PHẦN I. LỜI MỞ ĐẦU
1.
Sự cần thiết của đề tài
Ngày nay, quảng cáo đã trở thành “một phần tất yếu của cuộc sống”. Nhiều thông điệp
quảng cáo đi vào đời sống với tính hấp dẫn và sức lôi cuốn rất cao. Trong các chiến
lược tiếp thị thì quảng cáo đóng vai trò chất xúc tác để sản phẩm tới được người tiêu
dùng một cách nhanh chóng, đồng thời kích thích tiêu dùng, qua đó đẩy mạnh quá trình
sản xuất và cuối cùng là tăng trưởng kinh doanh. Một quảng cáo hay và sáng tạo luôn
là yếu tố quan trọng của chiến lược tiếp thị thành công. Bên cạnh đó hoạt động quảng
cáo còn góp phần xây dung nên hình ảnh của doanh nghiệp trong tâm trí của khách
hàng. Tạo được một vị trị, một chỗ đứng trong tâm trí của khách hàng là điều mà các
doanh nghiệp đều hết sức mong muốn.
Khi nói đến quảng cáo, người ta thường quan tâm đến giá trị kinh tế, song đồng thời
không bao giờ chấp nhận một quảng cáo hiện đại xa lạ với giá trị văn hóa truyền thống.
Gần hai thập kỷ phát triển nền kinh tế hàng hóa ở việt nam đồng hành với sự phát triển
không ngừng của hoạt động quảng cáo thương mại. Thực tế, chúng ta thấy các nhà
quảng cáo hàng hóa, dịch vụ khôn ngoan là những người luôn biết kết hợp các yếu tố
văn hóa truyền thống với các yếu tố văn hóa hiện đại khi sản xuất một chương trình
hay sản phẩm quảng cáo rồi phổ biến trên các phương tiện truyền thông. Yếu tố văn
hóa truyền thống và hiện đại trong quảng cáo là sự kết hợp những giá trị nhân văn,
những chuẩn mực văn hóa truyền thống với các giá trị văn hóa hiện đại được thể hiện
trong nội dung thông điệp, hay hoạt động quảng cáo. Trong đó hệ giá trị chuẩn mực
của văn hóa dân tộc có vai trò dẫn dắt, định hướng, khuyến khích và thúc đẩy hành vi
tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ của công chúng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay.
Tuy nhiên, trong các thông điệp quảng cáo hiện nay yếu tố văn hóa dường như bị lãng
quên hoặc không phù hợp. Bên cạnh những đoạn quảng cáo hay, hấp dẫn còn tồn tại
nhiều đoạn quảng cáo đáng lên án. Từ những thực tế kể trên, em quyết định lựa chọn
đề tài “Một số góp ý xây dựng thông điệp quảng cáo truyền hình tại việt nam trên
khía cạnh văn hóa”
2.
Mục tiêu nghiên cứu
Với việc lựa chọn đề tài này em hy vọng giúp cho các doanh nghiệp nhận thức được
tầm quan trọng của việc hiểu biết văn hóa và đưa yếu tố văn hóa vào các thông điệp
quảng cáo nói chung và quảng cáo trên truyền hình nói riêng. qua đó giúp các doanh
nghiệp đạt hiệu quả cao hơn khi đầu tư vào quảng cáo.
3.
Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu đó, em dự định sẽ nghiên cứu một số đoạn quảng cáo điển
hình trên TV, xem xét đánh giá của công chúng trước những thông điệp quảng cáo đó.
Những đánh giá này sẽ được phân tích dưới góc độ văn hóa.
Đối tượng công chúng tham gia vào cuộc nghiên cứu này có độ tuổi trên 18. Việc
nghiên cứu sẽ được thực hiện bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp không bảng hỏi
kết hợp với việc quan sát hành vi. Vì thời gian có hạn, em dự định chỉ ngiên cứu trong
phạm vi Hà Nội.
4.
Đóng góp và hạn chế của đề tài
Trong khoảng thời gian viết đề tài, mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên do
kinh nghiệm và nhận thức còn hạn chế nên không chánh khỏi nhiều thiếu sót. Vì vậy
em rất mong nhận được sự góp ý và đánh giá của các thày, cô để kiến thức của mình
đầy đủ hơn. Em cũng xin chân thành cảm ơn cô Phạm Thị Huyền đã hết lòng giúp đỡ
những khi gặp nhiều bế tắc để em có thể hoàn thành được bài viết này.
PHẦN II. NỘI DUNG
1. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO
1.1. Quảng cáo - Một hình thức truyền thông
1.1.1. Lịch sử ra đời của hoạt động quảng cáo và quảng cáo trên truyền hình
Ngày nay, mỗi khi có dịp ghé ngang qua những thành phố xưa kia phong kín và
nghiêm khắc như Thượng Hải, Phnom Penh hoặc Warsaw, ta thấy hình ảnh quảng cáo
đầy khắp đường phố, trên bảng hiệu, trên tường, trên xe điện, trên bìa tạp chị, bằng
tranh vẽ, bằng đèn màu. Tất cả như thể những tín hiệu tượng trưng cho đổi mới, cho
phát triển kinh tế.
Thật vậy, trong những thập niên gần đây, quảng cáo không những đã phát triển theo
chiều rộng mà còn phát triển cả theo chiều sâu. Nói đến chiều rộng của nó, ta thấy
quảng cáo có mặt khắp chốn, từ những quốc gia có truyền thống tư bản đến những nền
kinh tế theo khuynh hướng xã hội một khi đã chọn sự cạnh tranh thương nghiệp làm
động lực kích thích kinh tế. Về bề sâu, quảng cáo không những đã làm biến dạng các
mô thức sinh hoạt của người tiêu dùng mà còn thay đổi tư duy, ảnh hưởng sâu sắc đến
văn hóa của họ.
Nếu muốn thêm vào một chiều thứ ba nữa, chiều phát triển kỹ thuật, thì quảng cáo từ
những phương tiện thô sơ như lời đồn đại, tin tức truyền miệng giữa bạn bè, lời dẫn
giải của người bán hàng đến các hình thức khác như tặng quà, phát giải, xổ số...đã tận
dụng phát huy tối đa sức mạnh của năm phương tiện truyền thông cơ bản(nhật báo, tạp
chí, truyền thanh, truyền hình, điện ảnh) trước khi tiến về các phương tiện truyền thông
đa phương tiện, truyền thông vệ tinh, và thông tin trên mạng. Như vậy truyền thông
bao gồm ba hình thức thông tin chủ yếu:
truyền thông cá nhân
truyền thông giữa cá nhân
truyền thông đai chúng
“Đọc một trang báo hay xem một tiết mục truyền hình ta có thông tin cá nhân. Những
thông tin này không những được cảm nhận qua thị giác mà phải được thông hiểu và
ghi nhớ nhờ có sự lập đi lập lại và sức khơi gợi sự chú ý của ta. Loại thông tin giữa cá
nhân là mách nước giữa bạn bè, lời đồn đại hay thuyết minh của người chào hàng.
Thông tin đại chúng có phạm vi hoạt động rộng lớn hơn nhờ kỹ thuật quảng bá của
những phương tiện truyền thông đại chúng”.
Lịch sử Marketing mới bắt đầu cách đây khoảng 100 năm (1900) tại Mỹ. Vào khoảng
thời gian đó, những bài giảng đầu tiên về môn học marketing được thực hiện tại
Trường đại học Michigan, caliphonia... sau đó lan sang các Trường đại học khác ở Mỹ
và dần trở thành phổ biến ở hầu khắp các nước có nền kinh tế thị trường. Lý thuyết
Marketing lúc đầu cũng chỉ gắn với những vấn đề tiêu thụ, nhưng càng ngày nó càng
chở nên hoàn chỉnh và lý thuyết đó bao quát cả những có trước khi tiêu thụ như: nghiên
cứu thị trường, thiết kế sản phẩm, định giá, tổ chức kênh phân phối... Trong lý thuyết
Marketing, quảng cáo được coi là một thứ vũ khí không thể thiếu được của người làm
tiếp thị khi muốn tiếp cận khách hàng. Vũ khí ấy thực gia đã có mặt trên trái đất từ
nhiều năm trước khi môn khoa học Marketing thành hình. “Những dấu hiệu truyền tin
đầu tiên đã được tìm thấy ở Hy Lạp và Roma. Những cái loa và tín hiệu được dùng để
truyền tin, trước khi ngành in ra đời. Ngay cả thời kỳ Trung Cổ, quảng cáo sử dụng tín
hiệu là chủ yếu. Sau khi ngành in ra đời, quảng cáo có sự nhảy vọt, với các tín hiệu
được thay thế bằng chữ viết hay thông điệp.
Quảng cáo truyền hình đã chính thức ra đời tại Mỹ ngày 1/7/1941 trên đài WNBT ở
New York. Kể từ 5/1942 tại Mỹ đã có đến 10 đài phát hình quảng cáo. Đến khoảng
năm 1952, ở Mỹ đã có khoảng 109 đài truyền hình thương mại, trên 65 đô thị phát sóng
đến 17 triệu nóc nhà.
Từ buổi đầu đó đến nay, quảng cáo trên truyền hình đã biến chuyển qua nhiều gia
đoạn. Từ đen trắng qua màu, từ đặt trọng tâm vào hoạt hình đến đặt trọng tâm vào ca
nhạc hay diễn viên tài tử, nó đã bước vào thời đại quảng cáo quốc tế và điện tử với các
đại hội quốc tế ngành quảng cáo, với các phương tiện hiện đại như bảng thu hình theo
số trị, và phương pháp cấu tạo hình ảnh bằng vi tính...
1.1.2. Một số khái niệm về quảng cáo
Hiện nay, nhiều tổ chức đưa ra những định nghĩa khác nhau về quảng cáo:
•
Định nghĩa 1(giáo trình marketing căn bản-philipkotler) được định nghĩa như
sau: Quảng cáo là hình thức truyền thông không trực tiếp, được thực hiện thông
qua các phương tiện truyền tin phải trả tiền và phải xác đinh dõ nguồn kinh phí.
•
Định nghĩa 2. Theo hiệp hội Marketing Mĩ “Quảng cáo là bất cứ loại hình
nào của sự hiện diện không trực tiếp của hàng hóa, dịch vụ, tư tưởng hoạt động
mà chủ thể phải tiền để công chúng nhận tin biết được người quảng cáo”.
Nói chung, quảng cáo là sư truyền đạt thông tin phi cá nhân và phải trả tiền, nhưng có
tính thuyết phục và xui khiến về sản phẩm hay ý tưởng đưa ra bởi những người bảo
trợ, thông qua các phương tiện truyền tin. Quảng cáo là một trong năm công cụ chủ yếu
mà các công ty, doanh nghiệp sử dụng để hướng thông tin thuyết phục vào người mua
và công chúng mục tiêu. Khi tiến hành một hoạt động quảng cáo sẽ hình thành nên một
kênh quảng cáo, nó bao gồm bốn lực lượng.
• Chủ thể quảng cáo: là các công ty, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân. Yếu tố này
sẽ trả tiền và chỉ rõ mục đích, mục tiêu của trương trình quảng cáo.
• Các hãng quảng cáo: thực hiện thiết kế các thông điệp quảng cáo, xây dung một
kế hoạch quảng cáo theo mong muốn của chủ thể quảng cáo.
• Các phương tiện truyền thông: như báo, tạp trị, radio, đài truyền hình, phương
tiện quảng cáo ngoài trời...
• Công chúng nhận tin: bao gồm tất cả những khách hàng trong hiện tại và tương
lai của doanh nghiệp.
1.1.3. Vị thế chức năng của hoạt động quảng cáo
Ngoài hàng loạt những quảng cáo ta gập trên đường phố hàng, còn có biết bao nhiêu là
quảng cáo trên báo, tạp chí, đài, tivi... tất cả chúng đều tìm cách ảnh hưởng tới quyết
định mua hàng ngày của chúng ta. Quảng cáo ở khắp nơi khiến người ta đặt câu hỏi là
liệu nó có thực sự là cần thiết không? có người ủng hộ mạnh mẽ nhưng cũng không ít
người phản đối. Để trả lời câu hỏi này thật thấu đáo chúng ta cần xem xét những tác
dụng của quảng cáo.
• Quảng cáo tạo điều kiện cho sự tự do lựa chọn
Những quảng cáo về sản phẩm do nhiều người khác nhau sản xuất giúp người tiêu
dùng có được sự lựa chọn, nó cung cấp cho người ta thông tin về sản phẩm. Nếu
không có quảng cáo, thì làm sao người ta biết được rằng có những sản phẩm khác
nhau, có sự khác nhau giữa các hãng cạnh tranh. Thực tế quảng cáo giúp tạo ra
một môi trường cạnh tranh- cái rất cần để nâng cao chất lượng sản phẩm và đặt
giá vừa phải. điều này trái với quan điểm của một số nhà phê bình, họ cho rằng
quảng cáo khuyến khích độc quyền. Chúng ta không nên cho rằng quảng cáo
khuyến khích độc quyền mà phải nói rằng nó giúp tạo ra sự cạnh tranh.
• Quảng cáo tạo điều kiện để bán hàng nhiều lần
Quảng cáo không phải là sự ồn ào huyên náo. Nhiều người phê phán rằng quảng
cáo được thiết kế để đánh lừa công chúng tiêu dùng. Nói như vậy là không đúng
bởi vì theo quan điểm marketing hiện đại quá trình mua chưa chấm dứt khi thực
hiện song một thương vụ. Hơn thế nữa, tât cả các tổ chức thanm gia vào hệ thống
phân phối đều phải lập đi lập lại việc bán hàng. trong quảng cáo, một người có thể
đánh lừa được một số người vài lần nhưng không thể đánh lừa tất cả mọi người
trong tất cả các lần được. Vì vậy quảng cáo trung thực là một cách không ngoan
để có được những khách hàng lâu dài.
• Quảng cáo góp phần làm giảm chi phí và cải tiến sản phẩm
Quảng cáo góp phần làm giảm chi phí đối với người tiêu dùng đối với phần lớn
các sản phẩm dịch vụ. Nghe có vẻ vô lý nhưng thông qua việc cung cấp các thông
tin cần thiết, người tiêu dùng sẽ không mât nhiều chi phí cơ hội cho việc tìm ra
sản phẩm, dịch vụ phù hợp nhất với nhu cầu của họ.
1.1.4. Phân biệt quảng cáo với một số hình thức truyền thông khác
1.1.4.1. Quảng cáo – xuất bản và tuyên truyền
Câu hỏi quảng cáo là gì đã được giải đáp ở phần trên. Vậy những cái gì không phải là
quảng cáo. Có phải bất cứ cái gì mà ta nghe thấy trên đài phát thanh, nhìn thấy trên đài
truyền hình hoặc đọc được trên hiện trên báo, tạp chí đều là quảng cáo? Trong thực tế,
điều đó không hẳn như vậy. Một thông điệp nào đó trên các phương tiện thông tin
muốn trở thành quảng cáo thì phải có điều kiện là nó phải được trả tiền. Phải là một sự
thông tin truyền cảm không có sự hiện diện trực tiếp của đối tượng cần được quảng cáo
như hàng hóa, dịch vụ, con người...
• Quảng cáo và xuất bản đều là thông tin truyền cảm và có thể cùng xuất hiện một
phương tiện thông tin, nhưng chỉ có cái được chủ trả tiền thì mới là quảng cáo,
trong khi đó xuất bản không được trả tiền. Những vật tư được thông báo bán tự do
không phải trả tiền. Một thông điệp về một nhà chính trị, người hoạt động xã hội
hay một minh tinh màn bạc đều là sự xuất bản, không phải quảng cáo.
• Tuyên truyền cũng là thông tin truyền cảm nhưng không dễ nhận ra nguồn gốc
hay chủ. Vì việc chấp nhận một thông điệp phụ thuộc vào uy tín của nguồn tin
nên việc nhận ra chủ hay nguồn là rất quan trọng. Tuy vậy, tuyên truyền vẫn có
tác dụng và được các nhà chính trị và chính phủ sử dụng để gây ảnh hưởng đến
công chúng bằng cách nhắc lại nhiều lần những thông điệp truyền đi qua các
phương tiện có kiểm soát.
1.1.4.2. Phân biệt quảng cáo với hoạt động quan hệ công chúng(PR).
Yếu tố dễ nhận thấy ở đây là hoạt động quảng cáo phải trả tiền còn hoạt động quan hệ
công chúng thì không. Mục đích của quảng cáo là khuyến dụ người tiêu dùng đến với
sản phẩm của mình, mục đích của hoạt động quan hệ công chúng là là tạo dựng uy tín
và hình ảnh bằng ngôn ngữ như lời kêu gọi, khuyến dụ củ các tổ chức ngoài công ty...
Bên cạnh những yếu tố trên còn có một yếu tố quan trọng khác để phân biệt là quảng
cáo có thể làm mọi lúc, mọi lơi, trên mọi phương tiện miễn là có tiền và sản phẩm được
phép quảng cáo. Quan hệ công chúng thì không phải lúc nào cũng làm được, nó đòi hỏi
phải có những sự kiện.
1.2. Khía cạnh xã hội của quảng cáo
1.2.1. Quảng cáo và giá trị sử dụng
Quảng cáo góp phần nâng cao giá trị sử dụng của sản phẩm. Thông qua quảng cáo cạnh
tranh, người sản xuất không ngừng đưa ra thị trường những sản phẩm tốt hơn. Quảng
cáo giúp ta biết được lúc nào và ở đâu những hàng hóa ta muốn đã có sẵn. Quảng cáo
đưa ra những kiểu mẫu mới về một sản phẩm đang tồn tại. Quảng cáo là yếu tố thúc
đẩy kinh tế phát triển, thúc đẩy sự tiêu thụ hàng loạt. Quảng cáo tạo nhận thức về sản
phẩm, về chất lượng, giá trị sử dụng của sản phẩm ấy.
1.2.2. Quảng cáo và sự lựa chọn của người tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường người tiêu dùng được ví như những ông “vua”, họ được
quyền tự do lựa chọn những sản phẩm và nhãn hiệu mà họ ưa thích. Quảng cáo không
đi vào phương cách lựa chọn của người tiêu dùng chỉ hướng dẫn họ đạt được mục đích
mong muốn. Quảng cáo tạo nên thuận lợi cho người tiêu dùng trong vìệc lựa chọn vì
nó mang đến thông tin về hàng hóa. Quảng cáo giúp người tiêu dùng những vấn đề sau:
• Quảng cáo làm cho chủ quyền của người tiêu dùng trở thành hiện thực và hiệu
quả vì nó đem lại cho họ hàng loạt sản phẩm để lựa chọn.
• Quảng cáo hướng dẫn người tiêu dùng vì nó giúp họ nhận thức được nhu cầu
cần thiết và đêm đến cho họ những sản phẩm thích hợp nhằm thỏa mãn nhu cầu
đó.
• Quảng cáo mang đến cho người tiêu dùng toàn bộ kiến thức về một sản phẩm.
• Quảng cáo hướng dẫn cho khách hàng trong tương lai biết sử dụng và bảo quản
sản phẩm.
• Quảng cáo giúp cho người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm hợp lý vì nó giúp cho
họ phân biệt hàng hóa và giá cả. Nó thúc đẩy sự tự do và trình độ lựa chọn của
khách hàng.
1.2.3. Quảng cáo và các giá trị văn hóa
Văn hóa là yếu tố quyết định nhất về ý muốn và hành vi của con người. Mỗi xã hội lại
có một hệ thống các giá trị văn hóa riêng. Những đứa trẻ lớn lên trong xã hội nào thì sẽ
lĩnh hội những giá trị văn hóa của xã hội đó. Văn hóa định hướng cho thái độ của
chúng ta trước một sự vật, sự việc nói chung, với hàng hóa và các hoạt động quảng cáo
nói riêng. ở việt nam, khi thực hiện các quảng cáo để thúc đẩy các mục tiêu mang tính
xã hội như: bỏ thuốc lá, kế hoạch hóa gia đình, phòng chống tệ lạn xã hội... chúng ta
yêu cầu quảng cáo phải đáp ứng được các giá trị văn hóa của mình. Một bản quảng cáo
không phù hợp với các giá trị văn hóa của chúng ta thì khó có thể thuyết phục được
công chúng.
Tất nhiên, cũng có những giá trị văn hóa không còn phù hợp cần phải được thay đổi và
những giá trị văn hóa mới. Nhưng các giá trị văn hóa cốt lõi rất khó bị thay đổi do
quảng cáo. Ví dụ như hoạt động cưới xin là một giá trị văn hóa cơ bản, nhưng cưới
sớm thì chỉ là giá trị văn hóa của nhóm nhỏ, có thể thay đổi qua quảng cáo.
Về các vi phạm đạo đức của quảng cáo. Giá trị đạo đức là một quan niệm tập thể. Theo
một nghĩa nào đó quảng cáo hoạt động trong giới hạn về đạo đức xã hội chứ không
phải do sự áp đặt nào đó. Quảng cáo phải tuân theo những chuẩn mực đạo đức lành
mạnh của xã hội.
Vì các giá trị xã hội đang có sự chuyển biến mạnh mẽ, nên quảng cáo cũng có những
sự thay đổi về chuẩn mực. Hiện nay, công chúng dễ dàng chấp nhận các quảng cáo về
quần Jin, về quần áo lót, cũng như nhiều sản phẩm tế nhi khác hơn trước đây.
Nói tóm lại rằng, quảng cáo không thể tạo nên nền văn hóa của một dân tộc. Thực tế
cho thấy, các giá trị văn hóa định hướng cho quảng cáo đồng thời quyết định giới hạn
của quảng cáo. Tuy nhiên, quảng cáo là một lĩnh vực có ảnh hưởng nhất định đến nhận
thức xã hội, nó hoạt động như một người theo dõi sự vi phạm các giá trị văn hóa và tạo
nên các giá trị văn hóa mới tốt hơn. Vì vậy nó luôn có một vị trí nhất định trong nền
văn hóa.
1.3. Quảng cáo trên truyền hình- một phương tiện quảng cáo thông
dụng, công cụ marketing-mix quan trọng
Quảng cáo trên truyền hình không chỉ sử dụng phương tiện thuyết phục là ngôn ngữ mà
còn bằng hình ảnh và những yếu tố tín hiệu khác nữa... chủ yếu vẫn là hình ảnh. Từ
thời Phục Hưng, nhà phát minh và nhà nghệ thuật đa tài người ý Leonard de vinci đã
đánh giá thị giác là anh cả của ngũ quan. Người Việt Nam cũng coi mắt như “cửa sổ
tâm hồn”. Thính giác có hiệu năng không kém nhưng chỉ đóng vai trò thứ yếu, bổ túc
cho đôi mắt. Chính vì thế mà truyền hình khai thác được hai khả năng nói trên để đạt
hiệu năng vượt các phương tiện khác, được dùng nhiều nhất trong ngành quảng cáo
thương mại.
1.3.1. Chức năng của quảng cáo trên truyền hình
Cũng như tất cả mọi hình thức quảng cáo khác, quảng cáo trên truyền hình có bốn chức
năng.
1.3.1.1. Chức năng kinh tế
Quảng cáo truyền hình cung cấp cho người xem về sự ra đời và có mặt của một mặt
hàng. Trong thời đại sản xuất hàng loạt, nó thôi thúc sự tiêu thụ của khách hàng vốn
chuộng sản phẩm mới. Nó khai thác những nhu cầu tiềm ẩn của người tiêu dùng, lập lại
thế bình quân giữa cung và cầu, góp phần vào việc phân phối lợi tức trong xã hội. Sản
phẩm được sản xuất càng nhiều thì giá cang rẻ và như vậy người mua sẽ có cơ hội mua
rẻ hơn.
Nhược điểm của nó là thúc đẩy người ta ăn tiêu hoang phí, lôi cuốn con người bắt
trước nhau tiêu thụ theo thời trang, khơi gợi những lối tiêu thụ kiểu bốc đồng, nghĩa là
mua mà không nghĩ trước sau. Nó thường bị xem là một công cụ của chủ nghĩa tư bản
chỉ để tạo ra hố thẳm giữa kẻ giàu và người nghèo.
1.3.1.2. Chức năng thương mại
Quảng cáo truyền hình thông tin với xã hội vai trò của xí nghiệp, đường lối hoạt động
của nó. Quảng cáo cũng đốc thũ xí nghiệp góp phần vào phục vụ khách hàng và xây
dựng xã hội. Nó khuyến khích xí nghiệp không ngừng cải tiến hoạt động của mình. Nó
cũng tạo ra danh tiếng cho nhãn hiệu và nâng cao tinh thần của nhân viên.
Điểm yếu của quảng cáo trong phạm vi này là nó gây ra khoảng cách giữa các xí
nghiệp, làm chi phí quảng cáo tăng vọt, làm cho các mặt hàng đoản mệnh, vừa mới ra
lò đã trở thành lỗi thời vì có mặt hàng mới ngay sau đó. Có khi nó còn làm hình ảnh
của xí nghiệp tệ hại đi bởi những lời quảng cáo bôi bác lẫn nhau.
1.3.1.3. Chức năng xã hội
Quảng cáo nói chung và quảng cáo truyền hình nói riêng giáo dục người tiêu dùng.
Quảng cáo truyền hình mở rộng chi thức, nâng cao mức độ suy nghĩ, phán đoán của
người tiêu dùng, dạy người ta cách dùng về các mặt hàng và giúp người ta quyết định
mua món hàng nào. Nó vừa là tư liệu của nội dung thông tin đại chúng, vừa là lý do để
người tiêu thụ bắt đầu biết quan tâm tới món hàng mình tiêu dùng. Nó khiến người ta
đòi hỏi những mặt hàng ra đời phải đúng theo quy trình và yêu cầu của xã hội, giúp
người ta bớt được thời giờ tìm hiểu mà vẫn biết được ngay tính chất nổi chội nhất của
món hàng.
Tuy nhiên, những người chống đối cho rằng quảng cáo chỉ đưa ra những tin tức hời
hợt, nhiều chữ nghĩa hơn là sự thực. Quảng cáo truyền hình lại xô đẩy con người thờ
phụng tiền bạc và tôn vinh chủ nghĩa vật chất, khơi gợi lòng tham và hứng thú nhất
thời, không nghĩ gì đến ý nghĩa và cố gắng của lao động.
1.3.1.4. Chức năng văn hóa
Quảng cáo truyền hình đôi khi tạo ra một nếp sống mới. Qua nó, chúng ta bắt được
hướng đi của xã hội. Nó là đề tài nói chuyện bất tận của quần chúng và nhờ nó, những
hoạt động văn hóa, xã hội có phương tiện vật chất để thực hiện. Nó khai thác những đòi
hỏi cao cả của con người. Theo nhà kinh tế học A.H Maslow, con người sau khi đã
cơm no, áo ấm, có an ninh, sức khỏe còn cần cả tình yêu, lòng tự hào về những thành
đạt trong đời và có nhu cầu cống hiến cho xã hội. Dĩ nhiên, Maslow đề cập đến nhu cầu
nhân bản chứ không phải nói riêng đến nhu cầu tiêu thụ. Thế nhưng, được hướng dẫn
bởi những nhu cầu đó con người có thể tìm đến những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà
những nhu cầu đó đòi hỏi.
Điều đó không ngăn cản việc quảng cáo tạo nên một thứ “văn hóa vật chất”, hời hợt,
thiếu chất lượng nếu không nói là ích kỷ, tập chung vào cá nhân và xa rời lợi ích công,
gây rối loạn và phá hoại những giá trị truyền thống tốt đẹp ngàn đời. Những ngày lễ, têt
chỉ là cơ hội cho người ta chào hàng. Những ngày cho Phụ Nữ, những ngàycho tình
yêu khác nào những công cụ thương mại cho các cửa tiệm bách hóa. Về phương diện
văn hóa, quảng cáo nói chung và quảng cáo trên truyền hình nói riêng còn tạo gia
những hình ảnh rập khuôn về người phụ nữ, về người cao tuổi... thường thường không
tốt đẹp cho lắm. hình ảnh người phũ nữ chỉ như kẻ coi nhà, nấu bếp, chông con. Người
già trong quảng cáo thường là những con người đau ốm, bệnh tật trong khi trên thực tế
có nhiều ông lão bà lão khỏe mạnh và có cuộc sống đầy năng nổ. Quảng cáo còn bị
buộc tội là “hung bạo”. để thu hut sự chú ý của quần chúng, người làm quảng cáo có
luc không ngần ngại dùng những hình ảnh dữ dội và khiêu khích, nhiều khi gây xúc
động mạnh, nhất là với trẻ em.
1.3.2. So sánh hiệu năng truyền thông của truyền hình với các phương tiện truyền
thông khác
1.3.2.1. So sánh với ấn phẩm
• Nhật báo và tạp chí là những ấn phẩm, có khả năng truyền đạt qua chữ viết và
hình ảnh. Phần chính yếu của ấn phẩm vẫn là ký sự bằng văn tự, những hình ảnh
tĩnh chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Truyền hình thì khác: chủ yếu là hình ảnh động. Bao
nhiêu thứ như chữ viết, ngôn ngữ, âm nhạc, âm hưởng... bổ túc hiệu năng của
hình ảnh. Nhờ hình ảnh, truyền hình mang đế cho người xem sự sống động, hiện
thực của việc sảy ra trước mắt. Điều đó không thể tái hiện lại qua báo hay tạp chí
được. Đối với quảng cáo, truyền hình như đem thương phẩm bày ra trước mắt.
• Điểm khác nhau thứ hai giữa ấn phẩm và truyền hình là ấn phẩm có thể đem
theo được trong xe, lên máy bay, giữ lâu trong nhà, trong thư viện, truyền tay
nhau. Thông điệp truyền hình thoắt đến, thoắt đi, không giữ được mà có giữ được
thì cũng khá cầu kỳ và mất nhiều công sức.
1.3.2.2. So sánh với phóng thanh
• Ban đầu, phóng thanh và truyền hình vẫn đi đôi với nhau. Hai phương tiện này
có nhiều điểm tương đồng như việc nghe và xem đều không phải bỏ tiền. Có thể
xem truyền hình như cánh tay nối dài của phát thanh. Tuy nhiên, người ta có thể
nghe Radio ở khắp mọi nơi, trong lúc lãi xe, khi đang làm cơm và ngay cả khi
đang ngủ. Ngược lại, xem truyền hình dù có thể làm việc khác cùng lúc nhưng nó
đòi hỏi phải có một sự tập chung tối thiểu, cho nên nhiều thông điệp nếu phát ra
vào lúc người xem bận tay, thường có xu hướng chú trọng vào lời nói hơn hình
ảnh. Phát thanh và truyền hình hay dùng thủ pháp “quảng cáo liên hợp”, trong đó
nội dung chương trình thông tin hay giải trí nói chung và thông điệp quyện vào
nhau thành một. Điều này không cho phép trường hợp ấn phẩm bởi vì trên mặt
báo, quảng cáo và ký sự cần có sự tách riêng. Lý do đơn giản vì nếu một ấn phẩm
dùng lối quảng cáo như vậy sẽ mất sự tín nhiệm của độc giả. Khán thính giả
truyền hình dễ dàng hơn về vấn đề này, có lẽ vì trong suốt mấy ngàn năm, vai trò
“văn kiện chính thức” của chữ viết đã in đậm sâu sắc vào người đọc.
• Xem truyền hình hay nghe phát thanh là hành động có tính chất cá nhân lẫn tập
thể, nhưng xem báo hay tạp chí là hành động có tính chất đơn lẻ, dĩ nhiên là khi
hành động đơn lẻ thì người ta có sự chú ý cao hơn. Riêng lúc xem báo hay nghe
truyền thanh thì chỉ có thính giác hay thị giác làm việc. Trong khi ấy, xem truyền
hình phải vận dụng cả hai giác quan này nên khả năng thu nhận tín hiệu cũng tăng
gấp đôi.
1.3.2.3. So sánh với diễn kịch
• Truyền hình sử dụng kịch trường chuyên dụng để làm chỗ thu hình và thủ pháp
truyền hình chứa đựng kịch tính. Tuy vậy, sân khấu và truyền hình khác nhau ở
chỗ người xem kịch xem diễn viên sống động ở trước mắt mình và diễn viên cũng
giao cảm trực tiếp với khán giả. Trong khi đó, diễn viên truyền hình chỉ đối mặt
với ống kính quay phim, hệ thống ánh sáng và người xem truyền hình cũng chỉ
thấy họ qua màn ảnh. Khán giả kịch trường quy vào một nhóm nhỏ, trong khi
khán giả truyền hình là đại chúng. Hành động của họ cũng khác. xem kịch người
ta thường chỉ ngồi một chỗ, chăm chú xem, chán thì bỏ đi chứ không có gì thay
thế.
• Ngược lại, truyền hình cho phép người ta xem di động, thoải mái hơn, và nếu
không thích thì có thể chuyển sang chương trình khác hoặc bấm chọn chương
trình cũ. Người xem kịch quan sát từ một góc độ theo vị trí ngồi của họ, còn khán
giả xem truyền hình có thể xem từ nhiều góc độ nhờ sự linh hoạt của các góc
quay. Truyền hình còn đưa mọi người từ không gian này đến không gian khác,
thời điểm này đến thời điểm khác cắt xén câu chuyện theo những mạch lạc khác
nhau bằng thủ pháp điện ảnh, điều mà trên sân khấu đạo diễn và diễn viên không
thể làm. Ngoài ra về cách diễn tả, trên sân khấu thường hay cường điệu, khoa
trương trong khi trên truyền hình động tác của diễn viên phải như thật.
1.3.2.4. So sánh với điện ảnh
• Truyền hình giống điện ảnh ở chỗ, truyền hình sử dụng những biện pháp thu
hình, thu âm, chiếu sáng và tác động đặc biệt của điện ảnh. Lịch sử truyền hình có
thể xem như lịch sử nối dài của điện ảnh. Tuy nhiên không vì thế mà ta bỏ quên
những điểm khác biệt giữa hai bên.
• Trước tiên, chất lượng của truyền hình kém xa điện ảnh về độ giõ nét, độ tương
phản, độ tinh tế của màu sắc. Màn ảnh của truyền hình cũng bé hơn, sự nhỏ bé
này làm cho người ta có tình cảm gần gũi, gia đình với truyền hình hơn là điện
ảnh. Nhất là truyền hình được đặt trong phòng khách hay phòng ngủ, trong khung
cảnh tự nhiên khác với phòng tối của rạp hát.
• Một sự khác biệt giữa hai bên là độ tiêu phí của truyền hình lớn, ở rạp chiếu
bóng một ngày người ta có thể chiếu đi chiếu lại một bộ phim. Nhưng trên màn
ảnh truyền hình phải có sự thay đổi để chánh nhàm chán. Người đi xem phim bởi
có chủ ý xem bộ phim đang chiếu, người xem truyền hình bởi không phải mất
công đi. Phim truyện thường có tính chất giải trí, nhưng để đi kèm với thông điệp
quảng cáo chưa chắc đã hoàn toàn thích hợp. Ngoài tính cách tiêu khiển, chủ
quảng cáo đòi hỏi truyền hình phải có sự giáo dục để bổ sung vào điều mình
muốn phát biểu bởi nguyên tắc quảng cáo vốn dựa vào hai điểm then chốt là: tri
thức và ký ức.
1.3.3. Ưu điểm và nhược điểm của quảng cáo trên truyền hình
1.3.3.1. Ưu điểm
• Tính năng động trong sáng tạo
Truyền hình tạo cơ sở, khả năng sử dụng âm thanh, hình ảnh, màu sắc và chuyển
động để truyền đạt thông điệp quảng cáo. Nhân viên thuộc bộ phận sáng tạo có
thể sử dụng hình vẽ, âm nhạc hay những kỹ sảo khác để tạo ra sự độc đáo và sáng
tạo thu hút người xem.
• Tiếp cận được thị trường rộng lớn
Về điểm này thì khó có thể có một phương tiện truyền thông nào khác qua mặt
được truyền hình. Theo thời gian, các hãng truyền hình ngay càng mở rộng phạm
vi phủ sóng cũng như chât lượng của tín hiệu, thậm chí việc phủ sóng toàn cầu
bây giờ cũng làm trong khả năng của con người.
1.3.3.2. Hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm vượt trội, quảng cáo trên truyền hình cũng có một số hạn chế
sau:
• Tính chọn lọc đối tượng thấp.
• Chi phí cao.
• Khó nổi bật giữa các phim quảng cáo khác
• Quá ngắn gọn.
2. THỰC TRẠNG QUẢNG CÁO TRÊN TRUYỀN HÌNH
Ở VIỆT NAM TRÊN KHÍA CẠNH VĂN HÓA
2.1. Sự khai thác các giá trị văn hóa của các nhà làm quảng cáo
Đã từ nhiều năm nay, quảng cáo trên truyền hình trở thành hoạt động quan trọng,
không thể thiếu đối với các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước. Quảng cáo truyền
hình là công cụ của marketing trong toàn bộ hoạt động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
của một nền kinh tế, đồng thời còn hàm chứa và phản ánh những giá trị văn hóa truyền
thống, thị hiếu thẩm mĩ dân tộc. Chính những yếu tố văn hóa truyền thống và hiện đại,
được các nhà quảng cáo khai thác triệt để trong nhiều sản phẩm quảng cáo, có tác động
mạnh mẽ đến hành vi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ... của công chúng trong xã hội.
Khi nói đến quảng cáo, người ta thường quan tâm đến giá trị kinh tế, song đồng thời
cũng không bao giờ chấp nhận một quảng cáo hiện đại xa lạ với giá trị văn hóa truyền
thống. Gần hai thập kỷ phát triển nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam đồng hành không
ngừng với sự phát triển của hoạt động quảng cáo thương mại nói riêng và quảng cáo
truyền hình nói chung. Thực tế chúng ta thấy, các nhà quảng cáo hàng hóa, dịch vụ
luôn biết kết hợp các yếu tố văn hóa truyền thống với văn hóa hiện đại khi sản xuất một
chương trình quảng cáo.
Như đã phân tích ở trên, yếu tố văn hóa truyền thống và hiện đại là sự kết hợp những
giá trị nhân văn, những chuẩn mực văn hóa truyền thống với giá trị văn hóa hiện đại
được thể hiện trong một thông điệp, hay hoạt động quảng cáo. Trong đó hệ thống giá
trị văn hóa cốt lõi có vai trò dẫn dắt, định hướng, khuyến khích và thúc đẩy hành vi tiêu
dùng hàng hóa, dịch vụ của công chúng.
Trong tác phẩm Chiến tranh tiếp thị Alries Jack Trỏu nhận định “văn hóa là yếu tố
quyết định nhất ý muốn và hành vi tiêu dùng của con người”. Suy cho cùng yếu tố văn
hóa truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc luôn phải có trong một chương trình quảng
cáo, đặc biệt là những quảng cáo truyền hình. Do giới hạn về đề tài, trong bài viết này
em xin đề cập chủ yếu đến hoạt động quảng cáo truyền hình hiện nay tại việt nam.
Nhìn lại hầu hết các trương trình quảng cáo truyền hình hiện nay, có một điều dễ dàng
nhận thây là các nhà quảng cáo đã hết sức chú ý tới việc khai thác các khía cạnh văn
hóa truyền thống để rồi kết hợp với các giá trị văn hóa hiện đại. Trong nội dung các sản
phẩm hay chương trình quảng cáo thường xuất hiện các giá trị văn hóa truyền thống
như: Uống nước nhớ nguồn, coi trọng nghĩa tình, truyền thống hiếu học, cần cù lao
động, lòng tự hào dân tộc,... Bên cạnh các giá trị văn hóa hiện đại. Vi dụ: Quảng cáo
chè cây đa, giầy Bittis, but bi Bến nghé,... Quảng cáo không chỉ hướng đến việc kính
thích nhu cầu tiêu dùng của công chúng mà còn hướng vào các giá trị chuẩn mực của
dân tộc. Một giá trị nữa là văn hóa thẩm mĩ trong quảng cáo ở Việt Nam có nhiều điểm
khác biệt với văn hóa thẩm mĩ trong quảng cáo ở phương tây. Sự khác biệt đó được
quy định bởi tập quán văn hóa, thuần phong mĩ tục của việt nam như: Vẻ đẹp kín đáo,
trong sáng, giản dị, tinh tế của mọi người Việt Nam. Những nét đẹp văn hóa thuần Việt
ấy bao giờ cũng trở thành các giá trị văn hóa chuẩn mực có sức sống lâu bền trong trí
nhớ của người tiếp nhận chương trình hay sản phẩm quảng cáo.
Thông tin quảng cáo cũng cần chú trọng đến giá trị đạo đức- một giá trị của văn hóa.
Thông thường một quảng cáo phù hợp đạo đức sẽ là quảng cáo không làm mất đi giá
trị đích thực của hàng hóa theo cách thông tin giả, thông tin sai lệch, thiếu trung thực,
giấu diếm các thông tin có tác hại, ví dụ: Quảng cáo tân dược không nêu tác dụng phụ
của thuốc...
Yếu tố truyền thống và hiện đại còn được thể hiện rất rõ trong nghệ thuật và thủ pháp
quảng cáo.
• Nghệ thuật viết lời
Ngôn từ quảng cáo nói chung và đặc biệt là quảng cáo truyền hình đòi hỏi phải có
sức thuyết phục cao, nhưng lại phải ngắn gọn, dễ nghe, dễ nhớ, dễ hiểu và có tính
tin cậy đăc biệt là phải thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc. Điển hình như “óng
mượt như tơ” trong quảng cáo dầu gội đầu sunsilk bồ kết, “bước chân tây sơn
thần tốc” hay “bitti’s nâng niu bàn chân việt” trong các sản phẩm quảng cáo của
bitti’s.
• Nghệ thuật sử dụng hình ảnh
Nghệ thuật này cũng như nghệ thuật viết lời, nghệ thuật sử dụng hình ảnh trong
quảng cáo truyền hình thể hiện sự kết hợp giữa vẻ đẹp truyền thống với nét đẹp
hiện đại: sự khai thác những giá trị văn hóa kết hợp với việc sử dụng các kỹ thuật
hiện đại như: công nghệ số, kỹ xảo điện ảnh cho ta những sản phẩm có chất lượng
tuyệt hảo, thậm chí còn đẹp hơn cả thực tế: như độ óng ả của mái tóc, sự trắng
bóng của hàm răng, mịn màng của làn da, sự gợi cảm của đôi môi... của những cô
người mẫu, ca sĩ Việt Nam trong quảng cáo hóa mĩ phẩm trên truyền hình như:
Pond’s, Hazeline, Renova, Lamy Conistic Olay, hay thuốc đánh răng Closeup,
P/s,... Bên cạnh đó là những hình ảnh thiên nhiên việt nam như: Hoa đào, hoa mai,
rồi hình ảnh các ông Phúc-Lộc-Thọ, Thần Tài, Ông Công, Ông Táo,.... Nét truyền
thống xuất hiện rất nhiều trong các chương trình quảng cáo hàng hóa ngày tết.
• Nghệ thuật sử dụng màu sắc
Màu sắc trong quảng cáo nói chung và quảng cáo truyền hình nói riêng là yếu tố
quyết định chất lượng hình ảnh quảng cáo. Một quảng cáo truyền hình đen trắng
khó lôi cuốn người mua bởi vì màu sắc của sự vật giúp chúng ta nhìn nó như
chúng ta vẫn thấy trong cuộc sống hàng này. Sự đa rạng về gam màu xem như là
yếu tố truyền thống trong sự cảm nhận của người Việt, góp phần tạo nên các sắc
thái khác nhau trong sự cảm nhận của công chúng về hàng hóa. Ví dụ: Khi quảng
cáo thực phẩm thường dùng màu vàng mỡ gà, tạo cảm giác ngon miệng, kích
thích nhu cầu ăn. Màu xanh tạo sự ngọt ngào, mát mẻ khi quảng cáo trái cây,
nước giải khát. Riêng màu vàng mật ong thường thấy nhà quảng cáo sử dụng
quảng cáo beer Heineiken, Tiger... Màu trắng thể hiện sự tinh khiết, trong sáng,
trẻ trung, sạch sẽ, thường được sử dụng để quảng cáo mĩ phẩm như Pon’s, Olay,
Nivea, hay bột giặt Tide, Omo, Viso... Màu đen tạo sự tin cậy, hiện đại, sang
trọng và quyền uy được dùng để quảng cáo xe hơi. Màu đỏ biểu tượng cho sức
mạnh, sự chiến thắng, sự sôi động, mạnh mẽ thường được dùng kích thích cơn
khát của mọi người trước sản phẩm Cocacola.
• Sử dụng âm nhạc
Âm nhạc được sử dụng trong quảng cáo ở nước ta hiện nay thể hiện rất rõ hai yếu
tố truyền thống và hiện đại. Nó là một phần quang trọng của sản phẩm quảng cáo
trên sóng phát thanh và truyền hình, có giá trị làm tăng thêm sự chú ý, tính hấp
dẫn của hình ảnh và lời lẽ quảng cáo. Âm nhạc trong quảng cáo truyền hình ở
việt nam hiện nay có thể là nhạc Rock, Pop, thính phòng, Nhạc nhẹ nhưng cũng
có những làn điệu dân ca, trở lên quen thuộc và dễ nhớ, dễ gần như: Yêu nhau cởi
áo ...í...à .. cho nhau, về nhà dối mẹ... rằng... (trong quảng cáo bột giặt tide). Khi
quảng cáo các sản phẩm cáo cấp như: Nước hoa, đồ trang sức, thời trang... thường
sử dụng những đoạn nhạc cổ điển, thính phòng của Moza, Bethoven... Khi quảng
cáo đồ ăn, thức uông, hàng điện tử, điện lạnh, đồ gia dụng... thừơng sử dụng ca
khúc nhạc nhẹ của Việt Nam được giới trẻ ưa thích, thậm chí một số sản phẩm
quảngcáo được sáng tác bài hát riêng vui nhộn: Quảng cáo dịch vụ xe Taxi gia
đình, Son Lipice, Sữa Vinamilk...
Trong quảng cáo người ta sử dụng nhiều thủ pháp như: So sánh, hài hước, ẩn dụ,
phỏng vấn. Trong quá trình sử dụng các thủ pháp này, các yếu tố văn hóa truyền thống
hiện đại được đan xem với nhau tạo nên hiệu quả quảng cáo.
• Thủ pháp so sánh
Là thủ pháp lấy sự đối chiếu để khẳng định ưu thế sản phẩm, hàng hóa cùng loại
nhưng khác nguồn gốc sản xuất. Ví dụ bột giặt Tide đã dùng phương pháp này để
khẳng định trắng sạch như Tide mới là tiêu chuẩn. Khi những chiếc áo dài truyền
thống của các cô gái Việt nam thật trắng lại được trắng hơn khi sử dụng Tide.
• Thủ pháp hài hước
Thủ pháp này được sử dụng khá phổ biến trong các quảng cáo truyền hình hiện
nay, có thể là lời hài hước hay hình ảnh mang tính hài, hoặc kết hợp cả hai yếu tố.
Ví dụ như quảng cáo Tivi Sony đưa ra hình ảnh, lời nói bột phát, điệu bộ lúng
túng của một anh chồng ngồi cạnh vợ lại quá chăm chú hình ảnh cô gái đẹp trên
Tivi, và buông lời khen như không có vợ – vốn hay ghen vô cớ – ở kề bên...
• Thủ pháp ẩn dụ
Thủ pháp này dùng cách hỏi một khách hàng đang sử dụng sản phẩm mà mình
dang quảng cáo, để công chúng mắt thấy, tai nghe từ một nhân chứng cụ thể nói
rõ về giá trị sử dụng, tính năng ưu việt của sản phẩm, qua đó khẳng định vị trí “số
1” của sản phẩm đang dùng. ví dụ như: Quảng cáo bột giặt Omo phỏng vấn cô
tiếp viên trưởng hàng không Việt Nam, hay quảng cáo sữa tăm Dove dùng hình
ảnh cô Hoa béo và bạn của cô ta khi mà hai người đều dùng Dove nên cả hai cô
đều có làn da trắng mịn màng như “da em bé”.
Như đã trình bày ở trên yếu tố văn hóa truyền thống và hiện đại là sự khởi nguồn và
phát triển của các sản phẩm quảng cáo hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế thị trường.
Khi văn hóa trở thành mục tiêu và động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, thì quảng
cáo nói chung và quảng cáo truyền hình nói riêng cũng cần gắn với sự phát triển của
văn hóa. Văn hóa quảng cáo là hiện tượng tất yếu của kinh tế phát triển trong điều kiện
bền vững. Chính vì thế mà chiến lược quảng cáo của các nhà sản xuất kinh doanh luôn
gắn với giá trị, sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong gần hai thập kỷ phát triển nền
kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa.
Văn hóa quảng cáo luôn hướng lợi ích của doanh nghiệp phù hợp với lợi ích của người
tiêu dùng, trong sản xuất và lưu thông hàng hóa. Quảng cáo giúp doanh nghiệp, nhà
sản xuất tiêu thụ nhanh, nhiều hàng hóa, đồng thời thông tin quảng cáo giúp người tiêu
dùng tiết kiệm thời gian, lựa chọn và có quyết định đúng đắn khi mua hàng hóa.
Văn hóa quảng cáo thuyết phục thu hút quần chúng tiêu thụ hàng hóa, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh phát triển. Điều đó nói nên sự đóng góp của quảng cáo ở phương diện
phát triển kinh tế xã hội. Song quảng cáo còn góp phần cho sự phát triển các yếu tố văn
hóa. Những thành tố văn hóa truyền thông hay hiện đại ẩn chứa trong các sản phẩm
quảng cáo truyền hình góp phần nâng cao hiệu quả định hướng giáo dục thẩm mỹ đối
với từng bộ phận công chúng qua quá trình tiêu dùng hàng hóa. Quảng cáo không chỉ
mượn cái đẹp để kích thích công chúng tiêu dùng hàng hóa, mà cái đẹp ấy, giá trị
chuẩn mực ấy cần được cộng đồng xã hội bảo tồn và phát huy.
2.2. Những ảnh hưởng của quảng cáo truyền hình tới nhận thức xã hội những kiểu quảng cáo có vấn đề và thái độ của công chúng đối với
quảng cáo truyền hình
2.2.1. Một số ảnh hưởng của quảng cáo truyền hình tại Việt Nam
Quảng cáo truyền hình có ảnh hưởng nhất định đến nhận thức xã hội. Mỗi ngày chúng
ta đều phải xem không biêt bao nhiêu là đoạn quảng cáo của những sản phẩm khác
nhau với những tần xuất ngày càng nhiều. Như vậy quảng cáo không tác động đến
nhận thức của chúng ta mới lạ. Ví dụ: Một cô nàng17 tuổi khi giận bạn trai của mình,
muốn làm lành nhưng lại ngại đi gặp. Cô đem đổi một mớ đồng xu 200 đồng ra hồ thả
xuống bùm bũm ước nguyện rồi quay lại đằng sau xem có ai hiện ra không. Dĩ nhiên
chẳng thấy ai xuất nhưng cô ta vẫn quyết tâm tin vào mẫu quảng cáo Cocacola, người
ấy sẽ xuất hiện sau khi tung đồng xu thứ n.
Có dạo, thế hệ teen Sài Gòn bùng nổ mốt đeo chuỗi ngọc trai với cái đuôi lòng thòng
sau lưng. Kíp nổ của mốt quý tộc này là một cô nàng xinh đẹp mặc váy đỏ trên Tivi,
thỏ thẻ vào điện thoại: “Nói lại cho mình nghe là cô ấy xinh như thế nào?”. dấu ẩn của
đoạn quảng cáo này rõ ràng đến mức ra tiệm muốn hỏi sợi dây truyền đó người ta phải
nói: “Chị ơi, có bán sợi day truyền Debon không?”.
Gần đây lại nổi lên mốt lồng hạt ngọc trai vào tóc và cũng xuất phát từ quảng cáo dầu
gội đầu mà ra. Nhân cơ hội này, các chủ tiệm beauty salon nhanh tay “đẻ” ra thêm cái
dịch vụ trang trí tóc bằng hạt xâu vào kẽm uốn, dây cước, khỏi phải thảm cảnh xâu tóc
bằng nước bọt nữa. Không chỉ tạo ra chào lưu thời trang, những mẫu quảng cáo còn
ảnh hưởng tới quan niệm “cái đẹp” của thế hệ teen. “Tóc đẹp” phải là “tóc chông như
- Xem thêm -