Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số kinh nghiệm giúp học sinh tiếp nhận và cảm thụ truyện kiều từ góc độ thi ...

Tài liệu Một số kinh nghiệm giúp học sinh tiếp nhận và cảm thụ truyện kiều từ góc độ thi pháp học trong trường thpt

.DOC
34
206
53

Mô tả:

Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail: [email protected] MỞ ĐẦU 1- Lý do chọn đề tài 1. Thi pháp học là bộ môn khoa học xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại, gắn liền với tên tuổi của Aristote và cuốn Nghệ thuật thi ca của ông. Thi pháp học là bộ môn lâu đời nhất nghiên cứu văn học. Nhưng phải đến đầu thế kỷ XX, nó mới thực sự trở thành một môn khoa học được nhiều người biết đến. Thi pháp học nghiên cứu hệ thống các phương thức, phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. “Thi pháp học giúp ta công cụ để thâm nhập vào cấu trúc tác phẩm, cốt cách tư duy của tác giả cũng như nắm bắt mã văn hóa nghệ thuật của các tác giả và các thời kì văn học nghệ thuật, từ đó nâng cao năng lực cảm thụ tác phẩm” [Từ điển thuật ngữ văn học, tr 251]. Ở Việt Nam, vấn đề Thi pháp học không còn mới mẻ nhất là sau thời kì đổi mới văn học năm 1986. Thi pháp học được nghiên cứu, giảng dạy ở bậc Cao học, Đại học và có mặt trong tài liệu bồi dưỡng thường xuyên giáo viên trung học. Thi pháp học được vận dụng trong bài giảng của giáo viên, bài làm văn của học sinh và trở thành một hướng đi hiệu quả nhằm khám phá, tiếp nhận tác phẩm văn học. 2. Truyện Kiều mang lại niềm tự hào cho nền văn học Việt Nam. Đó là tác phẩm kết tinh vẻ đẹp của ngôn ngữ và tâm hồn dân tộc. Truyện Kiều là tuyệt đỉnh văn chương trải qua thời gian vẫn vẹn nguyên tiếng kêu thiết tha về giá trị nhân văn đích thực trong cuộc sống. Trong chương trình ngữ văn 10, Truyện Kiều là tác phẩm có thời lượng tìm hiểu khá lớn. Tổng số tiết học về Truyện Kiều là 5 tiết, có 4 đoạn trích được giới thiệu trong đó có 2 đoạn trích giảng. 3. Trong thực tế, học sinh phổ thông gặp khó khăn trong việc tiếp thu văn học trung đại nói chung và Truyện Kiều nói riêng. Theo tìm hiểu của chúng tôi đa số học sinh lớp 10 cho rằng học Truyện Kiều khó, không hấp dẫn và chưa đọc toàn bộ tác phẩm nhưng các em lại khẳng định rằng Truyện Kiều là kiệt tác văn học của dân tộc. Điều đó cho thấy các em còn mới đánh giá theo cảm tính mà hạn chế trong tiếp nhận tác phẩm văn học nói chung và Truyện Kiều nói riêng. Tiếp nhận tác phẩm văn học trung đại có nhiều khó khăn với các em bởi khoảng cách thời gian và đặc trưng thi pháp, quan niệm nghệ thuật riêng biệt của thời kì văn học này. 4. Đổi mới phương pháp dạy học hướng tới việc lấy học sinh làm trung tâm đang là vấn đề cấp thiết đối với các giáo viên. Với bộ môn ngữ văn, các giờ lên lớp cần trở thành giờ Đọc - hiểu văn bản của học sinh nhằm đưa các em đến với tác phẩm bằng cách tiếp xúc văn bản nghệ thuật, rung cảm và tiếp nhận toàn vẹn tác phẩm văn học. Xu hướng đó phù hợp với việc vận dụng Thi pháp vào dạy học bộ môn vì nó đưa người đọc tới việc tiếp nhận văn bản ngôn từ tức là “ hình thức vật chất duy nhất cho sự tồn tại nội dung tác phẩm” [150 thuật ngữ văn học, 307]. Trong thực tế giảng dạy ở trường THPT, chúng tôi nhận thấy việc vận dụng Thi pháp học vào khai thác tác phẩm còn nhiều hạn chế và ít được chú trọng. Để giúp học sinh tiếp nhận một tác phẩm văn học, giáo viên có nhiều con đường khác nhau. Tuy nhiên, nếu khía cạnh nghệ thuật còn bị bỏ ngỏ thì sẽ không thể khai thác tác phẩm một cách sâu sắc. Với đặc trưng môn học tìm hiểu về tác phẩm nghệ thuật như ngữ văn, nếu không đưa học sinh đến tiếp nhận tác phẩm thì không thể đạt được mục đích giáo dục. Từ những suy nghĩ đó, người viết đến với đề tài Một số kinh nghiệm giúp học sinh Tiếp nhận và cảm thụ Truyện Kiều từ góc độ Thi pháp học trong trường THPT . với mong muốn có được phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong quá trình học tập tiếp nhận và thưởng thức vẻ đẹp toàn vẹn của tác phẩm văn học. 2- Mục đích nghiên cứu Với đề tài: Một số kinh nghiệm giúp học sinh Tiếp nhận và cảm thụ Truyện Kiều từ góc độ Thi pháp học trong trường THPT”, người viết mong muốn hướng tới: - Làm rõ một vài đặc điểm nổi bật trong Thi pháp Truyện Kiều. - Vận dụng Thi pháp Truyện Kiều trong tìm hiểu đoạn trích Trao duyên. 2 - Đóng góp thêm một hướng đi mới trong quá trình giảng dạy tác phẩm văn học ở trường phổ thông. 3- Đối tượng nghiên cứu Khảo sát các vấn đề về Thi pháp Truyện Kiều, hướng tới vận dụng vào việc đổi mới phương pháp dạy học qua bài giảng cụ thể. 4- Giới hạn phạm vi nghiên cứu Với đề tài này, người viết chỉ đi sâu khai thác Truyện Kiều ở góc độ Thi pháp học. Đồng thời đưa ra hướng vận dụng và kết quả đạt được sau khi tiếp nhận đoạn trích Trao duyên theo hướng này. 5- Nhiệm vụ nghiên cứu Làm sáng tỏ vấn đề Thi pháp Truyện Kiều và đánh giá kết quả việc vận dụng Thi pháp trong thực tiễn giảng dạy đoạn trích Trao duyên. 6- Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích tác phẩm - Phương pháp so sánh - Phương pháp hệ thống - Phương pháp thực nghiệm - Vận dụng hướng nghiên cứu Thi pháp học, ngôn ngữ học 7- Thời gian nghiên cứu Từ tháng 8/2011 đến tháng 2/ 2012 3 NỘI DUNG Chương I: Cơ sở lý luận của đề tài 1.1. Đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy học môn văn nói riêng đang là vấn đề cấp thiết nhằm hướng tới khẳng định vai trò năng động, sáng tạo của học sinh như một bạn đọc đích thực; phát huy vai trò chủ thể của học sinh trong quá trình học văn. Đây cũng là nguyên tắc đổi mới phương pháp dạy học. Bởi lẽ, không có sự vận động của bản thân chủ thể thì mọi hoạt động của giáo viên trở nên áp đặt. Những năng lực chủ quan của học sinh có được phát huy thì việc chiếm lĩnh tri thức, thưởng thức tác phẩm, hình thành phẩm chất, nhân cách…mới thực sự có hiệu quả. Như vậy, việc giúp các em có một phương pháp tiếp nhận tác phẩm phù hợp hiệu quả là hạt nhân của quá trình đổi mới phương pháp dạy học. 1.2. Đặc trưng của môn văn là môn học về tác phẩm nghệ thuật ngôn từ với bản chất thẩm mĩ của nó. Tác phẩm văn chương vẽ nên bức tranh sinh động về đời sống con người qua ngôn từ được sử dụng một cách có nghệ thuật. Nó tạo nên hình tượng nghệ thuật - sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và cải tạo hiện thực theo qui luật của nghệ thuật. Như vậy, dạy học văn cần hướng đến đặc trưng riêng của bộ môn để có cách tiếp cận phù hợp. Bản chất của quá trình dạy học văn phụ thuộc vào quá trình nhận thức sáng tỏ và đầy đủ mối quan hệ giữa tính khoa học và tính nghệ thuật của môn văn. Đặc trưng của môn văn khiến cho quá trình dạy học văn trở thành quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học của học sinh. Quá trình tiếp nhận văn học nói chung vốn đã phức tạp. Với đối tượng học sinh trong nhà trường, quá trình này càng phức tạp hơn, vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lứa tuổi, hứng thú, nhu cầu, kinh nghiệm sống…Do đó, đổi mới phương pháp dạy học văn cần quan tâm đến 4 những cách tiếp nhận tác phẩm theo đặc thù môn học và đối tượng học sinh. Tiếp nhận tác phẩm theo hướng Thi pháp là một trong những phương pháp có thể áp dụng trong thực tiễn dạy học. 1.3. Hiện nay, có nhiều cách hiểu về Thi pháp học. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học, tác giả Lại Nguyên Ân cho rằng đó là “Ngành học thuật nghiên cứu hệ thống các phương thức, phương tiện biểu hiện trong tác phẩm văn học” và “Do chỗ mọi phương tiện biểu hiện trong văn học rút cuộc đều quy được về ngôn ngữ, cho nên có thể định nghĩa Thi học như khoa học về nghệ thuật sử dụng các phương tiện ngôn ngữ”. Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên cũng cho rằng “Thi pháp học nghiên cứu hệ thống các phương thức, phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của Thi pháp học là chia tách và hệ thống hóa các yếu tố của văn bản nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mĩ, chiều sâu phản ánh của tác phẩm nghệ thuật”. Như vậy, có thể hiểu Thi pháp học là cách thức phân tích tác phẩm bám vào văn bản là chính, không chú trọng đến những vấn đề nằm ngoài văn bản như tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật, giá trị hiện thực, tác dụng xã hội… Thi pháp học chú ý đến yếu tố hình thức tác phẩm như hình tượng nhân vật; không gian - thời gian; kết cấu - cốt truyện; điểm nhìn nghệ thuật; ngôn ngữ; thể loại… Nội dung trong tác phẩm phải được suy ra từ hình thức, đó là “hình thức mang tính quan niệm” (Trần Đình Sử). Phương pháp chủ yếu của Thi pháp học là phương pháp hình thức. Chúng ta hiểu, “Phương pháp hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó” (Nguyễn Văn Dân). Theo tôi, để đạt được hiệu quả tốt nhất trong giờ học, nên kết hợp nhiều phương pháp, khai thác thế mạnh của chúng. Dạy văn theo hướng Thi pháp học là phân tích hình thức nghệ thuật tác phẩm từ đó khám phá các phương diện khác nhau của tác 5 phẩm. Với đề tài này, người viết đi sâu khai thác, tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du từ góc độ Thi pháp học trên những phương diện sau: thể loại, tư tưởng, nhân vật, cách kể chuyện, cái nhìn nghệ thuật về con người, không gian, thời gian, ngôn ngữ, giọng điệu. Sau đó, người viết thiết kế giáo án thử nghiệm và khảo sát kết quả học tập của học sinh. Bên cạnh đó, giờ lên lớp cũng cần thiết phải chú ý đến vấn đề về tác giả, thời đại; kết hợp phương pháp giảng bình, gợi mở, vấn đáp, nêu vấn đề…để giờ học sinh động và hấp dẫn giúp học sinh dễ dàng tiếp nhận tác phẩm. 6 Chương II: Thực trạng của đề tài Truyện Kiều là tác phẩm văn học kết tinh văn hóa tinh thần, vẻ đẹp của ngôn ngữ và tài hoa của dân tộc. Tìm hiểu tác phẩm trên phương diện Thi pháp giúp người đọc đánh giá được tính sáng tạo toàn vẹn của tác phẩm nhất là với tác phẩm dựa trên một sáng tác của nước ngoài như Truyện Kiều. Chúng tôi nhận thấy phần sáng tạo của Nguyễn Du mang lại giá trị đích thực cho tác phẩm. Các phương diện nghệ thuật của tác phẩm như thể loại, tư tưởng, nhân vật, cách kể chuyện cho đến không gian, thời gian, ngôn ngữ, giọng điệu… đều là sự thăng hoa của một tài năng nghệ sĩ. 2.1. Thể loại truyện Nôm Thể loại văn học là một phạm trù mang tính lịch sử. Các thể loại xuất hiện trong một giai đoạn phát triển nhất định và được thay thế bằng thể loại khác. Như vậy, thể loại cũng là một yếu tố hình thức mang tính nội dung của tác phẩm. Truyện Kiều của Nguyễn Du thuộc về thể loại truyện Nôm. Đó là thể loại văn học tự sự bằng thơ lục bát của người Việt, thịnh hành trong thế kỉ XVII, XVIII. Truyện Nôm nằm trong mạch truyện thơ thịnh hành ở văn học vùng Đông Nam Á. Truyện Nôm là truyện thơ nên có các yếu tố của tác phẩm tự sự như nhân vật, cốt truyện, sự kiện… Xét hệ thống tác phẩm tự sự, Truyện Kiều thuộc loại truyện vừa, chi tiết chọn lọc vừa đủ để thể hiện nhân vật. Tác giả hướng đến khắc họa con người chủ thể với thế giới nội tâm, ý nghĩ, lời thoại, lời kể… để nhân vật hiện lên cụ thể, gợi cảm. Bên cạnh đặc trưng của tác phẩm tự sự là chất trữ tình đậm đà của tác phẩm. 7 Nét đặc sắc trong Truyện Kiều là tác giả có ý thức kể lại rành mạch từng chuyện. Mỗi sự kiện đều được kể một cách hoàn chỉnh từ đầu đến cuối, từ cảnh đến tình. Mô hình cốt truyện không giản đơn như các truyện Nôm dân gian. Kết cấu truyện đẩy đi, đẩy lại chứ không xuôi chiều. Có thể nói, Truyện Kiều mang cốt truyện của thể loại tiểu thuyết. 2.2. Tư tưởng, nhân vật và cách kể chuyện Tư tưởng tác phẩm văn học là sự nhận thức, lí giải và thái độ đối với toàn bộ nội dung cụ thể, sống động của tác phẩm văn học, cũng như vấn đề nhân sinh đặt ra trong đó. Truyện Kiều là một tác phẩm văn chương đích thực nhưng không chỉ là vấn đề câu chữ, nghệ thuật biểu hiện mà qua đó còn thấy quan niệm và cảm nhận của Nguyễn Du đối với đời. Nguyễn Du mở đầu tác phẩm bằng quan niệm tài - mệnh “Trăm năm trong cõi người ta Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” Kết thúc tác phẩm là trăn trở về tâm và tài “Thiện căn ở tại lòng ta Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” Tư tưởng đó chi phối việc chọn lựa và miêu tả nhân vật. Truyện Kiều tái hiện một thế giới người tài. Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải…cho đến Hồ Tôn Hiến, Sở Khanh, Thúc Sinh đều có tài và biết khen tài. Tài ở đây là biểu hiện cho phẩm chất và cá tính. Nó đóng một vai trò quan trọng trong những biến cố của cuộc đời nhân vật. Thúy Kiều nhờ có tài đàn, tài thơ mà được coi trọng nhưng cũng vì tài đó mà nàng mắc vạ. Tài năng trở thành cái cớ cho cuộc đời truân chuyên theo quan niệm tài - mệnh tương đố trong tác phẩm. Nhưng tài không phải là yếu tố chi phối toàn bộ tác phẩm. Chính chữ tâm, tức là cái tình, tấm lòng của nhân vật chính mới làm nên vẻ đẹp nhân văn của tác phẩm. Bởi chữ tâm này mà Kiều đã nhận lời bán mình chuộc cha và trao duyên lại cho Thúy Vân. Cũng vì chữ tâm mà Kiều cam phận lẽ mọn, khuyên Thúc Sinh trở về; báo ân, báo oán rồi tha bổng cho Hoạn Thư; cũng vì thế mà Kiều 8 khuyên Từ Hải hàng rồi chết theo Từ Hải; nàng giữ tình cầm cờ với Kim Trọng cũng vì chữ tâm đó. Có thể nói Truyện Kiều là sáng tạo để thử thách cái tâm của con người. Bạn đọc yêu mến nàng Kiều không chỉ vì cái tài mà còn vì cái tâm trong sáng, tấm lòng trinh bạch của nàng. Nhân vật Thúy Kiều được tác giả tập trung miêu tả trong những mâu thuẫn nội tâm, giày vò, khắc khoải đậm chất bi kịch. Tác giả hướng đến khám phá chiều sâu tâm lí của nhân vật. Nỗi đau của nàng Kiều không nhìn nhận ở khía cạnh phi ngã mà đó là chữ thân với nghĩa là mình, là thân thể, là phần vật chất, phần nhỏ bé, hữu hạn, dễ bị hư nát, đau đớn, riêng tư và cũng bản năng nhất. Như vậy, chữ thân khiến Truyện Kiều không chỉ là chuyện của tài - mệnh tương đố mà đó còn là phân phận con người. Có thân là có nghiệp, có nghiệp là có khổ. Cho nên, tài mệnh là một trường hợp của thân mệnh. Như vậy, Truyện Kiều phản ánh nỗi khổ nạn của kiếp người. Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm của Nguyễn Du đã lấy chữ thân làm nền tảng tức là đề cập đến những vấn đề nhân bản nhất. Nghệ thuật kể chuyện cũng là một sáng tạo của Nguyễn Du. Truyện Kiều không phải là một sự nhào nặn, thêm bớt tác phẩm theo một cách khác mà là ở quan niệm mới về nhân vật và cách kể chuyện. Nguyễn Du biến con người đạo lí thành con người tâm lí chính điều này khiến tác giả thay đổi điểm nhìn trần thuật. Người kể chuyện không kể từ bên ngoài mà đi theo cái nhìn của nhân vật, từ tâm trạng nhân vật mà ra. Vì thế, Nguyễn Du chỉ tái hiện các sự kiện theo chừng mực đủ để khêu gợi và bộ lộ tâm tư của nhân vật khiến Truyện Kiều trở thành một thiên truyện tâm lí độc đáo. Nguyên tác chú trọng sự việc còn Truyện Kiều chú trọng phơi bày tâm trạng nhân vật trước sự việc đó. Nguyễn Du đã huy động các thủ pháp trữ tình để diễn tả tâm trạng nhân vật một cách tinh tế trong đó độc thoại nội tâm được sử dụng rất hiệu quả. 2.3. Cái nhìn nghệ thuật về con người Trong khi phản ánh đời sống, nghệ thuật thể hiện cái nhìn chủ quan của mình đối với các hiện tượng từ đó bộc lộ ý nghĩa về đời sống. Để hiểu được nội 9 dung đời sống trong tác phẩm, phải tìm hiểu cái nhìn nghệ thuật, cách tư duy, cảm nhận của chính nhà văn. Cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du gắn liền với nghệ thuật phương Đông. Con người trong văn học trung đại được xây dựng theo mô típ con người vũ trụ. Tầm vóc, hành động của con người mang qui mô khác biệt so với văn học các thời kì khác. Theo đó, người tài tình luôn được tôn xưng. Những người này thường được khắc họa với đường nét bề ngoài đầy ước lệ. Đạm Tiên là đấng tài hoa; Kim Trọng là bậc tài danh; Từ Hải là đấng anh hùng… Mặt khác, Nguyễn Du còn coi con người là sự thể hiện của những giá trị tinh thần được đề cao trong xã hội như: chí, tình, đạo, nghĩa. Con người bộc lộ các phẩm chất đạo đức và thể hiện qua nguyên tắc bày tỏ. Cho nên, nhân vật thường có hành động khác thường để hiệu quả tỏ lòng càng lớn. Ví như: Kiều khóc mồ vô chủ; thề nguyền chung thủy; cậy em thay lời; Kim Trọng ốm tương tư, khóc vật vã; Từ Hải chết đứng…Nguyên tắc này phù hợp với Thi pháp chung của văn học trung đại. Những trạng thái trong tâm hồn phải được biểu hiện thành dấu hiệu ra bên ngoài, biểu hiện càng lộ và mạnh thì càng gây chú ý. Cái mới của Nguyễn Du là từ tỏ lòng nhà thơ đi đến bộc lộ tấm lòng, phân tích tâm lí nhân vật, khám phá sự phức hợp tâm lí trong con người. Cho nên, tình cảm đối nghịch, lưỡng tính là nét tiêu biểu của nhiều nhân vật trong Truyện Kiều. Kiều vừa dứt khoát trao duyên cho em vừa nuối tiếc, đau đớn; vừa nghi ngờ Sở Khanh vừa phải liều theo y; vừa tha bổng Hoạn Thư vừa mong được trừng trị tội. Từ Hải vừa khinh ghét triều đình vừa hy vọng mong manh vào sự bao dung của nó. Những con người trong Truyện Kiều đều không thể vo tròn trong một chuẩn mực. Tâm hồn nàng Kiều thuộc về phạm trù những phẩm chất cao đẹp nhất nhưng cũng có những suy tư trần tục chỉ có ý nghĩa riêng đối với tình cảm của nàng. Kiều thường xuất hiện với những suy nghĩ rành rọt, nhưng cũng có lúc đắm mình trong ảo giác như khi gọi tên chàng Kim lúc trao duyên; nhẹ dạ bước chân theo Sở Khanh; sự xiêu lòng trước lễ hậu của Hồ Tôn Hiến… 10 Cuộc đời lắm bước ngoặt của Kiều cho thấy nhiều giới hạn khác nhau trong tâm hồn con người. Kiều với Kim Trọng là rung động đằm thắm bên người tình đồng điệu; nàng với Thúc Sinh là những ngày hạnh phúc nồng nàn của đôi vợ chồng trẻ; sánh với Từ Hải, nàng là con người quyền uy phi phàm khiến Kiều muốn làm chủ vận mệnh, báo ân, báo oán. Như vậy, Nguyễn Du đã đi sâu vào sự khám phá tâm hồn con người với tất cả sự phong phú của đời sống thực tại. Nhân vật trong Truyện Kiều coi trọng thế giới bên trong hơn sự biểu lộ bên ngoài. Lời nói bên trong chân thực và sinh động hơn lời nói bên ngoài. Nguyễn Du nhìn thấu nhân vật của mình, nắm bắt hồn vía và miêu tả một cách tài tình. Nhà thơ có quan niệm về cá tính con người một cách rõ rệt. Người trần thuật trong Truyện Kiều thuộc kiểu người kể chuyện biết trước và biết hết nhưng người kể chuyện đó chỉ đứng trên nhân vật ở một số phần mang tính chất giới thiệu như : Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh / Vẫn là một đứa phong tình đã quen; Lầu xanh quen thói xưa nay / Nghề này thì lấy ông này tiên sư. Người trần thuật chủ yếu lấy điểm nhìn nhân vật làm chỗ đứng cho mình để thể nghiệm mọi cảm xúc. Trong sự miêu tả thường không báo trước cái đã biết mà chú ý để mọi sự vật, sự việc hiện dần ra qua sự suy đoán của con người. Do đó, tác giả có cái nhìn nghệ thuật nhiều chiều đối với các hiện tượng đời sống được miêu tả. Nguyễn Du đặt các sự kiện trong cuộc đời Kiều vào sự nhìn nhận, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau. Việc nàng bán mình được nhìn từ chuẩn mực đạo đức xã hội đương thời “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nhưng ở góc độ cá nhân, nàng Kiều không đành lòng trước mối tình tan vỡ “ Ôi Kim lang, hỡi Kim lang Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây’’ Việc nhờ cậy em cũng có hai chiều: nửa cậy em, nửa không muốn; đối với chữ trinh có quan điểm chuẩn mực nhưng cũng có hối hận thầm kín, riêng tư “Biết thân đến bước lạc loài / Nhị đào thà bẻ cho người tình chung’’. Với 11 ông trời, có khi vai trò được khẳng định tuyệt đối, có khi lại cho rằng con người có khả năng tự thay đổi vận mệnh và chịu trách nhiệm trước cuộc sống của mình “Người dầu muốn quyết trời nào đã cho’’ “Trời kia đã bắt làm người có thân’’ “Bắt phong trần phải phong trần’’ “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều’’ “Mình làm mình chịu, kêu mà ai thương!’’ Điều này thể hiện sự mâu thuẫn trong thế giới quan của nhà thơ nhưng cái nhìn nghệ thuật đa chiều lại là ưu điểm. Cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du cho thấy ông đã đổi mới quan niệm về con người, bao quát cuộc sống trong một phạm vi rộng lớn đồng thời có cái nhìn gần gũi với bản chất con người theo quan niệm nhân văn phổ quát. 2.4. Không gian và thời gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật là mô hình nghệ thuật về thế giới mà con người đang sống; đang cảm thấy vị trí, số phận của mình ở trong đó. Truyện Kiều là chuyện của cuộc đời lưu lạc nên có sự xuất hiện của nhiều không gian xa lạ. Sau mỗi một biến cố, nhân vật lại bị đẩy vào một không gian mới, xa lạ và hàm chứa những hiểm họa. Không gian trước lưu lạc bao giờ cũng bình yên “Êm đềm trướng rủ màn che Tường đông ong bướm đi vê mặc ai” Không gian lưu lạc đẩy con người vào tình thế không nơi bấu víu, lênh đênh, trôi dạt. Nguyễn Du láy đi, láy lại hình ảnh cánh bèo mặt nước; nước trôi hoa rụng; chiếc bách sóng đào…để diễn tả nỗi bơ vơ, lạc loài, buồn tủi của nàng Kiều. Con người trung đại luôn mang trong mình sự gắn bó với quê hương, gia đình. Đó còn là cõi bình yên để nương tựa mà khi rời bỏ nó, người ta trở nên yếu đuối, trống rỗng như tự đánh mất mình. “Bên trời góc bể bơ vơ” 12 “Chân trời mặt biển lênh đênh” Không gian và thời gian trong Truyện Kiều đã trở thành tín hiệu thẩm mĩ mang tâm trạng của nhân vật. Cho nên, có thể thấy hầu hết không gian và thời gian trong truyện đều được nâng lên thành không gian và thời gian tâm trạng. 2.5. Ngôn ngữ và giọng điệu Ngôn ngữ là chất liệu để nhà văn tạo lập nên tác phẩm. Không có ngôn ngữ thì cũng không có tác phẩm văn học. Ngôn ngữ nghệ thuật là “một hệ thống các phương tức, phương tiện tạo hình, biểu hiện, hệ thống các qui tắc thông báo bằng tín hiệu thẩm mĩ của một ngành, một sáng tác nghệ thuật” [Từ điển thuật ngữ văn học, tr.186]. Sáng tạo về mặt ngôn ngữ cho thấy quan niệm sáng tác, tư duy nghệ thuật cũng như sự đánh giá của nhà văn về hiện thực cuộc sống. Ngôn ngữ trong Truyện Kiều vừa mang màu sắc bác học với cách dùng từ trang nhã, ước lệ; sử dụng khá nhiều điển tích, điển cố. Bên cạnh đó, sức sáng tạo của Nguyễn Du còn thể hiện ở ngôn ngữ dân tộc mà nhà thơ đưa vào tác phẩm một cách nhuần nhuyễn. Những từ thuần Việt, thành ngữ dân gian được tác giả lồng vào đó cả lối suy nghĩ, cảm nhận theo tâm hồn người Việt đã mang đến sự đồng cảm của đông đảo thế hệ và tầng lớp bạn đọc trong xã hội. Giọng điệu là một trong những yếu tố chủ đạo cấu thành hình thức nghệ thuật của một tác phẩm “giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học” [Từ điển thuật ngữ văn học, tr 135]. Nó phản ánh lập trường xã hội, thái độ, tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả và tạo nên sức hấp dẫn cho mỗi tác phẩm. Như vậy, tìm hiểu về giọng điệu trong một tác phẩm có thể đưa đến nhận xét về thái độ đánh giá của nhà văn về hiện thực cuộc sống. “Mỗi một thời đại, nhìn chung có một giọng điệu riêng, thể hiện cách thức chiếm lĩnh hiện thực và lí giải hiện thực riêng. Gắn với điều này là quan niệm hiện thực của thời đại ấy” Trong Truyện Kiều, giọng chủ đạo là cảm thương, là tiếng kêu thương gắn liền với cảm hứng nhân đạo trong tác phẩm. Truyện Kiều là lời đau đớn, da diết, 13 lay động lòng người. Giọng điệu này thể hiện rõ nét qua lời than, lời tâm sự, độc thoại của nhân vật và lời bình luận của chính tác giả. Chương III: Giải quyết vấn đề 3.1. Vận dụng Tiếp nhận Truyện Kiều theo hướng Thi pháp vào thực tiễn giảng dạy đoạn trích Trao duyên Ở những phần trên, người viết đã đi sâu khai thác, tiếp nhận Truyện Kiều từ góc nhìn Thi pháp. Chúng tôi đã vận dụng hướng tiếp cận này vào giảng dạy tiết 83, đoạn trích Trao duyên Trích Truyện Kiều của Nguyễn Du (SGK Ngữ văn 10, Tập 2) tại lớp 10B1, 10B2 và so sánh với việc dạy học không theo hướng đi này ở lớp 10B3 trường THPT Trần Nhật Duật. Chúng tôi hướng dẫn học sinh khai thác đoạn trích này từ đặc trưng thể loại; không gian và thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu; nghệ thuật xây dựng nhân vật... Qua đó, học sinh thấy được sức hấp dẫn của đoạn trích, tự mình khám phá giá trị của đoạn trích và đánh giá sáng tạo nghệ thuật của thi hào Nguyễn Du. Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đoạn trích này, chúng tôi hướng học sinh khai thác các khía cạnh của tác phẩm từ góc độ Thi pháp theo các bước cụ thể 3.1.1. Yêu cầu chuẩn bị bài - Học sinh đọc kĩ đoạn trích và phần chú thích, chuyển văn bản thơ thành văn xuôi - Tìm hiểu nhân vật Thúy Kiều qua chi tiết, lời kể và sự miêu tả của tác giả - Thống kê những biện pháp nghệ thuật khắc họa nhân vật được sử dụng trong đoạn trích 3.1.2. Giáo án thử nghiệm 14 TIẾT 83 TRAO DUYÊN ( TRÍCH TRUYỆN KIỀU - NGUYỄN DU) I- Mục tiêu bài học - Cảm nhận được tình yêu sâu nặng và bi kịch của Thúy Kiều trong đoạn trích; nắm được nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình của tác giả. - Kiến thức: Bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và sự hi sinh quên mình của Kiều vì hạnh phúc của người thân qua lời trao duyên đầy đau khổ; nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, sử dụng thành công nghệ thuật độc thoại nội tâm. - Kĩ năng: Đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại; phân tích nhân vật; diễn biến tâm trạng nhân vật. II- Phương pháp, phương tiện 1. Phương pháp - Đọc sáng tạo, chuyển thể văn bản thơ thành văn bản văn xuôi - Vấn đáp, thảo luận - Sử dụng lời bình của giáo viên và học sinh 2. Phương tiện - Phần soạn bài của học sinh, tác phẩm trong sách giáo khoa, tranh ảnh - Giáo án soạn giảng của giáo viên III- Hoạt động của thầy trò - Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc và tiếp nhận tác phẩm từ đặc trưng thể loại và các yếu tố nghệ thuật để thấy được nội dung của tác phẩm. - Học sinh tiếp nhận văn bản, thảo luận, đưa ra ý kiến IV- Cách thức tiến hành 1. Ổn định lớp 2. Kiểm tra bài cũ: Tác phẩm Truyện Kiều ra đời trong hoàn cảnh xã hội như thế nào? Cho biết đánh giá của em về tác phẩm ? 3. Bài mới 15 * Lời vào bài: Toàn bộ Truyện Kiều là một bi kịch. Đoạn trích Trao duyên là bi kịch nhỏ nằm trong bi kịch lớn. Sau khi đã quyết định bán mình chuộc cha và em, Kiều vẫn canh cánh món nợ tình với Kim Trọng. Trong đêm cuối cùng trước khi theo Mã Giám Sinh, Kiều đã trao duyên cho em. Đoạn trích này tái hiện lại cảnh tượng trao duyên và tâm trạng của nàng Kiều. HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY, TRÒ NỘI DUNG CẦN ĐẠT Học sinh đọc phần Tiểu dẫn và A- Tiểu dẫn nêu vị trí của đoạn trích - Vị trí: đoạn trích nằm ở phần Gia biến - Giáo viên cho học sinh xem tranh Thúy Kiều trao duyên để - Bọn sai nha gây nên vụ án oan cho gia đình Thúy Kiều kiến nàng phải hi sinh mối tình với Kim Trọng và bán mình để chuộc cha và gợi không khí em. Khi mọi việc đã an bài, Kiều ngồi trắng Giáo viên: Tại sao Kiều phải đêm nghĩ đến Kim Trọng và mối tình dở trao duyên? dang. Để trả nghĩa cho chàng Kim, nàng đã trao duyên cho Thúy Vân để đền đáp tình yêu của Kim Trọng. B- Đọc - hiểu tác phẩm - Truyện Kiều thuộc thể loại truyện Nôm - Tác phẩm mang chất tự sự, có nhân vật, cốt Giáo viên: Truyện Kiều thuộc thể loại nào? Đoạn trích này cho em biết những gì về thể loại đó ? truyện… - Tác phẩm còn mang chất trữ tình qua việc khai thác nội tâm nhân vật và sử dụng ngôn ngữ hình tượng, biểu cảm… Giáo viên yêu cầu học sinh thảo => Nên phân tích theo đặc trưng của thể luận loại; khai thác nghệ thuật xây dựng nhân vật; từ đó làm rõ diễn biến tâm trạng và đánh giá Giáo viên: Nên phân tích đoạn về nhân vật. 16 trích này theo cách nào? I- Đọc - Đối thoại: Thúy Kiều - Thúy Vân - Độc thoại nội tâm: Thúy Kiều => Thúy Kiều đau đớn tột cùng khi phải trao duyên - Đọc với giọng buồn tha thiết, càng về sau Giáo viên: Đoạn thơ là lời của ai càng tuyệt vọng, khẩn thiết, não nùng, bi ai. nói với ai? Trong tâm trạng nào? - Mạch tự sự Đọc với giọng điệu và nhịp điệu nào để phù hợp? Hướng dẫn đọc đoạn trích + Thúy Kiều nhờ cậy, thuyết phục Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng + Thúy Kiều trao kỉ vật cho Thúy Vân và dặn Vân những chuyện sau này Giáo viên: em hãy xác định mạch + Kiều trở lại với thực trạng đau xót khi nhớ tự sự của đoạn trích. Chuyển văn tới Kim Trọng bản văn vần sang dạng văn xuôi. - Đoạn trích tái hiện lời nói, cử chỉ, hành động, tâm trạng nàng Kiều khi trao duyên II- Phân tích văn bản 1. Nhân vật Thúy Kiều a/ Bối cảnh Giáo viên: Nhân vật Thúy Kiều được tái hiện trên những phương diện nào? - Thời điểm mở đầu cuộc đời sóng gió của Kiều. Đó là khoảng lặng trước cơn giông bão đời Kiều mười lăm năm lưu lạc. + Không gian: Vắng lặng Giáo viên: Đoạn trích trao duyên + Thời gian: Đêm khuya tái hiện thời điểm nào trong cuộc - Kiều trở về với mất mát của tình yêu, đau đời Thúy Kiều? đớn cho thân phận mình. Giáo viên: Kiều trao duyên trong => Không gian và thời gian giúp giãi bày tâm trạng, thổ lộ chuyện tình yêu riêng tư. 17 khung cảnh nào? khung cảnh đó b/ Ngôn ngữ có vai trò nào trong việc thể hiện - Nhân vật Thúy Kiều được đặt trong cuộc nhân vật ? đối thoại giữa với Thúy Vân => Đối thoại là cách để nhân vật bộc bạch với một đối tượng cụ thể trong cuộc giao tiếp. - Kiều muốn em thay mình trả nghĩa cho Giáo viên: Đoạn trích này có lời Kim Trọng của ai nói với ai? Nói về vấn đề + Với Kiều: để trả món nợ tình, vẹn nghĩa gì? với Kim Trọng Học sinh thảo luận: Cuộc đối + Với Vân: vì tình chị em mà chấp nhận thiệt thoại này có ý nghĩa gì với Kiều thòi trong tình yêu và Vân - Cử chỉ: Lạy => Thể hiện thái độ kính cẩn, trang trọng - Lời nói + Cậy là nhờ giúp đỡ. Ngoài ra, cậy còn mang hàm nghĩa gửi gắm, tin tưởng, trông mong, hi vọng. Giáo viên: Cử chỉ và cách nói + Chịu lời là nài ép, bắt phải nhận, không thể của Kiều có gì khác thường? không nhận chứ không chỉ là tự nguyện như Giáo viên: So sánh các cặp từ nhận lời Cậy/nhờ; Chịu/Nhận => Lời lẽ thắt buộc + Đứt gánh tương tư: tình cảnh bi đát, dang dở và tâm trạng đau đớn, xót xa 18 + Ngày quạt ước, đêm chén thề: Hạnh phúc êm đềm, kỉ niệm ngọt ngào + Sự đâu sóng gió bất kì: tai họa đột ngột, đau xót và tiếc nuối Giáo viên: Kiều đã kể câu chuyện + Tình máu mủ, lời nước non, thịt nát xương của mình với Vân như thế nào ? mòn, ngậm cười chín suối Nhận xét cách sử dụng từ ngữ => Kiều sử dụng thành ngữ và cách nói giàu của Kiều ? hình ảnh, sắc thái biểu cảm. Ngôn ngữ có sự kết hợp hài hòa giữa cách nói trang nhã của văn học bác học trung đại và từ ngữ dân gian - Giọng điệu : tha thiết, cầu khẩn, gợi sự xót thương Giáo viên: Đánh giá về ngôn ngữ được sử dụng ? => Kiều vừa cầu khẩn vừa dựa vào tình cảm chị em để đánh vào nhận thức của Thúy Vân một cách thông minh, khôn khéo, trói buộc Giáo viên: Qua ngôn ngữ thấy về tình cảm được giọng điệu của Kiều như thế - Kiều có thể trả nghĩa cho chàng Kim. Nàng nào? biết ơn em chân thành và cất đi gánh nặng về Giáo viên: Vì sao Vân không thể món nợ tình. chối từ? c/ Hành động - Trao duyên: nhờ em kết duyên với Kim Trọng thay mình để trả nghĩa. Giáo viên: Tâm trạng của Kiều => Hợp với quan niệm thời trung đại 19 sau khi ngỏ lời với Vân? => Thể hiện sự hi sinh, chu toàn với người mình yêu, trọng cả tình và nghĩa Thảo luận về hành động của Thúy - Trao kỉ vật của tình yêu Kiều. + “Chiếc vành với bức tờ mây” Giáo viên: Thế nào là trao + “Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày duyên? hành động này thể hiện xưa” điều gì về nhân vật ? - Duyên này thì giữ vật này của chung => Kiều mâu thuẫn giữa lời nói và hành Giáo viên: Cách nàng Kiều trao động; lí trí và tình cảm. Vừa trao kỉ vật vừa kỉ vật có gì khác lạ ? tiếc nuối, đau khổ => Kiều chất chứa tâm trạng đau đớn, giằng xé, chua chát. Thực chất, đây là tâm trạng Giáo viên: Thế nào là “của giã biệt tình yêu sâu nặng với Kim Trọng chung” => Duyên vì nghĩa mà trao được nhưng Tình không thể trao. Mâu thuẫn giữa tình và nghĩa mới giải được phần nghĩa còn phần tình vẫn Giáo viên: Em hãy cho biết tâm bế tắc nguyên vẹn. trạng của Kiều sau khi trao kỉ => Tình yêu tha thiết, sâu nặng với Kim vật? Trọng Giáo viên: Kiều có trao được - Kiều nói với Vân nhưng là tự nói với mình; duyên không? hình dung mình trở thành hồn oan khi không còn tình yêu với Kim Trọng + Dặn em rưới chén nước để giải oan + Hồn Kiều vương vấn với tiếng tơ trên 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan