Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những loại người đồng phạm trong luật hình...

Tài liệu Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những loại người đồng phạm trong luật hình sự việt nam luận văn ths. luật

.PDF
116
529
56

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT MAI LAN NGỌC MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHỮNG LOẠI NGƯỜI ĐỒNG PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Công trình được hoàn thành tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Tiến Việt Phản biện 1: Phản biện 2: Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 2012. TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌc HÀ NỘI - 2012 1 Có thể tìm hiểu luận văn tại Trung tâm thông tin - Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội Trung tâm tư liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHỮNG LOẠI NGƯỜI 8 ĐỒNG PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm đồng phạm và các hình thức đồng phạm 8 1.1.1. Khái niệm đồng phạm 8 1.1.2. Các hình thức đồng phạm 9 1.2. Những loại người đồng phạm 12 1.2.1. Người thực hành 13 1.2.2. Người tổ chức 19 3 1.2.3. Người xúi giục 28 1.2.4. Người giúp sức 31 1.3. Trách nhiệm hình sự đối với những loại người đồng phạm 33 1.3.1. Nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm trong trường hợp đồng phạm hoàn thành 33 1.3.2. Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm trong trường hợp đồng phạm chưa hoàn thành 35 3.1.2.1. Trách nhiệm hình sự của người thực hành trong các giai đoạn thực hiện tội phạm 36 3.1.2.2. Trách nhiệm hình sự đối với người tổ chức trong các giai đoạn thực hiện tội phạm 37 3.1.2.3. Trách nhiệm hình sự đối với người xúi giục trong các giai 37 đoạn thực hiện tội phạm 3.1.2.4. Trách nhiệm hình sự đối với người giúp sức trong các giai 38 đoạn thực hiện tội phạm 3.1.3. Trách nhiệm hình sự của những loại người đồng phạm trong 39 trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội 3.1.3.1. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người thực hành 40 3.1.3.2. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người tổ chức 40 3.1.3.3. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người xúi giục 41 3.1.3.4. Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người giúp sức 41 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT 42 NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ NHỮNG LOẠI NGƯỜI ĐỒNG PHẠM 2.1. Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về những loại người đồng phạm 4 42 2.1.1. Giai đoạn từ Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước 42 pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985 2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 cho 49 đến nay 2.2. Các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế 58 giới về những loại người đồng phạm 2.2.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga 59 2.2.2. Bộ luật hình sự Trung Quốc 62 2.2.3. Bộ luật hình sự Nhật Bản 65 2.2.4. Bộ luật hình sự Vương quốc Bỉ 67 2.2.5. Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức 69 Chương 3: THỰC TIỄN XÁC ĐỊNH NHỮNG LOẠI NGƯỜI ĐỒNG 72 PHẠM, VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ NHỮNG LOẠI NGƯỜI ĐỒNG PHẠM 3.1. Thực tiễn xác định những loại người đồng phạm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 72 3.1.1. Thực tiễn xét xử những loại người đồng phạm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 72 3.1.2. Các quy định về mặt lập pháp liên quan đến vấn đề những loại người đồng phạm 80 3.2. Vấn đề hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về những loại người đồng phạm 83 3.2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về những loại người đồng phạm 83 3.2.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự năm 1999 về những loại người đồng phạm 88 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của 96 5 Bộ luật hình sự năm 1999 về những loại người đồng phạm 3.3.1. Tăng cường giải thích pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật 96 3.3.2. Nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp của đội ngũ thẩm phán Tòa án các cấp 97 3.2.3. Tăng cường kiểm sát việc áp dụng pháp luật hình sự liên quan đến những loại người đồng phạm của Viện kiểm sát nhân dân 99 KẾT LUẬN 102 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự CTTP : Cấu thành tội phạm CSPL : Cơ sở pháp lý HSST : Hình sự sơ thẩm PLHS : Pháp luật hình sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TNHS : Trách nhiệm hình sự 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 3.1 Số liệu thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về tổng kết công tác xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm qua các năm 2005 - 2009 74 3.2 Một số nhóm tội, loại tội trong số 196 bản án có đồng phạm mà tác giả đã nghiên cứu 74 8 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS) là do có tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm không những là một đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản, mà còn là thuộc tính khách quan, tất yếu và thể hiện bản chất xã hội - pháp lý của từng hành vi phạm tội cụ thể. Tội phạm có tính chất nguy hiểm cho xã hội, bởi vì tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, do người có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện với hình thức lỗi cố ý và vô ý. Tội phạm có thể do một người thực hiện, cũng có thể do nhiều người thực hiện. Khi tội phạm được thực hiện bởi nhiều người và trong hành động của họ có sự liên hệ mật thiết, tác động lẫn nhau thì được gọi là đồng phạm. Đồng phạm là hình thức phạm tội "đặc biệt", đòi hỏi những điều kiện riêng, khác với những trường hợp phạm tội riêng lẻ về số lượng người tham gia phạm tội, mối liên hệ giữa các đối tượng trong cùng vụ án cũng như tội phạm mà cả nhóm hướng tới thực hiện. Trong đồng phạm, mỗi người khi thực hiện tội phạm giữ vai trò khác nhau. Sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa những người cùng tham gia thực hiện tội phạm càng củng cố quyết tâm phạm tội đến cùng của cả nhóm, thể hiện tính chất và mức độ nguy hiểm đáng kể của những tội phạm có đồng phạm. So với tội phạm do một người thực hiện, đồng phạm thường nguy hiểm hơn, vì khi một nhóm người cùng cố ý tham gia thực hiện hành vi phạm tội, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội sẽ tăng lên đáng kể, nhất là khi có sự câu kết chặt chẽ về tổ chức và cách thức thực hiện, phát triển thành "phạm tội có tổ chức". Ở nước ta, hiện nay xuất hiện nhiều băng nhóm tội phạm có tổ chức và hoạt động công khai, có hành vi hết sức nguy hiểm như dùng ô tô chở 9 các đối tượng dàn trận đánh nhau, dùng "hàng nóng" đuổi bắn nhau trên đường phố hoặc thanh toán nhau mang màu sắc "xã hội đen". Điển hình là vụ dùng súng hoa cải bắn chết Trần Thanh Long (Long Tuyp) tại thành phố Hải Phòng năm 2009; vụ hai băng nhóm dùng súng AK cưa báng và súng K59 bắn nhau khiến một người chết và một người bị thương tại phố Đoàn Thị Điểm, thành phố Hà Nội năm 2009; vụ hai băng nhóm dùng dao, mã tấu chém nhau làm một người chết tại Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai năm 2010, v.v... Một đặc điểm mới so với trước đây là nhiều đối tượng phạm tội nguy hiểm đã chuyển hướng hoạt động theo kiểu "núp bóng" như thành lập ra các doanh nghiệp, công ty thương mại, du lịch, dịch vụ, làm bình phong cho các hành vi phạm tội như đòi nợ thuê, cá độ bóng đá, đâm thuê chém mướn; v.v... Chính vì vậy, việc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm dưới hình thức đồng phạm nói riêng là việc làm thường xuyên, cấp bách luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, chú trọng. Do đó, việc nghiên cứu về những loại người đồng phạm trong khoa học và việc áp dụng nó trong thực tiễn để trên cơ sở đó đưa ra những kiến giải lập pháp hoàn thiện để phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và ngăn chặn, hạn chế tới mức thấp nhất hậu quả của tội phạm gây ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Đây chính là lý do chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, vấn đề những loại người đồng phạm nằm trong chế định đồng phạm đã được đề cập trong một số giáo trình, sách tham khảo do các tác giả khác nhau biên soạn như: 1) TS. Trịnh Quốc Toản, Chương XIII - Đồng phạm, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung). Tập thể tác giả do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001 (tái bản năm 2003); 2) Chương X - Đồng phạm, 10 Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I, Tập thể tác giả do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; 3) Chương XIII - Đồng phạm, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập thể tác giả do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2005; 4) Mục VI - Chế định đồng phạm, Trong sách: Các nghiên cứu chuyên khảo về phần chung Luật hình sự, tập IV, của GS.TSKH Lê Cảm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002; v.v... Một số nhà khoa học - luật gia hình sự Việt Nam cũng đã quan tâm nghiên cứu về đề tài này. Tuy nhiên, đó mới chỉ là một số các công trình nghiên cứu về chế định đồng phạm nói chung như: 1) Luận án tiến sỹ của tác giả Trần Quang Tiệp về "Đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam", trường Đại học Luật Hà Nội, 2000; 2) GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Mục VI - Chế định đồng phạm, Chương thứ tư, Trong Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), (Sách chuyên khảo Sau đại học), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 3) GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Về chế định đồng phạm trong Luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập san Tòa án nhân dân, số 2/1988; 4) GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Chế định đồng phạm và mô hình lý luận của nó trong Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật 8/2003; 5) TS. Trần Quang Tiệp, Hoàn thiện chế định liên quan đến đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam hiện nay, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1998; v.v… Bên cạnh đó, cũng có nhiều bài viết, bài nghiên cứu có tính chất riêng lẻ, đề cập đến một khía cạnh, một vấn đề nhất định về chế định đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam của các tác giả sau: 1) Trần Quốc Hoàn, Một số nhận xét về trách nhiệm hình sự trong một vụ án có đồng phạm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1995; 2) TS. Cao Thị Oanh, Vấn đề mặt chủ quan của đồng phạm, Tạp chí Luật học, số 2/2002; 3) TS. Cao Thị Oanh, Những biểu hiện của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong đồng phạm, Tạp chí Luật học, số 6/2003; 4) PGS.TS. Lê Thị Sơn, Về các giai đoạn thực hiện hành vi 11 đồng phạm, Tạp chí Luật học, số 3/1998; 5) Dương Văn Tiến, Các hình thức đồng phạm và trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/1986. 6) TS. Trần Quang Tiệp, Khái niệm tội phạm có tổ chức, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/1999; 7) PGS.TS. Nguyễn Quốc Nhật Tội phạm có tổ chức - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Sách chuyên khảo), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2005, v.v... Như vậy, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề những loại người đồng phạm nhưng chỉ đề cập đến vấn đề này trong việc nghiên cứu tổng thể về chế định đồng phạm. Tuy nhiên, về phương diện nghiên cứu lý luận chuyên sâu và có hệ thống vấn đề những loại người đồng phạm vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức, mặc dù đây là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt nếu việc phát hiện và ngăn chặn sớm hành vi phạm tội của những người đồng phạm sẽ làm giảm khả năng gây ra thiệt hại về nhiều hậu quả khác như: chính trị, vật chất, thể chất và tinh thần, cũng như tài sản của Nhà nước và toàn xã hội. Ngoài ra, nhiều vấn đề lý luận và đánh giá thực tiễn xung quanh vấn đề những loại người đồng phạm cũng đòi hỏi cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận về những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, so sánh vấn đề này với quy định của pháp luật hình sự (PLHS) một số nước trên thế giới. Ngoài ra, luận văn còn phân tích và đánh giá những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và tồn tại trong các quy định của PLHS về những loại người đồng phạm. Trên cơ sở này, luận văn có những đánh giá, đề xuất và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn quy định của PLHS Việt Nam với mục đích để nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm nói riêng. 12 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này đúng như tên gọi của nó - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung, do điều kiện và thời gian có hạn, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quy định của PLHS Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay về những loại người đồng phạm. Bên cạnh đó, luận văn nghiên cứu về những loại người đồng phạm trong PLHS một số nước để so sánh với quy định của PLHS nước ta. Về tư liệu thực tế (các ví dụ chứng minh cho quan điểm, luận chứng của mình), luận văn nêu ra một số vụ án điển hình trong thực tiễn xét xử trong thời gian gần đây (2005 - 2011). 4. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài 4.1. Cơ sở khoa học Cơ sở khoa học của luận văn là các quy định của BLHS năm 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS năm 1999 về chế định đồng phạm trong đó có các quy định về những loại người đồng phạm, cũng như các công trình nghiên cứu khoa học, sách báo pháp lý của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến chế định này. 4.2. Cơ sở thực tiễn Cơ sở thực tiễn của luận văn chủ yếu là thực tiễn áp dụng các bản án của Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Hà Nội và một số địa bàn trên toàn quốc về những loại người đồng phạm theo luật hình sự Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm (2005 - 2011) và qua đó để rút ra những nhận xét, đánh giá. 13 5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở phương pháp luận Luận văn sử dụng phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin, trực tiếp sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như: phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích và tổng hợp. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, thống kê, điều tra xã hội học, phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, nghiên cứu (điều tra) án điển hình... để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu. 6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn BLHS Việt Nam năm 1999 kế thừa các quy định của BLHS năm 1985 trong việc quy định những loại người đồng phạm. Từ đó đến nay, qua thực tiễn áp dụng đã xuất hiện nhiều bất cập, khó khăn, không thống nhất trong cách hiểu và cách áp dụng những quy định này. Là một đề tài vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn, nên vấn đề những loại người đồng phạm mới chỉ được đề cập ở một số ít các bài viết, bài nghiên cứu, hay chỉ là một phần nhỏ trong một số các công trình nghiên cứu khoa học. Trong luận văn thạc sỹ của mình, học viên muốn đi sâu tập trung nghiên cứu các khía cạnh liên quan đến vấn đề những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam, từ lý luận, quy định của pháp luật hiện hành đến thực tiễn áp dụng, trên cơ sở đó luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của PLHS hiện hành về những loại người đồng phạm, cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định này. 14 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Đây là đề tài nghiên cứu chuyên khảo đề cập một cách tương đối có hệ thống và toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sỹ luật học. Luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, tác giả luận văn đã làm rõ khái niệm của người đồng phạm nói chung và từng loại người đồng phạm nói riêng đồng thời làm rõ bản chất pháp lý của mỗi loại người đồng phạm cũng như lịch sử phát triển và thực tiễn đánh giá đối với những loại người đồng phạm theo quy định của BLHS năm 1999. Trên cơ sở, đó luận văn đã đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định về những loại người đồng phạm ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng chúng trong thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội hiện nay ở nước ta. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và một số nước trên thế giới về những loại người đồng phạm. Chương 3: Thực tiễn xác định những loại người đồng phạm, vấn đề hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về những loại người đồng phạm. 15 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHỮNG LOẠI NGƯỜI ĐỒNG PHẠM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM ĐỒNG PHẠM VÀ CÁC HÌNH THỨC ĐỒNG PHẠM 1.1.1. Khái niệm đồng phạm "Đồng" theo Từ điển tiếng Việt nghĩa là cùng như nhau, không thể khác được. "Phạm" là làm tổn hại đến cái cần tôn trọng, mắc phải điều cần tránh. Đồng phạm nghĩa là cùng phạm tội hiểu theo nghĩa của luật hình sự" [Dẫn theo 3, tr. 245]. Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của nước ta, chúng ta thấy vấn đề đồng phạm đã được luật hình sự Việt Nam quy định từ rất sớm nhưng mới chỉ xem xét ở một số khía cạnh nhất định, chưa có quy định về khái niệm đồng phạm. Cho đến khi BLHS năm 1985 được ban hành thì khái niệm pháp lý về đồng phạm mới chính thức được quy định tại khoản 1 Điều 17: "Hai hoặc nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm", BLHS năm 1999 tiếp tục quy định khái niệm pháp lý về đồng phạm tại khoản 1 Điều 20 như sau: "Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm". Từ khái niệm pháp lý trên về đồng phạm và thực tiễn xét xử cho thấy, đồng phạm đòi hỏi phải có những dấu hiệu pháp lý về mặt khách quan và chủ quan như sau: - Về mặt khách quan Phải có sự cùng tham gia của từ hai người trở lên vào việc thực hiện tội phạm, những người này đều có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS; những người đồng phạm phải cùng chung hành động, có nghĩa là hành vi của mỗi người trong số họ đều nhằm thực hiện tội phạm, hoặc góp phần thực hiện 16 tội phạm; giữa hành vi phạm tội của mỗi người và hậu quả phạm tội chung xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả. - Về mặt chủ quan Có sự cùng cố ý của tất cả những người phạm tội tham gia vào thực hiện tội phạm do cố ý với các dấu hiệu sau: Những người cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm đều biết được hoạt động phạm tội của mỗi người (hoặc một số người trong số họ); những người đồng phạm đều ý thức được hành vi phạm tội của mình và hành vi phạm tội của những người khác; những người đồng phạm cùng mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả chung nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Lỗi của những người đồng phạm là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Lỗi của những người đồng phạm có thể đều là lỗi cố ý trực tiếp hoặc đều là cố ý gián tiếp và cũng có thể có trường hợp "Trong vụ đồng phạm có thể đồng thời có cả lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp" [35, tr. 28]. Tóm lại, theo chúng tôi khái niệm khoa học về đồng phạm có thể được hiểu như sau: Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý cùng tham gia thực hiện tội phạm do cố ý. 1.1.2. Các hình thức đồng phạm Hình thức đồng phạm là dạng biểu hiện bên ngoài, là phương thức tồn tại và phát triển của đồng phạm đồng thời là mối quan hệ tương đối bền vững giữa những người đồng phạm. Khoa học luật hình sự Việt Nam, "căn cứ vào những đặc điểm của mối quan hệ giữa những người đồng phạm về mặt chủ quan và khách quan để phân loại các hình thức đồng phạm" [56, tr. 180] như sau: a) Căn cứ vào dấu hiệu chủ quan, đồng phạm được phân loại thành đồng phạm có thông mưu trước và đồng phạm không có thông mưu trước. 17 - Đồng phạm không có thông mưu trước: là hình thức đồng phạm trong đó giữa những người đồng phạm không có sự bàn bạc, thỏa thuận với nhau trước về việc tham gia thực hiện tội phạm. Trong hình thức đồng phạm này, tuy giữa những người đồng phạm không có sự bàn bạc, thỏa thuận trước với nhau về việc thực hiện tội phạm, nhưng mỗi người đều nhận thức được họ cùng với những người đồng phạm khác đang thực hiện một tội phạm nhất định, hoạt động phạm tội của mỗi người trong số họ tiến hành trong sự liên hệ với nhau. - Đồng phạm có thông mưu trước: là hình thức đồng phạm trong đó những người đồng phạm có sự bàn bạc, thỏa thuận trước với nhau về tội phạm cùng tham gia thực hiện. Do có sự bàn bạc, thỏa thuận, tính toán kỹ càng chu đáo từ trước nên giữa những người đồng phạm có mối liên hệ chặt chẽ trong việc cùng tham gia thực hiện tội phạm chung. Do vậy, hình thức đồng phạm có thông mưu trước có mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn hình thức đồng phạm không có thông mưu trước. b) Căn cứ vào dấu hiệu khách quan, đồng phạm được phân loại thành đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp. - Đồng phạm giản đơn: là hình thức đồng phạm trong đó tất cả những cùng người tham gia vào việc thực hiện tội phạm đều có vai trò là người thực hành (người đồng thực hành). Có nghĩa là, mỗi người đồng phạm đều thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm (CTTP) của điều luật được quy định trong Phần các tội phạm. - Đồng phạm phức tạp: là hình thức đồng phạm có sự phân công vai trò của những người cùng tham gia thực hiện tội phạm, trong đó ngoài một hoặc một số người có vai trò là người thực hành, còn có sự tham gia của những người đồng phạm khác như người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức. Ở hình thức đồng phạm phức tạp chỉ có một hoặc một số người đồng phạm (người đồng thực hành) thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong CTTP. 18 c) Căn cứ vào những đặc điểm khách quan và chủ quan của quan hệ giữa những người đồng phạm, đồng phạm được phân đồng phạm có tổ chức (phạm tội có tổ chức). - Phạm tội có tổ chức: là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999). Theo quy định tại khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 thì trong đồng phạm có tổ chức, giữa những người cùng thực hiện tội phạm phải có sự câu kết chặt chẽ với nhau, có sự phân công vai trò, nhiệm vụ cụ thể, có sự tính toán và chuẩn bị kỹ càng, chu đáo trong việc cùng tham gia thực hiện tội phạm. Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16/11/1988 hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 khi giải thích khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 về "Phạm tội có tổ chức" thì phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, sự câu kết này, theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán TANDTC, có thể thể hiện dưới các dạng sau: a) Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như đảng phái, hội đoàn phản động, băng, ổ trộm, cướp… có những người chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội không có tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập trung những người chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội; b) Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước; c) Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch đã được tính toán kỹ càng, chu đáo, có sự chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm. 19 Như vậy, với những đặc điểm của phạm tội có tổ chức nêu trên, chúng ta thấy rằng hình thức đồng phạm có tổ chức có thể thực hiện tội phạm nhiều lần, liên tục, gây ra những hậu quả nghiêm trọng làm cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm gặp nhiều khó khăn, tốn kém. Do vậy, BLHS năm 1999 đã quy định phạm tội có tổ chức là một tình tiết tăng nặng TNHS tại Điều 48, và trong hàng loạt các CTTP trong Phần các tội phạm, tình tiết phạm tội có tổ chức được quy định là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. 1.2. NHỮNG LOẠI NGƯỜI ĐỒNG PHẠM Những loại người đồng phạm chính là những chủ thể đã tạo nên vụ đồng phạm. Như chúng ta đã biết: Chủ thể của tội phạm là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định (ngoài ra, trong một số trường hợp cụ thể chủ thể của tội phạm còn có dấu hiệu bổ sung đặc biệt do quy phạm pháp luật hình sự tương ứng quy định) [16, tr. 375]. Như vậy, có thể nói chủ thể của tội phạm đồng phạm là những người có lỗi cố ý trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm, họ có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS theo luật định, một số tội phạm đòi hỏi phải có dấu hiệu chủ thể đặc biệt thì dấu hiệu này chỉ quy định cho người thực hành. Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự nước ta cho đến trước thời điểm BLHS năm 1985 được ban hành cho thấy, chưa có văn bản PLHS nào đưa ra khái niệm về người đồng phạm. Khoản 2 Điều 17 BLHS năm 1985 lần đầu tiên chính thức quy định về người đồng phạm như sau: "Người thực hành, người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm". Khoản 2 Điều 20 BLHS năm 1999 giữ nguyên quy định của BLHS năm 1985 về người đồng phạm. 20 Như vậy, chúng tôi có thể đưa ra khái niệm khoa học về người đồng phạm như sau: Người đồng phạm là người thỏa mãn các dấu hiệu chủ thể của tội phạm, đã cố ý tham gia vào việc thực hiện tội phạm do cố ý cùng với người khác. Tóm lại, có thể nói rằng cơ sở để phân biệt những loại người đồng phạm là vai trò, tính chất sự tham gia của họ vào việc thực hiện tội phạm. BLHS nước ta đã dựa trên cơ sở khoa học này để quy định những loại người đồng phạm là người thực hành, người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức (khoản 2 Điều 20 BLHS năm 1999). Việc phân hóa những người đồng phạm thành bốn loại người như quy định hiện hành của pháp luật hình sự nước ta là hợp lý vì bốn loại người này giữ những vai trò khác biệt căn bản trong việc thực hiện tội phạm, đặc biệt người tổ chức là khái niệm không được đề cập trong luật hình sự một số nước nhưng rõ ràng đây là đối tượng giữ vị trí rất quan trọng trong việc điều khiển tội phạm dưới hình thức đồng phạm trên thực tế. Phân loại những người đồng phạm đồng thời là cơ sở để xác định nguyên tắc phân hóa TNHS trong đồng phạm thể hiện qua việc xác định những nguyên tắc cơ bản trong đường lối xử lý đối với từng loại người đồng phạm tạo ra cơ sở pháp lý định hướng cho hoạt động cá thể hoá hình phạt đối với họ trong các trường hợp cụ thể. 1.2.1. Người thực hành Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự nước ta đã cho thấy, các quy định của PLHS Việt Nam cho đến trước khi ban hành BLHS năm 1985 cũng đã đề cập đến người thực hành với các cách gọi khác nhau như: chính phạm, đồng phạm, bọn tham gia. Khoản 2 Điều 17 BLHS năm 1985 và khoản 2 Điều 20 BLHS năm 1999 đã chính thức quy định định nghĩa pháp lý của người thực hành: "Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm". 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan