Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số kinh nghiệm trong giáo dục kĩ năng mềm cho học sinh qua giờ đọc - hiểu cá...

Tài liệu Một số kinh nghiệm trong giáo dục kĩ năng mềm cho học sinh qua giờ đọc - hiểu các văn bản văn học việt nam

.DOC
30
189
70

Mô tả:

Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lí do chọn đề tài 1.1. Theo UNESCO, học tập gồm có các mục đích sau: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Trường học chúng ta hiện đang nặng về học để biết, chương trình đào tạo và việc đánh giá năng lực của học sinh, sinh viên vẫn dựa chủ yếu vào kiến thức, nghĩa là chỉ đạt được một trong bốn mục tiêu của UNESCO. Tuy nhiên, từ biết đến hiểu, đến làm việc chuyên nghiệp với năng suất cao là một khoảng cách rất lớn. Chính vì vậy, việc giáo dục kĩ năng mềm trong nhà trường là một yêu cầu cấp thiết, quan trọng. 1.2. M.Gorki đã khẳng định: “Văn học là nhân học”, học văn chính là học làm người, học văn luôn gắn với đời sống của con người, các kiến thức Ngữ văn đem lại hiệu quả tác động đến mỗi cá nhân học sinh. Bởi vậy, Ngữ văn là môn học có lợi thế rất lớn trong việc giáo dục kĩ năng mềm cho học sinh. 1.3. Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta, tích hợp được xem là nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phương pháp giảng dạy. Với môn Ngữ văn, nguyên tắc tích hợp được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn, Tiếng Việt đến Làm văn; trong mọi khâu của quá trình dạy học; trong mọi yếu tố của hoạt động học tập. Các văn bản văn học Việt Nam được đưa vào chương trình Ngữ văn 10 trong các tiết đọc - hiểu văn bản là những văn bản văn học dân gian và văn học 1 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] trung đại – vốn là những tác phẩm văn học khá khó hiểu đối với học sinh, không gần gũi với đời sống sinh hoạt hằng ngày của các em trong thời đại hiện nay, đặc biệt là các tác phẩm văn học trung đại. Chính vì vậy các em ít có hứng thú khi tiếp nhận các tác phẩm. Do đó, việc tích hợp giáo dục kĩ năng mềm cho học sinh trong quá trình đọc - hiểu văn bản sẽ góp phần tạo hứng thú học cho học sinh, giúp các em hiểu bài hơn, thấy được mối quan hệ mật thiết giữa văn chương và đời sống. II/ Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của một đề tài sáng kiến kinh nghiệm, bài viết chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề trong phạm vi sau: - Cơ sở lí luận của vấn đề tích hợp giáo dục kĩ năng mềm cho học sinh lớp 10 qua giờ đọc - hiểu các văn bản văn học Việt Nam. - Thực trạng của việc vận dụng tích hợp giáo dục kĩ năng mềm cho học sinh lớp 10 qua giờ đọc - hiểu các văn bản văn học Việt Nam. - Các giải pháp thực hiện trong giờ đọc – hiểu văn bản nhằm mục tiêu tích hợp giáo dục kĩ năng mềm cho học sinh. III/ Mục đích nghiên cứu Quá trình nghiên cứu nhằm xác định những vấn đề có tính chất lí thuyết của vấn đề tích hợp giáo dục kĩ năng mềm cho học sinh lớp 10 qua giờ đọc – hiểu văn bản văn học Việt Nam. Nghiên cứu các giải pháp nhằm tích hợp giáo dục kĩ năng mềm vào dạy học tác phẩm văn chương sẽ giúp người viết có được cái nhìn đúng đắn, sâu sắc 2 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] và toàn diện về vấn đề này, để việc dạy và học tác phẩm văn chương ngày càng tốt hơn. IV/ Phương pháp nghiên cứu Thực hiện nghiên cứu đề tài này, ngoài phương pháp nghiên cứu khoa học chung, người viết còn sử dụng một số phương pháp chủ yếu như phương pháp quan sát, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thực nghiệm… 3 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] B. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận của vấn đề tích hợp giáo dục kĩ năng mềm trong giờ đọc – hiểu văn bản 1.1 Quan điểm tích hợp trong dạy học Tích hợp có nghĩa là sự hợp nhất, sự hoà nhập, sự kết hợp. Nội hàm khoa học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất hay là sự nhất thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng, chứ không phải là một phép cộng giản đơn những thuộc tính của các thành phần ấy. Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của bộ môn đó. Việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở trường trung học phổ thông chẳng những dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các phân môn Văn học, Tiếng Việt, Làm văn cũng như các bộ phận tri thức khác (hiểu biết lịch sử xã hội, văn hoá nghệ thuật...) mà còn xuất phát từ đòi hỏi thực tế là cần phải khắc phục, xoá bỏ lối dạy học theo kiểu khép kín, tách biệt nhà trường và cuộc sống, cô lập giữa những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ, bổ sung cho nhau, tách rời kiến thức với những tình huống cụ thể mà học sinh sẽ gặp sau này trong đời sống thực tiễn. 4 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] Vận dụng quan điểm tích hợp trong dạy học Ngữ văn nhằm nâng cao năng lực sử dụng những kiến thức và kĩ năng mà học sinh lĩnh hội được, bảo đảm cho mỗi học sinh khả năng huy động có hiệu quả những kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình huống trong đời sống thực tiễn. Mặt khác, tránh được những nội dung, kiến thức và kĩ năng trùng lặp, đồng thời lĩnh hội những nội dung, tri thức và năng lực mà mỗi môn học hay phân môn riêng rẽ không có được. 1.2 Kĩ năng mềm Theo quan niệm của WHO, kĩ năng sống có ba nhóm: Nhóm một - Nhóm kĩ năng nhận thức, Nhóm hai - Nhóm kĩ năng liên quan đến cảm xúc, Nhóm ba Nhóm kĩ năng xã hội. Kĩ năng mềm thuộc nhóm thứ ba - nhóm kĩ năng xã hội, là hệ thống những kĩ năng giúp cá nhân thiết lập và duy trì các mối quan hệ trong xã hội thúc đẩy và hỗ trợ công việc đạt hiệu quả cao. Kĩ năng mềm không những giúp người lao động nâng cao năng suất, hiệu quả công việc mà còn giúp ích rất nhiều trong mọi khía cạnh cuộc sống ở gia đình, ngoài xã hội, nâng cao đáng kể chất lượng cuộc sống và văn hóa xã hội. Có nhiều quan niệm khác nhau về các kĩ năng mềm. Khái quát lại các dạng kĩ năng mềm chính gồm những phương diện sau: Thái độ lạc quan, biết làm việc theo nhóm, giao tiếp hiệu quả, tự tin, chấp nhận và học hỏi từ những lời phê bình, thúc đẩy chính mình và dẫn dắt người khác, đa năng và biết ưu tiên công việc, biết nhìn nhận toàn diện, biết giải quyết vấn đề, có khả năng tự học 5 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] và nâng cao năng lực cá nhân, kĩ năng tư duy và hành vi tích cực, biết sáng tạo và mạo hiểm, lập kế hoạch và tổ chức công việc, có kĩ năng thuyết trình,… 1.3 Tích hợp giáo dục kĩ năng mềm trong giờ đọc – hiểu văn bản Môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thông là sự tích hợp ba phân môn: Đọc văn, Tiếng Việt và Làm văn. Mỗi phân môn có vai trò, nhiệm vụ và vị trí khác nhau trong việc trang bị tri thức khoa học, rèn luyện kĩ năng và bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh. Trong đó, Đọc văn là một phân môn quan trọng trong dạy học Ngữ văn. Thông qua việc tổ chức các hoạt động, giáo viên từng bước hướng dẫn học sinh tìm hiểu các kiến thức về nội dung và nghệ thuật, từ đó hình thành các kĩ năng đọc - hiểu cơ bản và bồi dưỡng thái độ sống đúng đắn. Hiện nay, phân môn Làm văn với các dạng đề văn nghị luận xã hội có vai trò rất lớn trong việc cung cấp cho học sinh những tri thức về đời sống và các kĩ năng sống cơ bản trong đó có các kĩ năng mềm. Bên cạnh đó chúng ta cũng không thể không nhắc đến vai trò của phân môn Đọc văn trong việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Các văn bản văn học là sáng tạo nghệ thuật của mỗi nhà văn, phản ánh cái nhìn của nhà văn về hiện thực, cho thấy được nhiều phương diện khác nhau của đời sống. Do đó, thông qua việc đọc – hiểu các văn bản văn học, giáo viên có thể tích hợp giáo dục các kĩ năng mềm cần thiết cho học sinh. II. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 2.1 Thuận lợi 6 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] Xã hội hiện nay đang đặt ra vấn đề cấp thiết mong muốn đổi mới nền giáo dục, gắn liền giáo dục trong nhà trường với thực tiễn đời sống. Ngành giáo dục cũng ý thức rõ cần phải truyền đạt các kĩ năng sống cho học sinh trong thời kì hội nhập. Trong các kĩ năng sống, kĩ năng mềm được quan tâm hàng đầu vì nó quyết định chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Môn văn có những đặc trưng riêng thích hợp với việc giáo dục các kĩ năng, dạy văn cũng là dạy các em học sinh làm người, biết thích ứng, hội nhập tốt với xã hội hiện đại. Đây là những điều kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện đề tài. 2.2 Khó khăn Tuy ý thức được tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng mềm cho học sinh nhưng hiện nay việc đưa giáo dục kĩ năng mềm vào trong nhà trường vẫn còn hạn chế, việc chủ động tích hợp giáo dục kĩ năng mềm mới chỉ ở một số giáo viên, chưa trở thành một quy định yêu cầu như một số nội dung tích hợp khác. Thời gian dạy một tiết rất ngắn nên việc tích hợp cũng chỉ trong một thời gian hạn hẹp, vì vậy, giáo viên khó kết hợp được nếu không khéo léo. Học sinh có tình trạng học lệch nên các em ít đầu tư vào môn văn, yếu về cảm thụ văn học nên khó có khả năng rút ra bài học kĩ năng mềm cho bản thân. Ngoài ra, việc rèn luyện kĩ năng mềm cần tiến hành thông qua những hoạt động tích cực thực tiễn, trong khi nhiều học sinh vẫn quen với lối học thụ động. Học sinh của trường đa số xuất thân từ nông thôn nên khả năng thích ứng với xã hội 7 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] hện đại của các em còn yếu, các hiểu biết về kĩ năng mềm ở các em hầu như là chưa có. III. Các giải pháp thực hiện Trong quá trình giảng dạy, bản thân tôi nhận thấy việc tích hợp giáo dục năng mềm một cách phù hợp trong dạy đọc – hiểu văn bản văn học góp phần tạo nên không khí trao đổi sôi nổi, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Để đạt được hiệu quả như vậy cho mỗi tiết dạy, cần tổ chức các hoạt động tạo điều kiện để học sinh tích cực chủ động trong lĩnh hội kiến thức, giáo viên không áp đặt kiến thức đối với học sinh, đồng thời có các hình thức khuyến khích, động viên các em. 3.1 Tạo hệ thống câu hỏi nêu vấn đề dẫn dắt học sinh rút ra bài học kĩ năng mềm Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi chứa đựng mâu thuẫn nghệ thuật được học sinh tiếp nhận một cách có ý thức, làm nảy sinh ở các em sự hứng thú, suy nghĩ để tìm cách giải đáp, nhằm hiểu sâu tác phẩm. Nói cách khác, đây là loại câu hỏi đem lại cho học sinh sự khó khăn trong việc tìm câu trả lời, muốn giải quyết nó, các em phải động não, phải suy nghĩ, tìm tòi những tri thức mới dựa trên những tri thức, kinh nghiệm sẵn có của mình. Trong dạy học Ngữ văn, câu hỏi nêu vấn đề có tác dụng to lớn. Nó phát huy tính tích cực, độc lập suy nghĩ, tính chủ động tìm tòi, sáng tạo, kích thích hứng thú, say mê, lôi cuốn các em vào quá trình tìm hiểu sâu, khám phá các tầng nghĩa bên trong, các điểm sáng thẩm mĩ, thưởng thức cái hay, cái đẹp và trực tiếp tham gia vào quá trình biến văn bản văn học 8 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] thành tác phẩm văn học với sự sáng tạo của riêng mình. Quan trọng hơn, các em được hình thành và rèn luyện khả năng tự tiếp nhận, tự đánh giá, phân tích văn bản văn học theo quan điểm của riêng mình. Ngoài ra, nó còn có tác dụng thôi thúc các em tìm hiểu thêm nhiều tư liệu lên quan đến văn bản được học. Trong quá trình tổ chức các hoạt động của giờ đọc - hiểu văn bản, mục tiêu quan trọng của giáo viên là giúp học sinh nắm bắt được các giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản và rèn luyện một số kĩ năng đọc – hiểu. Tuy nhiên, nhiều chi tiết nghệ thuật trong văn bản bên cạnh việc góp phần thể hiện nội dung của tác phẩm còn có khả năng gợi đến một bài học, một kĩ năng mềm nào đó có thể ứng dụng trong đời sống. Giáo viên cần có sự liên tưởng rộng, phát hiện ra các chi tiết để đặt ra các câu hỏi nêu vấn đề có tính chất gợi mở để dẫn dắt học sinh rút ra các bài học đó. Ví dụ 1: Khi tìm hiểu văn bản Chiến thắng Mtao Mxây, trước chi tiết Đăm Săn ăn được miếng trầu của Hơ Nhị trở nên khỏe mạnh và được ông trời mách cho cách đánh Mtao Mxây, nhờ đó mới giành được thắng lợi cuối cùng, giáo viên đặt câu hỏi: Em có thể rút ra bài học nào từ chi tiết này? Giáo viên có thể gợi dẫn thêm: Tại sao Đăm Săn là một người anh hùng tài giỏi võ nghệ mà vẫn phải nhờ đến sự giúp đỡ của Hơ Nhị và ông trời? Lúc này học sinh có thể trả lời được câu hỏi của giáo viên: Bài học rút ra ở đây là sống trong xã hội, chúng ta rất cần sự giúp đỡ của người khác, khi sự nỗ lực của bản thân chưa đem lại kết quả mong muốn, người ta cần tìm kiếm sự hỗ trợ của mọi người. Do đó đặt ra vấn đề là bản thân mình cũng cần luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác, từ 9 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] đó mà xây dựng ý thức làm việc tập thể, tinh thần đoàn kết tương trợ lẫn nhau. Đây chính là một kĩ năng mềm quan trọng trong công việc của mỗi cá nhân, bởi lẽ kĩ năng này giúp chúng ta có thể nhận được những lời khuyên, sự can thiệp cần thiết để tháo gỡ, giải quyết những vấn đề khó khăn, giảm bớt được căng thẳng tâm lý do bị dồn nén cảm xúc. Biết tìm kiếm sự giúp đỡ kịp thời sẽ giúp cá nhân không cảm thấy đơn độc, bi quan, và trong nhiều trường hợp, giúp chúng ta có cái nhìn mới và hướng đi mới. Ví dụ 2: Khi tìm hiểu văn bản Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu về các nhân vật chính trong tác phẩm, giáo viên yêu cầu học sinh rút ra các bài học cho riêng mình. Học sinh có thể rút ra rất nhiều bài học khác nhau. Đối với nhân vật Mị Châu, một số học sinh rút ra bài học là không nên tin người khác, giáo viên cần định hướng lại, liệu có phải chúng ta mất niềm tin vào tất cả những người xung quanh? Vấn đề đặt ra ở đây là muốn tin một người nào đó, rất cần có điều kiện, có sự thử thách bằng những cách thức khác nhau. Sau này, khi học đoạn trích Uy-lit-xơ trở về, giáo viên có thể liên hệ ngược nhân vật Pê-nê-lôp với nhân vật Mị Châu để học sinh hiểu rõ hơn về bài học này. Đây là một bài học quan trọng bởi lẽ mỗi cá nhân không thể sống đơn độc, ai cũng cần phải sống trong một cộng đồng nhất định nào đó, việc hiểu và đặt lòng tin vào ai đó có ảnh hưởng đến cách ứng xử trong đời sống. Đối với nhân vật An Dương Vương, bài học rút ra quan trọng nhất là phải biết nhìn nhận toàn diện, cần xác định được các yếu tố dẫn tới thành công, nhận 10 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] ra các nguy cơ tiềm ẩn và thời điểm nó xảy ra. Đây là một trong những kĩ năng mềm đặc biệt quan trọng trong bất kì công việc nào. Ví dụ 3: Khi tìm hiểu văn bản Tấm Cám, giáo viên đặt câu hỏi gợi mở học sinh: Em rút ra bài học gì từ chi tiết khi Bụt bảo Tấm nhìn vào giỏ xem có còn gì nữa không, Tấm nhìn vào thì thấy còn một con cá bống – trong khi trước đó Tấm nghĩ chỉ còn giỏ không và ôm mặt khóc? Học sinh có thể đưa ra nhiều bài học, giáo viên cần dẫn dắt để học sinh thấy bài học quan trọng ở đây chính là tinh thần lạc quan, biết xem xét mọi vấn đề một cách cẩn trọng, không vội nản chí, bất lực. Trong cuộc sống, cái nhìn lạc quan dẫn đến hành động và thái độ lạc quan, từ đó cho kết quả công việc khả quan và hiệu quả hơn. Ví dụ 4: Với văn bản Tam đại con gà, giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh bàn bạc: Khổng Tử có câu, “biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết – thế cũng gọi là biết vậy” câu nói này có mối liên hệ như thế nào với văn bản Tam đại con gà? Từ đó rút ra bài học gì cho bản thân trong cuộc sống? Ở đây, giáo viên cần hướng dẫn học sinh rút ra bài học về sự trung thực, thẳng thắn, biết nhìn nhận những thiếu sót để từ đó làm giàu thêm tri thức cho bản thân. Trong thời đại hiện nay, tri thức phát triển nhanh, cần phải có ý thức chủ động trang bị cho bản thân, không được che đậy chỗ thiếu hụt kiến thức, đây chính là tiền đề quan trọng để mỗi người rèn luyện cho mình kĩ năng tự học. 11 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] Ví dụ 5: Trong văn bản Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, và Thái sư Trần Thủ Độ, giáo viên đặt ra các câu hỏi yêu cầu học sinh rút ra các bài học sống cho bản thân thông qua các chi tiết trong các văn bản: Chi tiết Trần Quốc Tuấn trả lời vua Trần về kế sách chống giặc: “nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản (binh) chế trường (trận) là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì dễ chế ngự. Nếu nó đến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được…” giáo viên cần hướng dẫn học sinh không chỉ thấy được tài dùng binh của Trần Quốc Tuấn mà còn thấy được sự cần thiết phải linh hoạt ứng biến trong những tình huống khác nhau. Đây là bài học không bao giờ cũ, đặc biệt vẫn luôn có ý nghĩa trong thời đại hiện nay. Qua chi tiết Trần Thủ Độ lấy tiền lụa thưởng cho người hặc nói xấu mình trước mặt vua Thái Tông, giáo viên định hướng cho học sinh một kĩ năng mềm quan trọng, đó là kĩ năng chấp nhận và học hỏi từ những lời phê bình, biết biến lời phê bình thành kinh nghiệm và bài học cho bản thân. Qua chi tiết Linh Từ Quốc Mẫu bị người quân hiệu ngăn lại không cho đi trong thềm cấm, về nhà khóc bảo Thủ Độ rằng: “Mụ này làm vợ ông mà bọn quân hiệu khinh nhờn như thế”, Thủ Độ giận sai đi bắt, nhưng khi nghe người quân hiệu kể sự thực, Trần Thủ Độ không trách gì lại còn lấy vàng lụa ban 12 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] thưởng, giáo viên cần giúp học sinh không chỉ thấy được sự công tư phân minh, xem trọng phép tắc của Trần Thủ Độ mà còn rút ra một bài học kĩ năng quan trọng là: trước một vấn đề xảy ra, rất cần xem xét, lắng nghe một cách toàn diện, đa chiều. Có như vậy mới xác định được đúng bản chất vấn đề, từ đó tổ chức công việc, giải quyết vấn đề một cách hiệu quả. Ví dụ 6: Trong văn bản Chuyện Chức phán sự đền Tản Viên, bên cạnh việc giúp học sinh thấy được tính cách dũng cảm, tinh thần khảng khái cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác, trừ hại cho dân của Ngô Tử Văn và từ đó bồi dưỡng lòng yêu chính nghĩa cho các em, giáo viên có thể đặt câu hỏi về kĩ năng sống: Trong cuộc trò chuyện với Thổ công, Ngô Tử Văn đã tìm hiểu cặn kẽ về tên Bách hộ họ Thôi, chàng còn gạn hỏi: “Hắn có thực là tay hung hãn, có thể gieo vạ cho tôi không?” Chi tiết này có thể gợi lên cho em bài học nào? Giáo viên gợi dẫn để học sinh phát hiện ra: ở đây, Ngô Tử Văn đã rất cẩn trọng tìm hiểu để nắm rõ tình hình, hiểu được kẻ thù về cả điểm yếu và điểm mạnh để tìm ra cách thức đối phó hợp lí. Đây chính là bài học về kĩ năng lập kế hoạch và tổ chức công việc. Để lập được kế hoạch và tổ chức công việc, cần có cái nhìn tổng quan về công việc, xác định được các yếu tố dẫn tới thành công, nhận ra các nguy cơ tiềm ẩn và thời điểm nó xảy ra, xác định trước được những việc cần làm… Như vậy, thông qua các câu hỏi nêu vấn đề xoay quanh một số chi tiết trong các văn bản văn học, giáo viên có thể gợi dẫn để giúp học sinh nắm được 13 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] những bài học về kĩ năng mềm cần thiết trong cuộc sống. Trên đây mới chỉ là những tìm tòi ban đầu phát hiện ra những bài học kĩ năng mềm qua các chi tiết, giáo viên còn có thể liên hệ để phát hiện thêm nhiều chi tiết có ý nghĩa gợi mở. Tuy nhiên, đây mới chỉ là bước đầu tiên trong quá trình hình thành kĩ năng mềm cho học sinh, bởi lẽ, cũng giống như các kĩ năng khác, kĩ năng mềm chỉ thực sự được hình thành trong hoạt động và bằng hoạt động. Chỉ thông qua hoạt động thực tiễn, các bài học kĩ năng này mới thực sự phát huy được vai trò của nó. Chính vì vây, mỗi học sinh cần hiểu rõ nhiệm vụ của mình trong quá trình rèn luyện kĩ năng, không dừng lại ở việc nắm chắc kiến thức lí thuyết mà còn cần phải tích cực chủ động rèn luyện trong cuộc sống hằng ngày. Hai biện pháp dưới đây sẽ phần nào giúp học sinh rèn luyện các kĩ năng đó. 3.2 Tạo tình huống giả định để học sinh rèn luyện kĩ năng mềm Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống, những tình huống nghệ thuật trong văn chương là sự khúc xạ của những tình huống có trong cuộc đời thực hằng ngày. Do đó, việc tạo ra những tình huống giả định để học sinh rèn luyện kĩ năng mềm là một cách hữu hiệu để các em thấy văn chương hoàn toàn không xa rời cuộc sống thực tế, nó gắn liền với những con người hằng ngày xung quanh các em. Đối với yêu cầu này, các em được tự do trình bày ý kiến của mình, giáo viên lắng nghe và tôn trọng các ý kiến phát biểu của học sinh. Tuy nhiên, giáo viên cần khái quát lại để các em nắm được một số kĩ năng mềm quan trọng. 14 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] Ví dụ 1: Khi dạy đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, giáo viên có thể đặt ra tình huống giả định: Nếu có mặt trong đêm người chinh phụ đang cô đơn, buồn tủi đó, anh chị sẽ nói những gì, làm những gì để nàng vơi bớt nỗi buồn? Khi tạo ra tình huống này, rất nhiều em học sinh ở các lớp tôi trực tiếp giảng dạy đã đưa ra những suy nghĩ rất sâu sắc: Yên lặng lắng nghe người chinh phụ giãi bày nỗi buồn, những lo lắng chất chứa trong lòng; động viên nàng rằng tương lai không xa chồng nàng sẽ trở về; khuyên nàng tìm những niềm vui khác để vơi đi nỗi buồn nhớ,… Ví dụ 2: Trong đoạn trích Trao duyên, giáo viên đặt ra tình huống: Nếu đặt mình ở vị trí của Thúy Vân, anh chị sẽ suy nghĩ gì trước những lời nói và hành động của Thúy Kiều? Nhiều em học sinh khi nhập vai Thúy Vân đã thể hiện lòng thương cảm, sự cảm thông sâu sắc với nỗi đau của Thuý Kiều, một số em học sinh cũng bày tỏ băn khoăn vì có thể bản thân sẽ phải chịu thiệt thòi trong một cuộc hôn nhân không có tình yêu, cuộc sống vợ chồng sẽ không hạnh phúc khi Kim Trọng lúc nào cũng hướng về Thúy Kiều. Tuy nhiên, cuối cùng các em vẫn khẳng định sẽ đồng ý nhận lời trao duyên của chị, bởi sự hi sinh, bởi những lí lẽ ràng buộc chí tình, chí nghĩa của Thúy Kiều. Qua việc học sinh bày tỏ những suy nghĩ như trên, giáo viên có thể khái quát lại thành kĩ năng mềm. Đó là kĩ năng biết lắng nghe – một kĩ năng quan trọng trong giao tiếp: cần biểu lộ sự chân thành, thấu hiểu, không chỉ dùng lời lẽ để an ủi, động viên mà còn biết im lặng để lắng nghe lời giãi bày của người 15 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] đang có tâm trạng buồn, biết sẻ chia những khó khăn trong cuộc sống. Con người sống trong xã hội không thể tồn tại riêng rẽ đơn độc, trong quá trình chung sống trong cộng đồng, rất cần có sự giao tiếp thân tình, những chia sẻ động viên, an ủi. Bởi thế, rèn luyện kĩ năng giao tiếp, kĩ năng lắng nghe là rất quan trọng. 3.3 Nêu vấn đề yêu cầu học sinh thảo luận nhóm và tổ chức thuyết trình kết quả thảo luận trước lớp *Thảo luận nhóm Thảo luận nhóm là phương pháp dạy học hiện đại, lấy người học làm trung tâm. Với phương pháp này, người học được làm việc cùng nhau theo các nhóm nhỏ và mỗi một thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia vào giải quyết các nhiệm vụ học tập trong một khoảng thời gian nhất định dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Mục đích chính của thảo luận nhóm là thông qua cộng tác học tập, giáo viên giúp học sinh: Phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực; phát triển năng lực cộng tác làm việc cùng đồng đội; giúp các em có điều kiện trau dồi, rèn luyện khả năng ngôn ngữ thông qua cộng tác làm việc trong nhóm; phát triển năng lực giao tiếp, biết lắng nghe, chấp nhận và phê phán ý kiến người khác; các em biết đưa ra những ý kiến và bảo vệ những ý kiến của mình, có sự tự tin trong học tập, các em sẽ mạnh dạn và không sợ mắc phải những sai lầm; giúp các em hình thành dần phương pháp nghiên cứu khoa học, rèn luyện và phát triển năng lực 16 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] khoa học trong mọi vấn đề cuộc sống. Đây là các kĩ năng mềm rất quan trọng và cần thiết cho cuộc sống của các em. Các bước tiến hành thảo luận nhóm: Bước 1: Giáo viên nêu lên vấn đề cần thảo luận, chia nhóm và đề ra nhiệm vụ cụ thể cho các nhóm. Bước 2: Từng nhóm ngồi với nhau để dễ dàng trao đổi ý kiến, giáo viên quan sát, dẫn dắt học sinh vận dụng tư duy vốn có để giải quyết từng vấn đề: gợi lại những tri thức đã có, khơi gợi suy nghĩ thông qua vốn sống của các em. Nhóm trưởng thu thập các ý kiến trong nhóm để báo cáo trước lớp. *Tổ chức thuyết trình trước lớp Sau khi học sinh đã có kết quả thảo luận nhóm, giáo viên cần tổ chức cho các nhóm thuyết trình trước lớp, qua đó, rèn luyện cho các em kĩ năng thuyết trình. Khi tiến hành thuyết trình trước lớp, những học sinh khác cần lắng nghe, ghi dàn ý, nội dung chính, vạch ra ý không hiểu hoặc không đồng tình để thắc mắc. Sau khi người thuyết trình đã hoàn thành bài nói, các em cần nêu nhận xét, đánh giá, đề xuất thắc mắc, tranh luận về những ý kiến đã đưa ra. Học sinh cần tích cực tham gia thảo luận để giải quyết một cách đúng đắn, toàn diện vấn đề. Sau đó, học sinh tranh luận, phân tích cũng như đặt ra các câu hỏi để bảo vệ ý kiến của mình. Giáo viên nhận xét, đánh giá, rút ra kết luận cuối cùng, học sinh lắng nghe, kết hợp ghi chép. 17 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] Ví dụ 1: Khi dạy bài Tấm Cám, giáo viên đặt ra vấn đề: Tấm giết Cám là một hành động đáng sợ. Liệu chi tiết đó có làm giảm đi vẻ đẹp của Tấm, trái với truyền thống nhân ái, giàu lòng vị tha của người Việt Nam không? Vì sao? Với câu hỏi như vậy, học sinh sẽ trả lời là “không” hoặc “có”; còn phần lý giải sẽ gặp những khó khăn. Trong trường hợp này, giáo viên định hướng cho các em nhớ lại những đặc điểm của nhân vật Tấm, nhớ lại đặc trưng của văn học dân gian - về nhân vật chức năng trong các truyện cổ tích, gợi mở các quan điểm khác nhau mà người thời xưa và nay đánh giá, cảm nhận cá nhân của em về vấn đề đó… Ví dụ 2: Khi dạy bài Thư dụ Vương Thông lần nữa, giáo viên yêu cầu các nhóm bàn bạc về nghệ thuật thuyết phục của lá thư. Yêu cầu học sinh bàn luận vấn đề này, giáo viên không những giúp học sinh rèn luyện những kĩ năng như đã nói ở trên mà còn lưu ý các em học tập ở người xưa kĩ năng lập luận thuyết phục người khác – một kĩ năng quan trọng trong cuộc sống. Khi học sinh đã trình bày, giáo viên cần yêu cầu cả lớp đưa ra những thắc mắc, giáo viên có thể đặt ra một số câu hỏi mang tính chất phản biện như: Tại sao ngay đầu thư Nguyễn Trãi lại dùng những lời lẽ đầy tôn kính: “Thư kính đưa quan Tổng binh và các vị đại nhân”? Liệu có phải ở đây Nguyễn Trãi đã tỏ thái độ hạ thấp mình trước kẻ thù? Giáo viên tạo điều kiện để các em trao đổi, và tổng kết lại nghệ thuật thuyết phục của Nguyễn Trãi thể hiện trên các khía cạnh: lí luận sắc bén kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí lẽ và dẫn chứng, giữa tư duy logic và tư duy hình tượng; ngôn ngữ biến hóa linh hoạt phù hợp với từng đối 18 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] tượng (lối nói đầy tôn trọng ở đầu thư phù hợp với người nhận thư ở đây là Vương Thông),… Trong một tiết học, do thời gian có hạn nên việc tranh luận cần phải được tiến hành khẩn trương, nhanh chóng, giáo viên cần khéo léo tổ chức, điều khiển để tránh tình trạng vượt quá thời gian cho phép hay học sinh trây ỳ, không chịu thắc mắc, đưa ra ý kiến cá nhân. Tổng kết lại buổi thuyết trình, giáo viên cần khái quát cho học sinh các kĩ năng thuyết trình cần thiết: cần xác định đối tượng nghe (Người nghe là ai? Người nghe muốn biết gì? Người nghe đã biết gì về chủ đề thuyết trình), xác định mục đích thuyết trình, xây dựng cấu trúc nội dung, cần thu hút sự chú ý của người nghe trong quá trình thuyết trình, trình bày thuyết phục, logic, có luận chứng, nên rèn luyện trình bày ứng khẩu dựa vào đề cương, cần hướng đến người nghe và theo dõi sự phản hồi của người nghe, giữ nét mặt và hành vi đúng mực trong quá trình thuyết trình. Các buổi thảo luận và thuyết trình trên lớp như vậy không chỉ giúp học sinh hào hứng trong học tập mà còn góp phần giúp các em rèn luyện các kĩ năng mềm cần thiết để vận dụng trong đời sống hằng ngày. IV. Kiểm nghiệm Sau một thời gian sử dụng các biện pháp để tích hợp giáo dục kĩ năng mềm cho học sinh trong các giờ đọc - hiểu văn bản, tôi nhận thấy không khí các 19 Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] giờ học được cải thiện đáng kể. Số lượng học sinh xung phong phát biểu xây dựng bài cũng như số học sinh trả lời được câu hỏi do giáo viên nêu ra ngày càng nhiều hơn. Nhờ thế, các em có vốn liếng văn học nhất định để làm tốt các bài nghị luận văn học. Điểm số của các em được cải thiện đáng kể: Lớp 10c3: 28/36 em (78 %) có điểm trung bình học kì 2 cao hơn kì 1; Lớp 10c7: 28/33 em (85 %) có điểm số kì 2 cao hơn kì 1. Trong mỗi tiết học, giáo viên phát huy được khả năng nhiều mặt của học sinh, kích thích động cơ, hứng thú học tập của người học, phát huy tính độc lập, khả năng sáng tạo. Người học tự định hướng hoạt động học tập, tự khám phá, tích hợp, trình bày, tự chủ động tổ chức hoạt động học tập, dám chịu trách nhiệm. Các em bước đầu hình thành cho mình năng lực làm việc theo nhóm, nâng cao khả năng tổ chức, năng lực tư duy sáng tạo,… Kết quả cụ thể như sau: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan