Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân...

Tài liệu Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù luận văn ths. luật

.PDF
120
430
82

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH HOÀNG QUANG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐINH HOÀNG QUANG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Ngọc Quang HÀ NỘI - 2013 2 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n §inh Hoµng Quang 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ 7 VÀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ 1.1. Một số vấn đề lý luận về thi hành án phạt tù 7 1.1.1. Những khái niệm có liên quan đến thi hành án phạt tù 7 1.1.2. Mục đích và ý nghĩa của việc thi hành án phạt tù 15 1.1.3. Cơ sở pháp lý của thi hành án phạt tù 17 1.1.4. Cơ quan thi hành án phạt tù 23 1.2. 28 Nhận thức chung về kiểm sát thi hành án phạt tù 1.2.1. Khái niệm, chủ thể, đối tượng, phạm vi, đặc điểm hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù 28 1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển quy định của pháp luật về kiểm sát thi hành án phạt tù tại Việt Nam từ khi thành lập Viện Kiểm sát nhân dân 33 1.3. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp luật ở một số nước trên thế giới 36 1.3.1. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp luật Liên bang Nga 36 1.3.2. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp luật Vương quốc Anh 38 4 1.3.3. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp luật Cộng hòa Pháp 40 1.3.4. Thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù trong pháp luật Nhật Bản 43 Chương 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT CỦA VIỆN KIỂM 46 SÁT TRONG THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ 2.1. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù 46 2.1.1. Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới ra quyết định thi hành án phạt tù đúng quy định của pháp luật 46 2.1.2. Yêu cầu Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự tự kiểm tra, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án phạt tù 49 2.1.3. Phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật trong thi hành án phạt tù theo thẩm quyền 50 2.1.4. Đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án; tham gia việc xét giảm, miễn thời hạn chấp hành án 55 2.1.5. Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án phạt tù 58 2.2. 61 Thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát trong kiểm sát thi hành án phạt tù 2.2.1. Tình hình chấp hành án phạt tù 61 2.2.2. Thực trạng công tác kiểm sát thi hành án phạt tù 68 2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động công tác kiểm sát thi hành án phạt tù 84 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA 89 VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ 3.1. Hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù 5 89 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 89 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thi hành án phạt tù 90 3.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù 97 3.2.1. Hoàn thiện tổ chức bộ máy Viện kiểm sát các cấp (Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và tương đương) 97 3.2.2. Tiêu chuẩn hóa cán bộ kiểm sát thực hiện nhiệm vụ kiểm sát thi hành án phạt tù 98 3.3. Tăng cường điều kiện hoạt động của Viện kiểm sát trong thi hành án phạt tù 100 3.3.1. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm cho hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù 100 3.3.2. Cải tiến chế độ, chính sách đối với cán bộ kiểm sát trực tiếp thực hiện nhiệm vụ kiểm sát thi hành án phạt tù 102 3.4. 102 Xây dựng mối quan hệ phối hợp với các cơ quan có liên quan đến thi hành án phạt tù 3.4.1. Quan hệ phối hợp với Tòa án nhân dân các cấp và tương đương 102 3.4.2. Quan hệ phối hợp với cơ quan Công an các cấp 103 3.4.3. Quan hệ phối hợp với chính quyền địa phương và cơ quan hữu quan 103 KẾT LUẬN 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108 6 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Tình hình công tác chấp hành án phạt tù từ 2008 đến 61 bảng 2.1 năm 2012 2.2 Hoạt động công tác kiểm sát thi hành án phạt tù từ năm 2008-2012 7 69 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế. Thi hành án hình sự liên quan trực tiếp đến bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp 1992 khẳng định: "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành" [27]. Xác định thi hành án hình sự mà trong đó là thi hành án phạt tù là công tác quan trọng nên Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho hoạt động này như: Thông tư liên ngành số 02/TTLN/BNV-VKSNDTC ngày 06/9/1989 về công tác giam, giữ, cải tạo và kiểm sát giam giữ, cải tạo; Thông tư liên tịch số 07/2004/TTLTBCA-VKSNDTC ngày 29/4/2004 hướng dẫn một số quy định về thi hành hình phạt tù đối với phạm nhân chấp hành hình phạt tù tại Nhà tạm giữ; Thông tư liên tịch số 02/2006/TTLT-BCA-BQP-BYT-TANDTC-VKSNDTC ngày 18/5/2006 hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật về tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù đối với người đang chấp hành hình phạt tù đang bị bệnh nặng; Thông tư liên tịch số 04/2010/TTLT -BTC-BCA-BQP ngày 12/02/2010 hướng dẫn thực hiện chế độ lao động và sử dụng kết quả lao động, dạy nghề phạm nhân trong các trại giam; Thông tư 40/2011/TT-BCA 8 ngày 27/6/2011 quy định tiêu chuẩn thi đua chấp hành án phạt tù và xếp loại chấp hành án phạt tù cho phạm nhân; Thông tư 58/2011/TT-BCA ngày 09/8/2011 quy định về đồ vật cấm đưa vào trại giam và việc thu giữ, xử lý đồ vật cấm; Nghị định 80/2011/NĐ-CP ngày 16/9/2011 quy định các biện pháp bảo đảm tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù; Nghị định số 117/2011/NĐ-CP ngày 15/12/2011 quy định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân (thay thế Nghị định số 113/2008/NĐ-CP ngày 28/10/2008 ban hành Quy chế trại giam); Nghị định số 77/2009/NĐ-CP ngày 15/9/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an…và ngày 17/6/2010, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Thi hành án hình sự năm 2010. Trên cơ sở pháp lý đó, trong thời gian qua hoạt động thi hành án hình sự đã được tổ chức, thực hiện bảo đảm sự nghiêm minh, khoan hồng, nhân đạo, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, phục vụ yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước yêu cầu mới của thực tiễn, hướng đến mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công tác kiểm sát thi hành án hình sự của ngành kiểm sát cần phải đổi mới tổ chức và hoạt động để nâng cao công tác thi hành án hình sự nói chung và công tác thi hành án phạt tù nói riêng, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát việc thi hành án phạt tù, từ đó đưa ra kiến nghị, giải pháp nhằm cao hiệu quả hoạt động này không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc chúng tôi quyết định chọn đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù" làm luận văn thạc sĩ luật học. 9 2. Tình hình nghiên cứu Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án phạt tù, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về thi hành án phạt tù và nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù, cụ thể là: - Trần Quang Tiệp (2002), Một số vấn đề về thi hành án hình sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; - Viện Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2003), "Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp", Kỷ yếu đề tài cấp bộ, Hà Nội; - Vũ Trọng Hách (2006), Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội; - Võ Khánh Vinh, Nguyễn Mạnh Kháng (2006), Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội; - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2007), "Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, Vụ kiểm sát tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù", Kỷ yếu đề tài khoa học, Hà Nội. Các công trình nêu trên nghiên cứu về thi hành phạt tù ở những khía cạnh và mức độ khác nhau, hầu hết đề cập đến thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án phạt tù, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án phạt tù, đặc biệt là theo Luật Thi hành án hình sự năm 2010. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu và làm rõ những vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát hoạt động 10 thi hành án phạt tù, phân tích kết quả thực tiễn của hoạt động này, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án phạt tù ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Làm rõ những căn cứ pháp lý về thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù. - Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù trong thời gian qua. - Phân tích nguyên nhân của thực trạng đó. - Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh "Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù", kết hợp với việc nghiên cứu những nội dung cơ bản và thực tiễn công tác kiểm sát thi hành án phạt tù; đánh giá thực trạng hoạt động kiểm sát thi hành phạt tù trong thời gian qua (từ năm 2009 - 2012) và từ đó rút ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật, đổi mới tổ chức và hoạt động của công tác này nhằm nâng cao hiệu quả việc thi hành án phạt tù trong điều kiện mới của đất nước ta. Luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm về việc thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù ở một số nước trên thế giới. 11 Luận văn không nghiên cứu hoạt động của Viện kiểm sát quân sự trong kiểm sát việc thi hành án phạt tù. 4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2/1/2002, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp nghiên cứu lịch sử - cụ thể, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, tổng hợp. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án phạt tù, mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới thi hành án phạt tù ở Việt Nam theo Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2011). Những điểm mới của luận văn là: - Luận văn đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái niệm thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù, tìm hiểu thực trạng của công tác kiểm sát thi hành án phạt tù làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án phạt tù. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực trạng pháp luật kiểm sát thi hành án phạt tù, luận văn đã đưa ra được những điểm bất cập cần sửa 12 đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự về công tác thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù. - Trên cơ sở đánh giá thực tiễn công tác kiểm sát thi hành án phạt tù, luận văn đã phân tích những nguyên nhân và đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án phạt tù theo Luật Thi hành án hình sự năm 2010. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Đặc biệt, kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan Thi hành án hình sự trong quá trình thi hành án phạt tù. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về thi hành án phạt tù và kiểm sát thi hành án phạt tù. Chương 2: Thực tiễn hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát trong thi hành án phạt tù. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án phạt tù. 13 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ VÀ KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ 1.1.1. Những khái niệm có liên quan đến thi hành án phạt tù Để có thể đưa ra khái niệm thi hành hình phạt tù, trước hết cần làm sáng tỏ khái niệm hình phạt tù. Trong hệ thống hình phạt được quy định trong luật hình sự Việt Nam, hình phạt tù (bao gồm: hình phạt tù có thời hạn và hình phạt tù chung thân) là loại hình phạt nghiêm khắc, vì người bị kết án bị tước tự do, bị cách ly với cuộc sống bình thường của xã hội, họ phải lao động, cải tạo trong một môi trường riêng biệt dưới sự quản lý và giám sát của cơ quan có trách nhiệm. Tuy nhiên, trong luận văn này chúng tôi không đề cập đến miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo) {miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo) là trường hợp ngoại lệ đặc biệt của việc thi hành hình phạt tù, trong đó người bị kết án phạt tù có thời hạn không buộc phải chấp hành hình phạt tù tại các cơ sở giam giữ; không bị cách ly khỏi xã hội mà được chấp hành hình phạt ngoài xã hội với những điều kiện ràng buộc nhất định. Miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (án treo) được áp dụng đối với những trường hợp người phạm tội bị Tòa án tuyên hình phạt tù có thời hạn và mức hình phạt là không quá ba năm và không cần phải bắt người phạm tội cách ly khỏi xã hội nhưng cũng đạt được mục đích của hình phạt}. Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: "Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định...." [28] và Điều 34 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: "Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình..." [28]. 14 Như vậy, hình phạt tù là hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam. Tuy nhiên, khi nghiên cứu các văn bản luật khác và trong thực tế, chúng tôi cho rằng việc quy định trong điều luật chưa thật sự chính xác, bởi vì người bị kết án phạt tù có thể phải chấp hành hình phạt tại Trại tạm giam (gồm Trại tạm giam Bộ Công An, Trại tạm giam Bộ Quốc phòng và Trại tạm giam Công an tỉnh) và Nhà tạm giữ Công an huyện. Khoản 2 Điều 171 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định: Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ yêu cầu quản lý người bị tạm giam, tạm giữ để quyết định đưa người chấp hành án phạt tù có thời hạn từ 5 năm trở xuống không phải là người chưa thành niên, người nước ngoài, người mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm hoặc nghiện ma túy để phục vụ việc tạm giam, tạm giữ. Số lượng người chấp hành án phạt tù phục vụ việc tạm giam, tạm giữ được tính theo tỷ lệ trên tổng số người bị tạm giam, tạm giữ nhưng tối đa không vượt quá 15% [34]. Như vậy, việc thi hành hình phạt tù còn được thực hiện ở trại tạm giam, nhà tạm giữ để thực hiện những công việc của trại tạm giam, nhà tạm giữ và trong trường hợp này, trại tạm giam, nhà tạm giữ được coi là trại giam đối với người phải thi hành hình phạt tù. Mục đích của hình phạt nói chung và hình phạt tù nói riêng không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới, nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 27 Bộ luật Hình sự năm 1999). Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm hình phạt tù như sau: Hình phạt tù là hình phạt tước một số quyền tự do, giam giữ người bị kết án phạt tù trong một môi trường riêng biệt để thực hiện các mục đích của hình phạt là đảm bảo công lý, công bằng xã hội, cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. 15 Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm thi hành án hình sự. Theo Đại Từ điển tiếng Việt, thi hành là: "Thực hiện điều đã chính thức quyết định" [64, tr. 1497]. Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế; còn thi hành án hình sự là thực hiện các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế [37, tr. 5]. Từ sự phân tích ở trên, chúng tôi đồng ý với quan điểm cho rằng: Thi hành án hình sự là việc các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các cá nhân có liên quan đưa bản án và quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án ra thi hành làm cho nó phát huy hiệu lực trên thực tế [22, tr. 9]. Các bản án, quyết định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi hành bao gồm: các bản án, quyết định được quy định tại Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010, nhưng chưa quá thời hiệu thi hành bản án theo Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 1999. Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định những bản án và quyết định được thi hành, theo đó, những bản án và quyết định được thi hành là những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật (bao gồm những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm). Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định về bản án, quyết định được thi hành, bao gồm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và đã có quyết định thi hành (bản án hoặc phần bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; Bản án của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án). Bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Quyết định của Tòa án Việt Nam tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có quyết định thi hành. Quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt 16 Nam cho nước ngoài; Bản án, quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng. So sánh hai quy định trên, ta thấy được quy định về bản án, quyết định được thi hành khác nhau, Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 đã bổ sung quy định "và đã có quyết định thi hành" do Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định hoặc do Chánh án Tòa án được ủy thác ra quyết định so với khoản 1 Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Nhưng thời điểm bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật với thời điểm Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định hoặc do Chánh án Tòa án được ủy thác ra quyết định thi hành là khác nhau, nên chúng tôi cho rằng, đối với quan hệ xã hội phát sinh trong khoảng thời gian từ khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa có quyết định thi hành thì không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 mà thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Do đó, theo chúng tôi, cần phải xác định hoạt động thi hành án được bắt đầu ngay khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, bởi vì việc thi hành án bao gồm cả hoạt động Tòa án ra quyết định thi hành án, chứ không phải bắt đầu từ khi Tòa án ra quyết định thi hành án; điều này hoàn toàn phù hợp với quy định Viện kiểm sát yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới ra quyết định thi hành án hình sự đúng quy định của pháp luật (tại Điều 141 Luật Thi hành án hình sự năm 2010). Ngoài ra, Điều 2 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 cũng đã bổ sung các trường hợp bản án, quyết định của Tòa án được thi hành so với quy định tại Điều 255 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, đó là: quyết định của Tòa án Việt Nam tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam chấp hành án và đã có quyết định thi hành; quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài và bản án, quyết định về áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng. 17 Từ những phân tích trên, ta có thể hiểu, thi hành án phạt tù là việc thực hiện các quyết định về hình phạt tù trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế; bao gồm: Bản án, quyết định về hình phạt tù có hiệu lực pháp luật và đã có quyết định thi hành. Về mặt lập pháp, theo khoản 3 Điều 3 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 giải thích: "Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này buộc phạm nhân phải chịu sự quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội" [34]; trong đó, phạm nhân là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân. Như vậy, thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện các quyết định hình phạt tù trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trên thực tế; tức là, buộc người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn, tù chung thân phải chịu sự quản lý, giam giữ, giáo dục, cải tạo để họ trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, xung quanh bản chất pháp lý về thi hành án nói chung và thi hành án phạt tù nói riêng cũng có nhiều quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất: Thi hành án là một giai đoạn của tố tụng [56, tr. 8], [62, tr. 23-24]. Quan điểm thứ hai: Thi hành án là một giai đoạn độc lập mang tính hành chính - tư pháp [56, tr. 10-11]. Quan điểm thứ ba: Thi hành án vừa mang tính tố tụng, vừa mang tính hành chính - tư pháp được điều chỉnh bởi pháp luật tố tụng và pháp luật về hành chính - tư pháp [56, tr. 8]. Trước hết, về quan niệm coi thi hành án là một giai đoạn tố tụng, chúng tôi đồng ý với quan điểm này, bởi vì theo từ điển Luật học, thi hành án "giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của Tòa án nhất định có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, bản án sau khi đã có hiệu lực pháp luật thì phải được thi hành nghiêm chỉnh" [43, tr. 464-465]. Thi hành bản án hình sự "giai đoạn cuối cùng của tố tụng hình sự, là việc thi hành trên thực tế một bản án hoặc quyết định cụ thể của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [43, tr. 464-465]. Như vậy, thi hành án 18 hình sự là một trình tự tiếp nối và kết thúc của quá trình giải quyết vụ án hình sự; địa vị của thi hành án hoàn toàn độc lập và cần thiết được xem xét trong mối liên hệ với các giai đoạn tố tụng trước. Nói cách khác việc thi hành án được quy định trong tố tụng hình sự và không ngừng được hoàn thiện cùng với các quy định của các giai đoạn tố tụng trước là hoàn toàn cần thiết để đảm bảo tính đồng bộ, hệ thống của tố tụng hình sự. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đồng ý với quan điểm cho rằng thi hành án cần phải được qui định ở các văn bản pháp luật khác nữa, bởi vì không phải mọi hoạt động trong quá trình thi hành bản án và quyết định của Tòa án đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật tố tụng hình sự [18]. Điều này là hoàn toàn đúng khi trong giai đoạn hiện nay, Quốc hội mới ban hành Luật thi hành án dân sự năm 2008 (có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2009) và Luật Thi hành án hình sự năm 2010 (có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2011), các đạo luật này quy định khá cụ thể các quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án. Khi nghiên cứu các đạo luật này, chúng tôi thấy rằng có rất nhiều quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thi hành án chưa được điều chỉnh; cụ thể như: trong việc ra quyết định thi hành án; thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành; thẩm quyền Tòa án khi ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù; và việc xóa án tích... Trong thực tế hiện nay, những mối quan hệ này được điều chỉnh bởi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Về quan điểm cho rằng, thi hành án là một giai đoạn độc lập mang tính hành chính - tư pháp. Như chúng tôi đã phân tích ở trên, thi hành án là một giai đoạn tố tụng do đó không phải là một giai đoạn độc lập; nhưng liệu trong hoạt động thi hành án có mang tính hành chính - tư pháp không? Để giải thích cho quan điểm này thì cần phải hiểu hoạt động mang tính hành chính tư pháp là như thế nào? Thứ nhất, về hoạt động hành chính. Hành chính được hiểu: Thuộc phạm vi quản lí của Nhà nước theo luật định: cơ quan hành chính - đơn vị hành chính. Thuộc những công việc giấy tờ, văn 19 thư, kế toán trong cơ quan nhà nước; cán bộ hành chính - ăn lương hành chính. Có tính chất nghiêm minh, thẳng tay xử phạt, không nới lỏng để giáo dục, thuyết phục: dùng biện pháp hành chính [43, tr. 675]. Thi hành bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật là một hoạt động phức tạp, đa dạng liên quan đến nhiều lĩnh vực và trong quá trình thi hành án, có những quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành tổ chức, hoạt động và cơ chế quản lý các cơ quan thi hành án hình sự (gồm hệ thống các cơ quan thi hành án hình sự; các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm thi hành án...). Các quan hệ này liên quan đến việc hình thành cơ cấu tổ chức; quy định thẩm quyền và quy chế hoạt động của Cơ quan thi hành án hình sự. Những mối quan hệ này được thể hiện cụ thể trong thực tiễn như: mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước với Cơ quan thi hành án hình sự; cơ cấu tổ chức, hoạt động trong hệ thống các cơ quan thi hành án hình sự; giữa Cơ quan thi hành án hình sự và Cơ quan thi hành án dân sự; giữa Cơ quan thi hành án cấp trên và Cơ quan thi hành án cấp dưới về mặt tổ chức...[62, tr. 32-33]. Như vậy, hoạt động thi hành án mang tính hành chính. Thứ hai, về hoạt động tư pháp, xung quanh khái niệm này cũng có nhiều cách hiểu khác nhau: Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, hoạt động tư pháp cần được hiểu theo nghĩa rộng là hoạt động xét xử của Tòa án và các hoạt động của các cơ quan khác của nhà nước khác và các tổ chức khác được nhà nước cho phép thành lập, trực tiếp liên quan hoặc phục vụ cho việc xét xử của Tòa án [13, tr. 7-11]. Loại ý kiến thứ hai cho rằng, hoạt động tư pháp là dạng (hình thức) thực hiện những thẩm quyền tương ứng do luật định của hệ thống Tòa án mà thông qua đó các chức năng của nhánh quyền lực thứ ba trong Nhà nước pháp quyền được biến thành hiện thực [5, tr. 188]. Có năm dạng hoạt động tư pháp tương ứng với năm chức năng của quyền tư pháp gồm: nhân danh và thực hiện việc bảo vệ công lý; bảo vệ các quyền và tự do của con người và của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác trên toàn bộ lãnh thổ của quốc gia; giải thích các quy phạm pháp 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan