình sự Việt Nam” là công trình đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ và cũng là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu về những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn liên quan đến chế định tái phạm ở Việt Nam hiện nay. 3. Phạm vi nghiên cứu đề tài Tái phạm có thể được nghiên cứu bởi nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau như: khoa học luật hình sự, khoa học thi hành án, tội phạm học… Dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào những vấn đề sau: 1) Về nội dung: Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tái phạm; phân tích quá trình phát triển và nội dung quy định về tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam cũng như đánh giá tình hình thực tiễn áp dụng chế định này ở nước ta, làm rõ những nguyên nhân của tình hình đó. Trên cơ sở những nghiên cứu này, đề xuất các giải pháp hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật nước ta và nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này. 2) Về thời gian và không gian liên quan đến đối tượng nghiên cứu: Đối với các quy định pháp luật Việt Nam về tái phạm, luận văn giới hạn nghiên cứu trong khoảng từ năm 1945 đến nay. Đối với thực tiễn áp dụng chế định tái phạm, luận văn tổng hợp và đánh giá số liệu xét xử trên toàn quốc trong thời gian từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực thi hành (năm 2000) đến nay. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Với mục đích làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tái phạm, tìm ra giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về tái phạm và nâng cao hiệu quả áp dụng chúng, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau: 1) Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tái phạm như: xây dựng khái niệm khoa học về tái phạm, tìm ra các đặc điểm cơ bản của tái phạm, ý nghĩa pháp lý hình sự của chế định này; so sánh, phân biệt tái phạm với các hình thức đa tội phạm khác, chứng tỏ sự cần thiết phải trừng phạt nghiêm khắc hơn đối với tái phạm so với các trường hợp phạm tội thông thường; nghiên cứu tham 4 chiếu quy định trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về tái phạm. 2) Phân tích quá trình hình thành, phát triển và nội dung quy định về tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. 3) Thống kê, phân tích tình hình áp dụng chế định tái phạm trong xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2011; đánh giá kết quả áp dụng, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong áp dụng tái phạm và nguyên nhân của chúng cả về mặt lập pháp cũng như thực tiễn. 4) Từ kết quả nghiên cứu trên, đề xuất các giải pháp hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật hình sự nước ta, hướng dẫn áp dụng chế định này trong thực tiễn cũng như kiến nghị một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm tái phạm nói riêng. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, phương pháp tổng hợp, đồng thời ứng dụng những thành tựu của khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự, tội phạm học, xã hội học pháp luật... trong các công trình của các nhà khoa học - luật gia ở trong và ngoài nước. Ngoài ra đề tài còn sử dụng trung thực các số liệu thống kê của các cơ quan áp dụng pháp luật, các sách tham khảo, tạp chí chuyên ngành để làm rõ những tri thức khoa học liên quan đến đề tài. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương như sau: - Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tái phạm. - Chương 2: Các quy định về tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng. - Chương 3: Vấn đề hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam và hướng dẫn áp dụng chế định này trong quá trình giải quyết 5 các vụ án hình sự. Nghiên cứu về tái phạm đòi hỏi đồng thời sự am hiểu sâu sắc khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự nói riêng và cả những kiến thức liên ngành về xã hội học pháp luật, tội phạm học. Nghiên cứu đề tài cũng yêu cầu khối lượng lớn thời gian, công sức nghiên cứu cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn của tình hình tội phạm tái phạm. Do chưa thể đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi đó nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được và xin chân thành cảm ơn các ý kiến phê bình, đóng góp của mọi độc giả quan tâm đến luận văn! 6 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI PHẠM Để đánh giá và hoàn thiện một chế định pháp luật không có cách nào khác hơn là nghiên cứu so sánh nội dung quy định của chế định này với những nhận thức lý luận chuẩn mực và thực tiễn áp dụng của chính nó. Theo đó, để đánh giá và hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) hiện nay về tái phạm, trước tiên phải nghiên cứu sâu sắc những vấn đề lý luận về tái phạm làm cơ sở đối sánh. Những vấn đề lý luận cơ bản nhất về tái phạm cần phải làm rõ bao gồm: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa pháp lý hình sự của tái phạm; tính nguy hiểm và sự cần thiết phải trừng phạt nghiêm khắc đối với trường hợp tái phạm. 1.1. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa pháp lý hình sự của tái phạm 1.1.1. Khái niệm tái phạm Tái phạm là một tình tiết tăng TNHS thuộc nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong quyết định hình phạt. Tuy nhiên, về mặt lý luận, khái niệm tái phạm chưa được các nhà khoa học quan tâm xây dựng. Trong các nghiên cứu liên quan đến tình tiết này người ta thường sử dụng định nghĩa pháp lý về tái phạm được quy định bởi BLHS. Tuy nhiên, vì mục đích đánh giá chính quy định của BLHS về tái phạm bao gồm định nghĩa pháp lý nêu trên nên trong nghiên cứu này cần phải xây dựng một khái niệm chuẩn về tái phạm để làm cơ sở so sánh. Thuật ngữ “tái phạm” trong tiếng Anh “ricidivism” có nguồn gốc từ “recidivus” trong tiếng Latinh, có nghĩa là sự lặp lại [40; tr.1083]. Còn trong tiếng Việt, về mặt ngữ nghĩa, “tái phạm” là một từ ghép Hán Việt được cấu thành bởi hai từ “tái” và “phạm”. Trong đó “phạm” có nghĩa là “làm tổn hại tới điều cần gìn giữ”, “mắc phải điều cần né tránh” [37; tr.1235]. Những điều cần gìn giữ, cần né tránh đó thường được xác định bởi những quy phạm xã hội như kỷ luật, pháp luật, đạo đức… Nói cách khác, “phạm” là làm điều không nên làm, điều không được làm, trái với các quy phạm xã hội. Còn “tái” là “lại một lần 7 nữa”, “lần thứ hai” [37; tr.1417]. Ghép hai từ lại, tái phạm có nghĩa là lại một lần nữa/lần thứ hai vi phạm quy tắc. Trong thực tiễn, tái phạm có thể được sử dụng để mô tả sự lặp lại hành vi vi phạm các loại quy tắc điều chỉnh xã hội khác nhau nhưng chủ yếu và phổ biến nhất là được sử dụng để chỉ sự lặp lại hành vi vi phạm pháp luật. Dưới góc độ tội phạm học, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm cho rằng “tái phạm (hay tái phạm tội) là sự phạm tội trở lại của kẻ phạm tội đã mãn hạn tù hoặc thi hành xong hình phạt” [38; tr.683]. Trong khái niệm này tái phạm có nghĩa là tái phạm tội, tức sự phạm tội trở lại, phạm tội lần nữa của người phải thi hành và đã thi hành xong một hình phạt. Theo đó một hành vi phạm tội có tính chất tái phạm khi thỏa mãn các điều kiện sau: 1) Trước đây người phạm tội đã từng phạm tội, đã bị kết án và theo bản án kết tội đó họ phải chịu hình phạt (có thể là hình phạt tù hoặc một hình phạt nào khác); 2) Lần phạm tội này xảy ra khi chủ thể đã thi hành xong hình phạt nói trên. Theo quan điểm này thì người bị kết án nhưng được miễn hình phạt hay người bị kết án nhưng chưa thi hành hoặc chưa thi hành xong hình phạt mà phạm tội trở lại thì không phải là tái phạm. Chúng tôi có thể đồng ý về trường hợp người được miễn hình phạt mà sau đó phạm tội trở lại thì không coi là tái phạm vì người được miễn hình phạt đương nhiên được xóa án tích, không có án tích, nghĩa là trước pháp luật người đó chưa từng phạm tội. Như vậy, xét trên phương diện thực tế việc một người phạm tội sau khi được miễn hình phạt là phạm tội lần nữa nhưng về mặt pháp lý thì người đó được coi như phạm tội lần đầu, không phải là tái phạm. Nhưng trường hợp người đã bị kết án, phải chịu hình phạt, khi chưa thi hành hay chưa thi hành xong hình phạt đã phạm tội trở lại thì không giống như vậy. Khi bản án kết tội một người có hiệu lực pháp luật thì bất kể người đó đã thi hành hình phạt hay chưa đều bị coi là người phạm tội. Về mặt nhân thân người đó có dấu hiệu đã từng phạm tội cho đến khi nào được xóa án 8 tích. Người đã từng phạm tội mà sau đó phạm tội lần nữa thì có nghĩa là tái phạm mà không liên quan đến việc người đó đã chấp hành xong hình phạt hay chưa. Ví dụ: A bị kết án tù do phạm tội cướp, trong thời gian ở trại cải tạo A lại phạm tội cố ý gây thương tích cho bạn tù. Hành vi phạm tội cố ý gây thương tích dứt khoát phải là hành vi có tính chất tái phạm. Hoặc B phạm tội cho vay nặng lãi bị Tòa án tuyên hình phạt tiền. Bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng hình phạt tiền đối với B chưa được thi hành thì B lại bị bắt vì cho vay nặng lãi. Hành vi phạm tội lần sau của B dứt khoát phải là hành vi tái phạm mặc dù B chưa thi hành xong hình phạt đối với hành vi phạm tội lần trước. Do vậy, theo chúng tôi việc lấy dấu hiệu đã chấp hành xong hình phạt để làm căn cứ xác định tái phạm là không chính xác. Tương tự với quan điểm của GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, nhà tội phạm học Mỹ Michael D.Maltz cho rằng: “Người tái phạm là người sau khi mãn hạn tù (vì đã thực hiện một tội phạm) không hoàn lương mà thay vào đó họ lặp lại lối ứng xử cũ và tiếp tục phạm tội” [39; tr.54]. Quan điểm này thậm chí còn hẹp hơn quan điểm trên vì theo Maltz: chỉ người đã từng phạm tội, bị tuyên hình phạt tù, đã thi hành xong hình phạt tù mà thực hiện tội phạm lần nữa mới là tái phạm. Tức là hành vi được coi là tái phạm khi thỏa mãn hai điều kiện: 1) Người phạm tội trước đây đã từng phạm tội, đã bị kết án tù vì hành vi phạm tội đó; 2) Lần phạm tội này được thực hiện khi người đó đã thi hành xong hình phạt tù nói trên. Theo đó những người đã bị kết án nhưng chỉ phải chịu hình phạt khác, không phải hình phạt tù hoặc người bị kết án phạt tù nhưng chưa thi hành xong mà lại phạm tội mới thì không phải là tái phạm. Việc lấy dấu hiệu thi hành xong hình phạt (mà ở đây còn chỉ gồm hình phạt tù) để xác định tái phạm rõ ràng là chưa hợp lý như đã phân tích ở trên. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, khái niệm tái phạm lần đầu tiên được nhắc đến ở cuốn “Đại Nam hình pháp” của TS. Lê Trung Chánh xuất bản 9 năm 1943: “Khi nào đã làm một điều phi vi, Tòa án đã xét xử xong rồi, và án đã chung thẩm rồi, đã thành bất canh cải rồi, mà lại làm điều phi vi nữa thì mới được gọi là tái phạm” [10; tr.102]. Khái niệm này mô tả tái phạm rất đơn giản, rõ ràng, đi thẳng vào bản chất của tái phạm là sự phạm tội lần nữa. Tuy đơn giản nhưng trong khái niệm này các điều kiện của tái phạm được xác định một cách chặt chẽ gồm: 1) Người phạm tội trước đây đã từng phạm tội (đã làm một điều phi vi); 2) Tội phạm mà người ấy thực hiện trước đây đã bị xét xử (Tòa án đã xét xử xong rồi) và bản án đã có hiệu lực pháp luật (án đã chung thẩm rồi, đã thành bất canh cải rồi); 3) Tội phạm lần này được thực hiện sau khi bản án đối với tội phạm trước đây có hiệu lực. Những điều kiện để xác định tái phạm ở đây được cho là chặt chẽ bởi vì theo nguyên nghĩa của tái phạm là sự phạm tội lần nữa thì dứt khoát người tái phạm phải là người đã từng phạm tội. Mà một người chỉ bị coi là phạm tội khi bị có bản án kết tội có hiệu lực của tòa án có thẩm quyền. Đây là nguyên tắc pháp luật được nhân loại tiến bộ thừa nhận chung. Do vậy, Tiến sĩ Lê Trung Chánh cho rằng tái phạm là việc một người trước kia đã phạm tội, đã bị xét xử và bản án kết tội người đó đã có hiệu lực pháp luật mà nay lại phạm tội mới. Tuy nhiên, có một vấn đề mà tác giả chưa đề cập đến, đó là điều kiện về án tích. Trường hợp người đã từng phạm tội, đã bị kết án và bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng sau khi thi hành bản án họ đã được xóa án tích rồi mới phạm tội lần nữa. Rõ ràng khi đã được xóa án tích thì trước pháp luật người đó chưa từng phạm tội cho dù thực tế trước đó đã phạm tội, đã bị kết án. Nhưng sự thiếu sót này không phải do tác giả tư duy phiến diện mà do ở thời đại của ông trong khoa học pháp lý và pháp luật hình sự Việt Nam chưa hề có ý niệm về án tích và xóa án tích. Bên cạnh đó, cách diễn đạt trong khái niệm của TS. Lê Trung Chánh là văn phong nói, các thuật ngữ sử dụng khá nôm na và có nhiều sự lạc hậu so với khoa 10 học pháp lý hiện đại. Chẳng hạn như: “đã làm một điều phi vi” (nghĩa là đã từng phạm một tội); “Tòa án đã xét xử xong rồi” (nghĩa là đã bị Tòa án xét xử về tội đó); “và án đã chung thẩm rồi, đã thành bất canh cải rồi” (nghĩa là bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật); “mà lại làm điều phi vi nữa” (nghĩa là lại phạm tội mới). Có quan điểm gần tương đồng với TS. Lê Trung Chánh, tác giả Đàm Trung Mộc trong cuốn “Hình luật tập giảng” xuất bản năm 1961 đưa ra khái niệm: “Tái phạm là tình trạng một người trước đã bị kết án về một tội, về sau lại phạm và bị truy tố nữa” [20; tr.82]. Cũng cho rằng tái phạm là hành vi phạm tội mới của người trước kia đã từng phạm một tội và đã bị kết án về tội đó nhưng trong khái niệm này không đưa ra điều kiện bản án kết tội đó phải đã có hiệu lực pháp luật khi chủ thể thực hiện tội phạm mới. Khi bản án kết tội một người chưa có hiệu lực pháp luật nghĩa là người đó chưa có tội; người chưa có tội mà phạm tội thì không phải là tái phạm. Do vậy, tuy quan điểm gần nhau nhưng về điều kiện của tái phạm thì khái niệm của tác giả Đàm Trung Mộc ít chặt chẽ hơn khái niệm của TS. Lê Trung Chánh phân tích ở trên. Bên cạnh đó, tác giả này cũng không đề cập đến điều kiện người phạm tội chưa được xóa án tích của lần phạm tội trước. Tóm lại, tái phạm (tái phạm tội) phải là hành vi phạm tội lần nữa của người đã từng phạm tội. Người đã từng phạm tội ở đây là dấu hiệu về mặt pháp lý chứ không phải thực tế. Người đã từng phạm tội trên phương diện pháp lý hình sự là người đã bị kết tội bởi một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền và chưa được xóa án tích. Theo đó, một hành vi phạm tội bị coi là tái phạm khi đáp ứng các điều kiện sau: Thứ nhất, người phạm tội là người đã từng bị kết án về một tội phạm nào đó theo quy định pháp luật và bản án kết tội ấy phải đã có hiệu lực pháp luật; Thứ hai, tội phạm đang xét xử phải được thực hiện sau khi bản án kết tội lần trước có hiệu lực pháp luật; Thứ ba, bản án kết tội lần trước để lại án tích, đến thời điểm thực hiện tội phạm 11 mới này án tích đó vẫn chưa được xóa. Chỉ khi nào đáp ứng những điều kiện chung đó một hành vi phạm tội mới bị coi là có tính chất tái phạm. Tất nhiên, phải khẳng định đây là những điều kiện chung về mặt lý luận phản ánh bản chất của hành vi tái phạm còn tình tiết tái phạm trong pháp luật mỗi quốc gia được quy định với những điều kiện, dấu hiệu riêng theo quan điểm của nhà lập pháp. Ví dụ như, có quan điểm coi mọi hành vi phạm tội lần nữa của người đã từng phạm tội là tái phạm nhưng có quan điểm chỉ coi là tái phạm khi tội phạm mới được thực hiện với lỗi cố ý. Hoặc có quan điểm coi cho rằng ngoài những điều kiện chung, tái phạm còn được xác định trên căn cứ là loại hình phạt, mức hình phạt mà người phạm tội phải gánh chịu ở lần phạm tội cũ hoặc lần tái phạm, hoặc cả hai lần… Như vậy, về mặt lý luận, một cách rõ ràng nhất: Tái phạm là trường hợp của người đã từng bị kết tội bởi một bản án có hiệu lực pháp luật, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội lần nữa. Pháp luật hình sự thực định có thể thêm những điều kiện, dấu hiệu khác khi xác định tái phạm theo quan điểm của các nhà làm luật nhưng dứt khoát phải bảo đảm những điều kiện chung có trong khái niệm này thì mới phản án đúng bản chất của tái phạm. 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của tái phạm Tái phạm là một trong các tình tiết tăng nặng TNHS, nó mang những đặc điểm chung của các tình tiết tăng nặng TNHS và cũng có những đặc điểm riêng làm cho nó khác biệt với các tình tiết tăng nặng TNHS khác. Đặc điểm thứ nhất: với tư cách là một tình tiết tăng nặng TNHS, tái phạm phải được quy định trong pháp luật hình sự thực định. Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS, bao gồm tái phạm, sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý theo hướng bất lợi hơn cho người bị xét xử nên việc xác định và áp dụng chúng không thể tùy tiện. Để buộc tội hay tăng nặng biện pháp xử phạt đối với người phạm tội luôn luôn phải căn cứ trên pháp luật thực định trong khi để gỡ tội hay giảm nhẹ biện pháp xử phạt cho người phạm tội Tòa án, ngoài pháp luật thực định, có thể dựa 12 trên những căn cứ hợp lý khác. Đây là một nguyên tắc pháp luật quốc tế đã được thừa nhận chung. Khoản 2 Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp quốc nêu: “Không ai bị kết tội hình sự vì một hành vi hay sự tắc trách không bị coi là một tội hình sự theo quy định của luật pháp quốc gia hay quốc tế vào thời điểm đó. Cũng như không cho phép áp dụng hình thức xử phạt đối với một tội hình sự nặng hơn so với quy định của luật pháp lúc bấy giờ cho mức độ phạm tội cụ thể như vậy”. Điều 15 Công ước của Liên Hợp quốc về những quyền chính trị, dân sự năm 1966 tiếp tục khẳng định: “Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay quốc tế áp dụng hồi đó; mà cũng không bị tuyên cáo một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian phạm pháp. Tuy nhiên bị cáo được quyền hưởng hình phạt khoan hồng hơn chiếu theo luật mới ban hành sau ngày phạm pháp”. Do vậy, tái phạm với tư cách là một tình tiết tăng nặng TNHS “nhất thiết phải được các nhà làm luật ghi nhận chỉ trong pháp luật hình sự thực định (mà ở nước ta là trong Bộ luật hình sự năm 1999), chứ không thể trong các văn bản pháp lý nào khác hoặc không thể do Tòa án tự xem xét để cân nhắc (như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự)” [35; tr.36]. Đặc điểm thứ hai: tình tiết tái phạm chỉ xuất hiện (có mặt) trong vụ án cụ thể, đối với người phạm tội cụ thể chứ không phải là yếu tố bắt buộc phải xem xét ở mọi vụ án, đối với mọi người phạm tội. Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm là đặc điểm chung về mặt lập pháp, là các thuộc tính điển hình và chủ yếu hơn cả, đặc trưng cho tội phạm ấy [7; tr.334] phải xem xét đối với mọi hành vi phạm tội và được áp dụng ngang nhau đối với mọi cá nhân phạm tội. Ngược lại, tái phạm nói riêng và các tình tiết tăng nặng TNHS nói chung không có đặc tính điển hình, phổ biến như vậy. Không phải vụ phạm tội nào cũng có tình tiết tái phạm và ngay trong những vụ phạm tội có tình tiết tái phạm thì cũng không phải tất cả những người phạm tội đó đều tái phạm. Ví dụ A và B cùng nhau đi cướp, A 13 có một tiền án về cướp còn B phạm tội lần đầu thì chỉ có A phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS do tái phạm, không thể áp dụng chung tình tiết đó cho B dù họ cùng bị xem xét TNHS về một cấu thành tội phạm. Đặc điểm thứ ba: sự có mặt của tình tiết tái phạm không làm thay đổi bản chất của tội phạm mà chỉ làm thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đó và tác động đến biện pháp TNHS sẽ áp dụng theo hướng nghiêm khắc hơn (nhưng vẫn trong phạm vi cấu thành tội phạm tương ứng). Nếu cấu thành tội phạm là công thức gồm những thành phần bắt buộc để làm nên một món ăn thì tái phạm chỉ là gia vị gây ảnh hưởng đến độ đậm nhạt của món ăn đó chứ không làm nó trở thành món ăn khác. Ví dụ một người đang mang tiền án về tội cướp tài sản nay lại phạm tội trộm tài sản thì hành vi trộm tài sản đó có tính chất tái phạm nhưng nó vẫn được định tội danh là trộm tài sản chứ không phải cướp tài sản hay bất kỳ tội danh nào khác. Tình tiết tái phạm chỉ làm cho hành vi phạm tội có tính nguy hiểm hơn và người phạm tội bị áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc hơn nhưng chỉ trong phạm vi của cấu thành tội phạm tương ứng. Tức là người phạm tội phải chịu mức cao của khung hình phạt nhưng cũng không vượt qua mức tối đa mà khung hình phạt đã quy định và không được là loại hình phạt khác mà khung hình phạt không quy định. Đặc điểm thứ tư: Trong trường hợp tái phạm đã được quy định làm yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt đối với một tội phạm tương ứng cụ thể thì nó không thể được xem xét với tư cách là tình tiết tăng nặng TNHS nữa. Khi tái phạm là một tình tiết định tội của một tội phạm cụ thể có nghĩa là nó thuộc yếu tố cấu thành bắt buộc của tội phạm ấy. Sự có mặt hay không có mặt của nó khi đó làm thay đổi hoàn toàn tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, khiến hành vi bị coi là một tội phạm hoặc không phải là một tội phạm. Tình tiết làm thay đổi tính chất (nguy hiểm) của hành vi đó sẽ không được sử dụng như một tình tiết làm thay đổi mức độ (nguy hiểm) nữa vì nguyên tắc Không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm. Ví dụ: theo Điều 248 của BLHS năm 1999 (sửa đổi năm 2009) quy định về tội đánh bạc thì để bị 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan