ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHÍ THÀNH CHUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHÍ THÀNH CHUNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP
PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số
: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Võ Khánh Vinh
HÀ NỘI - 2010
môc lôc
Trang
Trang phô b×a
Lêi cam ®oan
Môc lôc
Danh môc c¸c tõ viÕt t¾t
Danh môc c¸c biÓu ®å
1
më ®Çu
Ch-¬ng 1:
Mét sè vÊn ®Ò lý luËn vÒ quyÕt ®Þnh h×nh
6
ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc
1.1.
Ph¹m téi cã tæ chøc
6
1.1.1.
Kh¸i niÖm ph¹m téi cã tæ chøc
6
1.1.2.
Ph©n biÖt kh¸i niÖm "ph¹m téi cã tæ chøc" víi mét sè kh¸i
niÖm kh¸c cã liªn quan
14
1.2.
QuyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc
20
1.2.1.
Kh¸i niÖm quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t
20
1.2.2.
Kh¸i niÖm quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi
cã tæ chøc
25
1.3.
C¸c nguyªn t¾c vµ C¨n cø quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng
hîp ph¹m téi cã tæ chøc
32
1.3.1.
C¸c nguyªn t¾c quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m
téi cã tæ chøc
32
1.3.2.
C¨n cø quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ
chøc
48
1.3.2.1. C¸c quy ®Þnh cña Bé luËt h×nh sù
51
1.3.2.2. TÝnh chÊt, møc ®é nguy hiÓm cho x· héi cña hµnh vi ph¹m téi
55
1.3.2.3. Nh©n th©n ng-êi ph¹m téi cã tæ chøc
60
1.3.2.4. C¸c t×nh tiÕt gi¶m nhÑ, t¨ng nÆng tr¸ch nhiÖm h×nh sù
65
1.3.2.5. TÝnh chÊt ph¹m téi cã tæ chøc
69
1.3.2.6. TÝnh chÊt, møc ®é tham gia ph¹m téi cña tõng ng-êi ph¹m
téi cã tæ chøc
73
1.4.
Quy ®Þnh vÒ quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi
cã tæ chøc theo luËt h×nh sù mét sè n-íc trªn thÕ giíi
74
1.4.1.
LuËt h×nh sù Céng hßa Liªn bang §øc
74
1.4.2.
LuËt h×nh sù n-íc Céng hßa nh©n d©n Trung Hoa
78
1.4.3.
LuËt h×nh sù Liªn bang Nga
80
Ch-¬ng 2: Thùc tiÔn quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng
85
hîp ph¹m téi cã tæ chøc
2.1.
Thùc tr¹ng quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã
tæ chøc
85
2.1.1.
Thùc tr¹ng ph¹m téi cã tæ chøc trªn ®Þa bµn thµnh phè Hµ Néi
85
2.1.2.
Thùc tr¹ng quyÕt ®Þnh h×nh ph¹m trong tr-êng hîp ph¹m téi
cã tæ chøc
92
2.1.2.1. QuyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc nh÷ng kÕt qu¶ quan träng
92
2.1.2.1. Mét sè h¹n chÕ trong viÖc quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng
hîp ph¹m téi cã tæ chøc
95
2.2.
Nh÷ng nguyªn nh©n cña c¸c h¹n chÕ cña quyÕt ®Þnh h×nh
ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc
106
2.2.1.
H¹n chÕ vÒ tr×nh ®é, n¨ng lùc, tr¸ch nhiÖm cña ThÈm ph¸n,
Héi thÈm nh©n d©n ngµnh Tßa ¸n
106
2.2.2.
H¹n chÕ trong c¸c quy ®Þnh ph¸p luËt hiÖn hµnh liªn quan ®Õn
quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc
109
Ch-¬ng 3:
C¸c gi¶i ph¸p nh»m n©ng cao hiÖu qu¶
116
quyÕt ®Þnh H×nh ph¹t trong tr-êng hîp
ph¹m téi cã tæ chøc
3.1.
Hoµn thiÖn c¸c quy ®Þnh ph¸p luËt cã liªn quan ®Õn ph¹m téi
cã tæ chøc vµ quyÕt ®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m
téi cã tæ chøc
116
3.1.1.
Hoµn thiÖn c¸c quy ®Þnh ph¸p luËt cã liªn quan ®Õn ph¹m téi
cã tæ chøc
116
3.1.2.
Hoµn thiÖn c¸c quy ®Þnh ph¸p luËt cã liªn quan ®Õn quyÕt
®Þnh h×nh ph¹t trong tr-êng hîp ph¹m téi cã tæ chøc
119
3.2.
N©ng cao chÊt l-îng ThÈm ph¸n, Héi thÈm nh©n d©n ngµnh
Tßa ¸n nh©n d©n
120
3.2.1.
N©ng cao chÊt l-îng ®éi ngò ThÈm ph¸n ngµnh Tßa ¸n nh©n d©n
120
3.2.2.
N©ng cao chÊt l-îng ®éi ngò Héi thÈm nh©n d©n
132
KÕt luËn
136
danh môc tµi liÖu tham kh¶o
141
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bé luËt h×nh sù
CTTP
: CÊu thµnh téi ph¹m
TNHS
: Tr¸ch nhiÖm h×nh sù
XHCN : X· héi chñ nghÜa
Danh môc c¸c biÓu ®å
Sè hiÖu
biÓu ®å
Tªn biÓu ®å
Trang
2.1
æ nhãm ®· triÖt xãa trªn ®Þa bµn thµnh phè Hµ Néi tõ
n¨m 2004 - 2008
87
2.2
Sè vô ¸n ph¹m téi cã tæ chøc vµ sè bÞ c¸o xÐt xö s¬ thÈm
t¹i Tßa ¸n nh©n d©n thµnh phè Hµ Néi giai ®o¹n 2005-2010
93
2.3
C¬ cÊu téi ph¹m ®-îc thùc hiÖn b»ng h×nh thøc ph¹m téi
cã tæ chøc xÐt xö s¬ thÈm t¹i Tßa ¸n nh©n d©n thµnh phè
Hµ Néi giai ®o¹n 2005-2009
93
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có tính nguy hiểm cao
nhất. Phạm tội có tổ chức được phân biệt với các hình thức đồng phạm khác
bởi dấu hiệu có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cố ý cùng tham gia thực
hiện một tội phạm. Sự liên kết chặt chẽ đó tạo ra những điều kiện vật chất và
tinh thần cho những người phạm tội có tổ chức hành động phạm tội một cách
tinh vi, táo bạo và liều lĩnh hơn. Đồng thời, sự bàn bạc thỏa thuận trước với
nhau về kế hoạch thực hiện tội phạm, che giấu tội phạm làm cho chúng khó bị
phát giác, gây nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong phạm tội có tổ chức, tội phạm được thực hiện do sự hợp tác, nỗ
lực của tất cả những người tham gia. Hành vi của mỗi người là một khâu, một
bộ phận cần thiết trong hoạt động chung đó. Do vậy, những người phạm tội
có tổ chức phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm. Tuy nhiên, khi
giải quyết trách nhiệm hình sự của những người phạm tội có tổ chức đòi hỏi
phải có sự phân hóa trách nhiệm hình sự vì mỗi người phạm tội có tổ chức
không chỉ có sự tham gia vào vụ đồng phạm với tính chất và mức độ khác
nhau mà còn có những đặc điểm riêng về nhân thân. Quyết định hình phạt
trong phạm tội có tổ chức là một trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt.
Tính chất đặc biệt của trường hợp này là ở chỗ Tòa án không chỉ định ra biện
pháp xử lý tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi của một bị cáo đã thực hiện mà cho nhiều bị cáo trong một vụ án về một
hoặc nhiều tội phạm mà họ đã cùng câu kết chặt chẽ để thực hiện. Do vậy, khi
quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, Tòa án không chỉ
tuân thủ các quy định về các căn cứ quyết định hình phạt áp dụng cho tất cả
các trường hợp phạm tội nói chung mà còn phải tuân thủ các quy định đặc thù
áp dụng riêng cho trường hợp đồng phạm có tổ chức.
1
Phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm. Vì vậy, các quy định
về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm cũng chính là các quy
định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Ở nước
ta, ngay từ khi chưa có Bộ luật hình sự (BLHS), trong một số văn bản pháp
luật cũng đã đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt trong trường hợp đồng
phạm và phạm tội có tổ chức. Cho đến nay, trong cả hai BLHS, quyết định
hình phạt trong phạm tội có tổ chức được chính thức quy định tại Khoản 4
điều 17 BLHS 1985 và được kế thừa tại Điều 53 BLHS 1999. Tuy nhiên, các
quy định này của BLHS chỉ quy định quyết định hình phạt trong trường hợp
đồng phạm mà chưa chỉ ra các căn cứ đặc thù được áp dụng để quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức. Mặt khác, về mặt lý luận
cũng như thực tiễn áp dụng quy định này còn tồn tại những quan điểm khác
nhau về các căn cứ quyết định hình phạt riêng áp dụng trong trường hợp đồng
phạm nói chung và phạm tội có tổ chức nói riêng. Trong thực tiễn xét xử, một
số cơ quan điều tra, truy tố, xét xử có sự nhầm lẫn phạm tội có tổ chức với các
hình thức đồng phạm khác, không có sự thống nhất trong các tiêu chí nhận
dạng hình thức đồng phạm đặc biệt này. Điều này cũng đã dẫn đến việc quyết
định hình phạt không chính xác đối với người phạm tội. Hơn nữa, khi các cơ
quan tố tụng đã xác định đúng về trường hợp phạm tội có tổ chức thì lại có sự
tranh chấp trong việc đánh giá tính chất của đồng phạm có tổ chức, tính chất,
mức độ tham gia của từng người vào việc phạm tội. Về mặt lý luận, các quy
định của Bộ luật hình sự hiện hành về phạm tội có tổ chức còn quá chung
chung, các dấu hiệu chủ yếu mang tính định tính. Trong khi đó, các văn bản
hướng dẫn thực thi pháp luật còn ít, tính cập nhật không cao. Vì vậy, việc
nghiên cứu một cách hệ thống về mặt lý luận chế định quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm tội có tổ chức, trên cơ sở đó giải quyết những vướng
mắc mà thực tiễn đặt ra, đề xuất những phương án hoàn thiện pháp luật về
quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức, đảm bảo sự nhận
thức thống nhất trong thực thi pháp luật là vấn đề mang tính cấp bách, có ý
2
nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật về quyết định hình
phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, dưới góc độ pháp lý hình sự, một số nhà hình sự học đã
nghiên cứu về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ
chức. Đó là những công trình của các tác giả như: Giáo sư, Tiến sĩ Võ Khánh
Vinh, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Thị Sơn, Tiến sĩ Trần Quang Tiệp, Giáo sư,
Tiến sĩ khoa học Lê Cảm, Tiến sĩ Dương Tuyết Miên... Tuy nhiên, các công
trình này chủ yếu đề cập đến vấn đề quyết định hình phạt trong trường hợp
đồng phạm và ở một chừng mực nhất định có nghiên cứu về vấn đề quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức như là một trường hợp
đặc biệt. Hiện nay, chưa có một công trình độc lập nghiên cứu về quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức với tư cách là một chế định
độc lập với những đặc điểm về quyết định hình phạt riêng. Vì vậy, quyết định
hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức vẫn đang là một vấn đề cần
được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ về mặt lý luận một cách có
hệ thống và toàn diện về chế định quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm tội có tổ chức; phân tích một cách khoa học các căn cứ riêng áp dụng để
quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm nói chung và phạm tội có
tổ chức nói riêng; đưa ra những dấu hiệu đặc thù để quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm tội có tổ chức; phân tích, đánh giá thực tiễn quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức... để từ đó đóng góp về
mặt khoa học giải quyết những vấn đề vướng mắc trong thực tiễn xây dựng và
áp dụng pháp luật về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ
chức, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của chế định này.
3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của Luận văn gồm các vấn đề lý luận và thực
tiễn pháp lý về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức
theo Luật hình sự Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu là các vấn đề pháp lý có liên quan tới quyết
định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức trong luật hình sự Việt
Nam trong Bộ luật hình sự năm 1999 dưới góc độ luật hình sự, cả lý luận và
thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội, giai đoạn từ năm 2005 đến
năm 2010.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài này là các thành tựu của các chuyên ngành
khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội học pháp
luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học trong các
công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài đăng trên tạp chí của các
nhà khoa học - luật gia Việt Nam và nước ngoài.
Ngoài ra để góp phần phân tích khoa học nhằm làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và vai trò của hành vi nguy hiểm cho xã hội trong thực tiễn xác
định tội phạm và định tội danh nêu trên tác giả còn sử dụng các văn bản pháp
luật của Nhà nước, cũng như những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo
của thực tiễn xét xử trong các văn bản thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do
TANDTC và các cơ quan bảo vệ pháp luật ở trung ương ban hành mà ở các
mức độ khác nhau các văn bản này đều có liên quan đến đề tài cần nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin để từ đó soạn
thảo, xây dựng, đề cập đến những vấn đề tương ứng dưới các luận điểm tư
tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế,
4
tính tối thượng của pháp luật và bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền tự do
của công dân bằng hệ thống tư pháp hình sự ở Việt Nam với tính chất là các
giá trị xã hội cao quí nhất được thừa nhận chung vốn có của loài người và của
nền văn minh nhân loại.
Bên cạnh đó trong quá trình nghiên cứu tác giả còn sử dụng đồng bộ
các phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương
ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, phương
pháp logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp tổng hợp, phương
pháp đối chiếu, phương pháp so sánh, phương pháp chứng minh v.v... Trong
đó luận văn đặc biệt coi trọng các phương pháp hệ thống, lịch sử, phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học… qua đó
rút ra những kết luận, đề xuất phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ
luật hình sự có liên quan đến quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội
có tổ chức.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm tội có tổ chức.
Chương 2: Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội
có tổ chức.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quyết định hình
phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT
TRONG TRƢỜNG HỢP PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
1.1. PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
1.1.1. Khái niệm phạm tội có tổ chức
Phạm tội có tổ chức lần đầu tiên được đề cập đến trong Thông tư số
442/TTg ngày 19/1/1955 của Thủ tướng Chính phủ. Trong Thông tư này, phạm
tội có tổ chức được gọi là "Cướp đường hay trộm có tổ chức", "đánh bị thương
có tổ chức". Tuy nhiên, Thông tư lại không giải thích thế nào là "có tổ chức".
Pháp lệnh ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm phạm sở hữu xã
hội chủ nghĩa (XHCN) và Pháp lệnh ngày 21/10/1970 về trừng trị các tội xâm
phạm sở hữu riêng của công dân, phạm tội có tổ chức chỉ được quy định là
tình tiết tăng nặng định khung hình phạt và không có định nghĩa cụ thể. Điều
này gây khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp luật trong việc thực thi hai
pháp lệnh trên. Trước thực tế đó, ba ngành Công an, Kiểm sát, Tòa án đã dự
thảo Thông tư ngày 16/3/1973 hướng dẫn nhận thức thống nhất về hai pháp
lệnh này. Thông tư đã định hướng nhận thức về khái niệm phạm tội có tổ
chức như sau:
… Phải xuất phát từ đặc điểm, tình hình phạm tội ở nước ta
mà hiểu như thế nào là phạm tội có tổ chức. Đây là một hình thức
cộng phạm của hai hay nhiều người, trong đó có một số tên cầm đầu
hoặc đóng vai trò chủ chốt, cùng bàn bạc trước việc thực hiện một
hoặc nhiều tội phạm nào đó, thủ đoạn phạm tội thường là tinh vi,
xảo quyệt, vai trò của từng tên phân công giữa bọn chúng trong
nhiều trường hợp có thể không dứt khoát, rõ ràng; Hoặc lợi dụng
hay nấp dưới danh nghĩa một tổ chức công khai để bàn bạc về việc
thực hiện tội phạm; hoặc có khi chúng không bàn bạc nhau trước,
6
nhưng do quan hệ công tác hàng ngày nên hiểu ý đồ nhau rồi cùng
hành động phạm tội, mặc nhiên cấu kết chặt chẽ. Cần chú ý phân biệt
hình thức phạm tội có tổ chức với hình thức cộng phạm thông thường
trong đó không có sự bàn bạc, phân công chặt chẽ trước, không có
vai trò cầm đầu chủ chốt, thủ đoạn phạm tội đơn giản [63, tr. 239].
Như vậy, theo dự thảo thông tư này, phạm tội có tổ chức trước tiên là
một hình thức cộng phạm của hai hay nhiều người, trong đó có sự phân công
vai trò của từng người cộng phạm, có vai trò cầm đầu, chủ chốt, có sự bàn bạc
trước khi thực hiện một hay nhiều tội phạm, thủ đoạn phạm tội thường là tinh
vi xảo quyệt...
Sau nhiều lần pháp điển hóa, tại Khoản 3 Điều 17 BLHS 1985 và
Khoản 3 Điều 20 BLHS 1999 đều quy định: "phạm tội có tổ chức là hình thức
đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội
phạm".
Việc BLHS ghi nhận định nghĩa phạm tội có tổ chức đánh dấu bước
phát triển về kỹ thuật lập pháp hình sự, thể hiện thái độ nghiêm khắc của
Đảng và Nhà nước trong việc đấu tranh với hình thức đồng phạm có tính nguy
hiểm cao này. Tuy nhiên, định nghĩa này vẫn còn chung chung, trừu tượng.
Cụm từ "câu kết chặt chẽ" được nhận định không thống nhất giữa các cơ quan
tiến hành tố tụng. Vì vậy, sau khi BLHS 1985 lần đầu tiên quy định định
nghĩa về phạm tội có tổ chức, ngày 16/11/1988 trong Nghị quyết 02/HĐTP
hướng dẫn bổ sung Nghị quyết 02/HĐTP ngày 05/01/1986 đã giải thích:
Phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa những
người cùng thực hiện tội phạm. Trong thực tế, sự câu kết này thể
hiện dưới các dạng sau đây:
a) Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm
tội như đảng phái, hội đoàn phản động, băng ổ, nhóm trộm cướp…
có những tên chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức
7
phạm tội không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp
những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động
phạm tội.
b) Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều
lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước.
c) Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần
nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính
toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi
còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm [65, tr. 76].
Nghị quyết ra đời trong bối cảnh có nhiều cách hiểu khác nhau về
phạm tội có tổ chức, nên có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Tuy nhiên, những hướng
dẫn này chỉ nêu lên được những trường hợp điển hình của hình thức đồng
phạm có tổ chức. Hướng dẫn còn hạn chế khi chưa khái quát được những dấu
hiệu chung của mọi trường hợp phạm tội có tổ chức. Sau Nghị quyết này,
không một văn bản pháp lý nào giải thích về khái niệm phạm tội có tổ chức.
Khoản 3 Điều 20 BLHS 1999 kế thừa nguyên vẹn khái niệm phạm tội
có tổ chức đã được ghi nhận trong BLHS 1985, vì vậy những hướng dẫn trước
đây vẫn có giá trị tham khảo tích cực. Hiện nay, xung quanh khái niệm phạm tội
có tổ chức còn có nhiều ý kiến khác nhau về bản chất pháp lý của khái niệm
này.
- Quan điểm thứ nhất: Phạm tội có tổ chức phải có sự phân công vai
trò, nhiệm vụ khác nhau giữa những người cùng tham gia thực hiện tội phạm,
trong đó có vai trò cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Trước khi thực
hiện tội phạm, những người đồng phạm có sự bàn bạc thống nhất về kế hoạch
phạm tội một cách kỹ càng, chu đáo.
- Quan điểm thứ hai: Không phải trong mọi trường hợp phạm tội có tổ
chức nào cũng đều nhất thiết phải có sự phân công vai trò khác nhau giữa
những người đồng phạm, hay sự phân công vai trò khác nhau giữa những
8
người đồng phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của hình thức phạm tội có tổ
chức. Do vậy, phạm tội có tổ chức có thể là trường hợp đồng phạm giản đơn.
- Quan điểm thứ ba: Trong phạm tội có tổ chức, những người đồng
phạm phải có sự câu kết với nhau lâu dài, cùng nhau phạm nhiều tội hoặc
phạm một tội nhưng nhiều lần.
- Quan điểm thứ tư: Phạm tội có tổ chức phải là hình thức đồng phạm
có thông mưu trước, trong đó gồm một nhóm có từ hai người trở lên kết hợp
với nhau trước khi phạm tội.
Theo chúng tôi, các quan niệm trên về phạm tội có tổ chức là chưa
thật sự chính xác. Việc xác định những trường hợp phạm tội có tổ chức cần
tránh hai xu hướng là xác định quá rộng hoặc xác định quá hẹp về khái niệm
này.
Ở quan điểm thứ nhất, các tác giả đã tuyệt đối hóa một mặt của vấn đề
được nghiên cứu, đó là vai trò của những người đồng phạm. Thực tiễn chỉ ra
rằng việc phân công vai trò trong phạm tội có tổ chức là một dấu hiệu phổ biến
nhưng không bắt buộc, dấu hiệu duy nhất. Và ngoại diên của khái niệm phạm
tội có tổ chức là quá hẹp nếu không xem là phạm tội có tổ chức chỉ vì không có
sự phân công vai trò người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức.
Theo quan điểm thứ hai thì phạm tội có tổ chức có thể là trường hợp
đồng phạm giản đơn, tức là không có sự phân công vai trò giữa người cầm
đầu chỉ huy và người thực hiện tội phạm. Theo chúng tôi, việc không có dấu
hiệu đó thì không thể hiện được "tính có tổ chức" của hình thức đồng phạm
đặc biệt này. Quan điểm này là quá rộng về khái niệm phạm tội có tổ chức.
Với quan niệm thứ ba, việc xác định một vụ án đồng phạm nào là
phạm tội có tổ chức sẽ rất chặt chẽ. Khi những người đồng phạm câu kết với
nhau trong một thời gian dài, cùng nhau phạm nhiều tội hoặc phạm tội nhiều
lần họ mới được xác định là phạm tội có tổ chức. Theo quan niệm này, thì chỉ
9
những vụ án phạm tội do những tổ chức tội phạm dạng "xã hội đen" thực hiện
mới có thể được coi là phạm tội có tổ chức. Như vậy, quan niệm này đã thu
hẹp trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với những trường hợp có tính nguy hiểm
cao cho xã hội, cần phải xử lý nghiêm khắc là trường hợp phạm tội có tổ chức
như: có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm nhưng
chỉ thực hiện một tội phạm [70, tr. 29].
Quan niệm thứ tư là quan niệm quá rộng về phạm tội có tổ chức. Nếu
quan niệm như vậy sẽ không có sự phân biệt đồng phạm thường và đồng
phạm đặc biệt. Điều này sẽ dẫn đến xử lý nghiêm khắc thái quá những người
đồng phạm. Đồng phạm có tổ chức và đồng phạm có thông mưu trước là hai
khái niệm có ngoại diên không hoàn toàn đồng nhất. Nội hàm của khái niệm
phạm tội có tổ chức chứa đựng những dấu hiệu của khái niệm đồng phạm có
thông mưu trước nhưng có thêm những dấu hiệu khác nữa. Xét về tính chất
câu kết cũng như tính chất nguy hiểm cho xã hội, thì phạm tội có tổ chức có
tính câu kết chặt chẽ hơn và cũng có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn.
Vì vậy, căn cứ vào tinh thần của Nghị Quyết số 02/HĐTP ngày 16-111988 hướng dẫn bổ sung Nghị Quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986 giải thích
về "sự câu kết" trong phạm tội có tổ chức và sự phân tích ở trên, chúng tôi
cho rằng: phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt. Trong hình
thức đồng phạm này có sự phân công vai trò giữa người thực hành và người
cầm đầu, chỉ huy trong việc thực hiện tội phạm. Dấu hiệu phạm một tội nhiều
lần, phạm nhiều tội và sự câu kết lâu dài không phải là dấu hiệu bắt buộc của
hình thức đồng phạm này.
Với quan niệm trên, phạm tội có tổ chức trước hết phải là một hình
thức đồng phạm. Do đó, phạm tội có tổ chức phải có những dấu hiệu của
đồng phạm. Đó là phải có từ hai người trở lên cùng cố ý tham gia thực hiện
một tội phạm. Tính chất đặc biệt của hình thức đồng phạm này được đặc
trưng bởi dấu hiệu "có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng tham gia
10
thực hiện tội phạm". Chính sự câu kết chặt chẽ này là đặc điểm quan trọng
nhất nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn hẳn, đồng thời quy định
sự khác nhau về chất giữa phạm tội có tổ chức và các hình thức đồng phạm
khác. Đặc trưng này của đồng phạm có tổ chức vừa thể hiện đặc điểm của dấu
hiệu chủ quan vừa thể hiện đặc điểm của dấu hiệu khách quan. Đây là điểm
đặc biệt thứ nhất của phạm tội có tổ chức so với các hình thức đồng phạm
khác.
Như vậy, mức độ câu kết có chặt chẽ hay không là một căn cứ để phân
biệt phạm tội có tổ chức và các hình thức đồng phạm khác. Tại Khoản 3 Điều 20
BLHS 1999, cụm từ "câu kết chặt chẽ" hoàn toàn mang tính chất định tính,
cho nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng pháp luật.
Vì vậy, trong các văn bản giải thích pháp luật hoặc ngay trong BLHS cần
lượng hóa vấn đề này để đảm bảo một cách hiểu thống nhất.
Từ thực tiễn xét xử, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng tôi,
có thể đánh giá tính "câu kết chặt chẽ" qua các đặc trưng riêng về mặt khách
quan và chủ quan của đồng phạm có tổ chức:
Về mặt khách quan, tính tổ chức chặt chẽ và tính kế hoạch thống
nhất là hai thuộc tính phản ánh rõ bản chất, đặc trưng của tính câu kết chặt
chẽ trong phạm tội có tổ chức.
Tính tổ chức chặt chẽ có thể được hiểu là: trước khi thực hiện tội
phạm, những người đồng phạm thường đã liên kết, tập hợp với nhau thành
các băng, nhóm tội phạm với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Những băng, nhóm
tội phạm này có phương hướng hoạt động trong một thời gian dài, chặt chẽ.
Giữa những người đồng phạm có sự phân công vai trò giữa người cầm đầu,
chỉ huy và người thực hành trong việc thực hiện tội phạm, mỗi người đều chịu
sự điều khiển chung thống nhất. Hay nói cách khác, trong hình thức đồng
phạm này tồn tại quan hệ giữa "người quản lý" và "người bị quản lý" trong đó
yếu tố chỉ huy - phục tùng được xác lập. Nói đến quan hệ chỉ - huy phục tùng
11
là nói đến mối quan hệ giữa những người cầm đầu và những người khác trong
tổ chức, quan hệ giữa người ra lệnh và người thực thi mệnh lệnh. Hơn nữa,
tính tổ chức chặt chẽ này còn được biểu hiện ở tính ổn định trong sự phân
công vai trò chỉ huy, cầm đầu và vai trò người thực hành. Nếu trong hình thức
đồng phạm thông thường, vai trò chỉ huy, cầm đầu có thể có sự thay đổi khi
thực hiện các tội phạm khác nhau nhưng trong đồng phạm có tổ chức, vai trò
này thường do một hoặc một vài cá nhân đảm nhiệm một cách chuyên nghiệp.
Vì vậy, sự tập trung sức lực, trí tuệ, sự phối hợp, tương trợ giữa những người
đồng phạm có tổ chức không những cho phép họ thực hiện tội phạm một cách
thuận lợi, mà còn có thể thực hiện nhiều tội phạm, gây ra hậu quả nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng và dễ dàng che giấu dấu
vết phạm tội hay lẩn tránh sự điều tra, khám phá của các cơ quan bảo vệ pháp
luật.
Việc nhận định phương hướng hoạt động lâu dài, chặt chẽ để cùng
nhau thực hiện tội phạm của những người phạm tội có tổ chức là những nhận
định ý thức chủ quan chứ không nhất thiết phương hướng đó phải được
hiện thực hóa. Do vậy, khi họ có ý thức câu kết với nhau lâu dài, chặt chẽ
thì nên coi là phạm tội có tổ chức, mặc dù họ có thể chỉ thực hiện một tội
phạm cụ thể nào thì bị phát hiện, bắt và truy cứu TNHS. Do đó, số lần
phạm tội, loại tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc của hình thức phạm
tội có tổ chức.
Bên cạnh thuộc tính có tổ chức chặt chẽ, để được coi là phạm tội có
tổ chức, về mặt khách quan phạm tội có tổ chức đòi hỏi phải có "tính có kế
hoạch thống nhất". Trong những vụ phạm tội có tổ chức, tội phạm được
thực hiện bao giờ cũng có kế hoạch từ trước. Những người tham gia thực
hiện tội phạm có sự tính toán chu đáo, kỹ càng, đầy đủ và thống nhất từ khi
chuẩn bị thực hiện tội phạm cho đến khi thực hiện xong tội phạm và có thể
có kế hoạch che giấu tội phạm. Điều này cho thấy phạm tội có tổ chức luôn
là hình thức đồng phạm có thông mưu trước.
12
Về mặt chủ quan, phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có
thông mưu trước ở mức độ cao. Sự cố ý cùng liên kết về mặt ý thức của
những người phạm tội có tổ chức khi bàn bạc thỏa thuận kế hoạch và phân
công vai trò đã hình thành nên mối quan hệ và tính thống nhất trong hành
động của họ. Mối quan hệ này rất chặt chẽ và bền vững. Trong ý thức chủ
quan của mỗi người tham gia thực hiện tội phạm, mục đích phạm tội được
hằn sâu. Do vậy, mỗi khi ý thức phạm tội được nêu ra thì mỗi thành viên
đều chấp nhận tuyệt đối, cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận phương pháp, cách
thức thực hiện và che giấu tội phạm tối ưu. Trên cơ sở đó, trong quá trình
thực hiện tội phạm, mỗi người tham gia thực hiện tội phạm tìm cách hỗ trợ
những người đồng phạm khác và nỗ lực thực hiện hoạt động của mình
nhằm đạt được kết quả phạm tội đã đề ra.
Điểm đặc biệt thứ hai của hình thức đồng phạm có tổ chức thể hiện ở
cách thức ghi nhận tình tiết này trong BLHS. Phạm tội có tổ chức được coi là
tình tiết tăng nặng. Tình tiết này không những được quy định là tình tiết tăng
nặng TNHS tại Điều 48 BLHS mà còn được quy định là tình tiết định khung
hình phạt của nhiều tội phạm cụ thể trong phần riêng BLHS. Ngoài ra, với
tính đặc trưng bởi sự câu kết chặt chẽ trong quá trình chuẩn bị, thực hiện và
che giấu tội phạm mà tình tiết "phạm tội có tổ chức" còn được nhà làm luật
quy định là tình tiết định tội của tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm
BLHS. Ví dụ: Điều 82 BLHS 1999 quy định: "Người nào hoạt động vũ trang
hoặc dùng bạo lực có tổ chức...". Những tội phạm được luật hình sự quy định
với dấu hiệu định tội là tình tiết "phạm tội có tổ chức" thông thường là những
tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm có thông mưu trước. Hơn
nữa, những tội phạm này có dấu hiệu đặc trưng để phân biệt với các tội phạm
khác là sự phân công vai trò giữa người ra lệnh - người thực hiện mệnh lệnh,
phương hướng hoạt động phạm tội thường lâu dài, bền vững và sự thống nhất
ở mức độ cao trong kế hoạch thực hiện tội phạm của những người tham gia
thực hiện tội phạm.
13
- Xem thêm -