S
Ố QUA
Ể
Ệ G ỮA TRU G ƢƠ G VÀ
Í
. ẶT V
SU 4
V ỆT A
A P ƢƠ G TRO G Ề
À
T Ờ P O GK Ế
Ề:
Mối quan hệ giữa trung ương và địa phương trong một nền hành chính quốc gia là
mối quan hệ hai chiều, tác động qua lại, theo xu hướng trung ương ngày càng chi phối
địa phương nhưng địa phương vẫn giữ được tính độc lập tương đối của mình. Suốt thời
kì dài của lịch sử trung đại Việt Nam, việc xây dựng một bộ máy nhà nước, một nền
hành chính thống nhất, thực chất là việc giải quyết mối quan hệ giữa trung ương và địa
phương.
Trong mối quan hệ giữa nhà nước phong kiến trung ương và địa phương, việc xây
dựng bộ máy nhà nước tập quyền thống nhất đòi hỏi triều đình trung ương phải nắm
được địa phương, bắt địa phương phải phục tùng theo quỹ đạo quản lí chung của nhà
nước. Do đó, ngay từ khi mới lên ngôi, các ông vua của các triều đại phong kiến Việt
Nam đều cố gắng xây dựng một chính quyền tập trung, thống nhất, chống hiện tượng
phân tán, cát cứ và từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế. Thành
quả của quá trình đó là một hệ thống chính trị thống nhất từ trung ương xuống đến địa
phương trong triều Lê sơ, triều Nguyễn.
Các triều đại phong kiến Việt Nam cũng đưa ra nhiều chính sách nhằm đoàn kết
sức mạnh dân tộc từ miền xuôi lên miền ngược, từ vương hầu, quí tộc, quan lại cho tới
chúng dân. Cũng nhờ đó, triều đình phong kiến đã quản lí được những vùng miền trên
lãnh thổ của mình, huy động được tối đa sức dân trong công cuộc dựng nước và giữ
nước.
Trong công cuộc đổi mới đất nước và cải cách hành chính hiện nay, những bài
học về cách thức tổ chức xây dựng bộ máy nhà nước và hệ thống hành chính quốc gia,
cũng như các chính sách dân tộc của thời kì phong kiến độc lập vẫn còn nhiều giá trị quí
báu.
1
. G Ả QUYẾT V
.
Ề:
ối quan hệ giữa trung ƣơng và địa phƣơng trong nền hành chính Việt
am
trƣớc thời ê sơ ( thế kỉ X đến X V).
Thế kỉ X là một thế kỉ bản lề, đã đánh dấu bước chuyển biến lớn lao trong trong
lịch sử dân tộc, chấm dứt ách đô hộ hơn 1000 năm của phong kiến phương Bắc, đất
nước tiến vào thời kì độc lập, tự chủ lâu dài. Hoàn cảnh lịch sử mới đặt ra yêu cầu xây
dựng một nhà nước quân chủ độc lập, với chính quyền thống nhất từ trung ương đến địa
phương. Tuy nhiên, việc xây dựng chính quyền độc lập, thống nhất trong thời kì này
cũng gặp rất nhiều khó khăn do những tàn dư của chính quyền đô hộ để lại.
1.1.Nhà nước thời Đinh - Tiền Lê là tổ chức nhà nước mở đầu cho một quốc gia
thống nhất, ổn định lâu dài. Thể chế quân chủ Đinh - Tiền Lê ra đời là hệ quả tất yếu của
một tiến trình đấu tranh vũ trang nhằm thống nhất đất nước, tiêu diệt các yếu tố phân
tán, cát cứ. Hệ thống chính trị từ trung ương xuống địa phương còn sơ khai, chưa có
phân công, phân nhiệm rõ ràng, tên gọi các chức quan chưa hoàn chỉnh. Các hoàng tử
được cử đi trấn trị, coi giữ địa phương và có toàn quyền về mọi mặt. Nghĩa là, chính
quyền địa phương nằm trong tay hoàng tộc, nhằm ràng buộc địa phương vào chính
quyền trung ương, nhưng chưa hình thành ở đây một tổ chức chính quyền địa phương
thật sự. Việc trấn trị này mang nặng ý nghĩa quân sự mà thôi.
1.2.Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của thế kỉ X, hai triều đại Lý-Trần đã
củng cố, xây dựng nên một thiết chế chính trị khá hoàn chỉnh từ trung ương xuống đến
địa phương. Chính quyền trung ương đứng đầu là nhà vua, dưới vua là một hệ thống các
quan đại thần giúp việc và hệ thống các cơ quan trung ương như sảnh, viện, đài. Đối với
các địa phương, nhà nước Lý - Trần cũng cố gắng củng cố sự thống nhất lãnh thổ, phân
chia cả nước thành các lộ, phủ châu hương- giáp và cấp cơ sở là xã.
Đầu thế kỉ XI, Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, tổ chức lại chính quyền trung
ương, ổn định các vùng biên giới. Các vua kế tiếp cố gắng củng cố sự thống nhất lãnh
thổ bằng việc cho các hoàng tử, công chúa đi cai quản các lộ, phủ. Các hoàng tử, công
chúa này được đặc quyền giải quyết mọi việc từ chính trị, an ninh, hộ khẩu, thuế khóa
đến tuyển mộ quân lính khi có chiến tranh. Việc làm này của nhà Lý đã có tác dụng
2
chống lại sự thâu tóm quyền lực vào tay các dòng họ khác, trong điều kiện chính quyền
trung ương chưa đủ mạnh. Nhờ quan hệ huyết tộc mà mối ràng buộc chặt chẽ của địa
phương vào chính quyền trung ương ngày càng được củng cố. Sự thực về cuộc sống khá
an bình của nhân dân, những số liệu về nhân khẩu, phương thức thu thuế, lấy lính theo
chế độ “ngụ binh ư nông”... chứng tỏ thời Lý đã có một hệ thống hành chính quản lý địa
phương có hiệu lực. Tuy nhiên, đối với các vùng dân tộc ít người, vùng miền núi xa xôi,
ảnh hưởng của triều đình nhà Lý còn chưa sâu đậm; chính quyền vẫn nằm trong tay tầng
lớp thống trị người địa phương, như tù trưởng các sách, động và bằng việc cha truyền
con nối để cai quản. Trước thực trạng đó, các vua triều Lý đã thực hiện chính sách “nhu
viễn”, nhằm “ràng buộc” tầng lớp thống trị bản địa để đưa những vùng đất xa xôi đó
nằm trong tầm kiểm soát của mình. Chính sách ràng buộc các tầng lớp thống trị ở miền
núi tiêu biểu nhất là dùng quan hệ hôn nhân để lôi kéo các châu mục, các tù trưởng có
thế lực; như trường hợp vua Lý Công Uẩn gả con gái cho tù trưởng động Giáp ở Lạng
Châu, vua Thái Tông lấy con gái Đào Đại Di ở Đăng Châu làm phi… Bằng quan hệ hôn
nhân, các vua Lý đã đưa hàng loạt các tù trưởng miền núi trở thành thân tộc của triều
đình, tránh được nguy phản loạn, cát cứ. Chính sách này cũng đã tạo nên một vành đai
an toàn ở vùng biên ải, chống phá được các âm mưu xâm nhập quấy rối của các thế lực
từ phương Bắc. Khi các tù trưởng, châu mục quy phục triều đình, họ cũng đã đoàn kết
chặt chẽ với triều đình làm nên thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Tống (năm
1075-1077). Bên cạnh đó, các vua nhà Lý cũng sẵn sàng đem quân đánh dẹp những cuộc
phản loạn, có ý đồ cát cứ chống lại triều đình, thể hiện ý thức về một quốc gia thống
nhất toàn vẹn. Trong đó, lớn nhất là trấn áp cuộc nổi dậy của Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí
Cao tại châu Thảng Do (Cao Bằng). Có thể nói, nhờ thái độ rất cương quyết của nhà Lý
mà biên cương được giữ vững, khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố.
Thời Trần, hệ thống hành chính địa phương được tổ chức qui củ hơn. Mối ràng
buộc giữa trung ương và địa phương chặt chẽ, rõ ràng hơn trước kia. Một số hoàng tử
được cử đi trấn trị ở các châu xa. Lực lượng cai quản chính ở các địa phương là một hệ
thống các quan chức nhà nước. Các chức An phủ sứ, Tri phủ đứng đầu các lộ có quyền
mọi mặt về dân sự và an ninh ở địa phương. Lúc có biến họ được phép tuyển mộ quân
3
đội tham gia trấn áp các lực lượng chống đối. Giúp việc an ninh địa phương còn có các
vương hầu, quí tộc cao cấp, sống ở các thái ấp do vua phong.
Năm 1242, nhà Trần có cuộc cải tổ lớn, chính thức với tay đến cấp xã. Nhà Trần cho đặt
các chức Đại tư xã, Tiểu tư xã qui định dùng quan chức có phẩm hàm để làm. Đại tư xã
từ ngũ phẩm trở lên, Tiểu tư xã từ lục phẩm trở xuống. Đại Tư xã phải quản 2 hoặc 3 xã,
là người trông coi mọi việc trong xã, vừa đại diện cho nhà nước vừa đại diện cho xã.
Còn có các chức xã giám (phụ trách an ninh), xã chính (phụ trách chung), xã sử (phụ
trách việc điều động phu dịch, giúp xã chính). Ngoài ra còn có chức Câu đương, đứng
đầu các giáp và theo dõi việc kiện tụng.
Tiếp tục chính sách của thời Lý đối với các dân tộc thiểu số miền núi, nhà Trần cũng
thực hiện chính sách “vừa nhu, vừa cương”, một mặt gả công chúa cho các tù trưởng để
kết thân, mặt khác sẵn sàng đem quân đi đàn áp nếu các tù trưởng có ý định chống đối
triều đình. Nhờ chính sách này, trong ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên đã có sự tham gia tích cực của nhân dân, cũng như một số tù trưởng dân tộc ít
người như Hà Đặc (Phú Thọ) hay Nguyễn Thế Lộc (Lạng Sơn).
Với những chính sách tích cực của mình, hai triều đại Lý - Trần đã liên kết, ràng
buộc được những khu vực miền núi xa xôi, tạo nên một sức mạnh thống nhất, đưa đất
nước vượt qua được những giai đoạn lịch sử khó khăn nhất. Mặc dù sử liệu về thời Lý Trần còn ít, song những thông tin nói trên vẫn cho chúng ta thấy được sự quan tâm của
nhà nước đến chính quyền địa phương, cố gắng với tay đến chính quyền cấp xã, đưa các
chức dịch ở xã vào hàng ngũ quan chức (gọi là các xã quan), đảm bảo sự thống chất về
mặt chính trị trên phạm vi cả nước, từ trung ương đến địa phương.
1.3.Cuối thế kỉ XIV, Hồ Quý Ly thực hiện cải cách nhằm cứu vãn chế độ quân
chủ tập quyền đang khủng hoảng, tăng cường bộ máy chính quyền các cấp. Năm 1379,
ông đặt lại quan chế, sắp xếp hệ thống quan lại ở địa phương, thống nhất việc quản lí từ
trung ương đến địa phương. Các chức An phủ sứ ở lộ phải quản toàn bộ lộ đến các phủ,
huyện, châu... trong lộ, lộ trực tiếp chịu trách nhiệm trước Nhà nước trung ương. Hồ
Quý Ly cũng loại bỏ dần tầng lớp quý tộc Trần khỏi bộ máy chính quyền trung ương,
thay thế bằng tầng lớp Nho sĩ có tư tưởng cải cách.
4
Tóm lại, trải qua thời kì dài dựng nước (thế kỉ X - XIV), các triều đại Đinh, Tiền
Lê, Lý, Trần và Hồ đã tạo nên một hệ thống hành chính quốc gia tương đối hoàn chỉnh
từ trung ương đến địa phương, bao gồm cả các xã thôn. Tuy nhiên, thời kì này chính
quyền trung ương chưa được tổ chức một cách chặt chẽ nhằm nắm chắc quyền lực
thống nhất của mình, nên thế lực địa phương còn mạnh và phân tán.
2.
ối quan hệ giữa trung ƣơng và địa phƣơng trong nền hành chính Việt
am
thời ê sơ ( thế kỉ XV).
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, đất nước trở lại hoàn toàn độc lập. Thủ lĩnh
tối cao Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (1428), lập ra nhà Lê sơ. Trong những năm đầu, Lê
Thái Tổ chưa thể xây dựng ngay được một hệ thống hành chính hoàn toàn khác trước,
nên về cơ bản quan hệ giữa chính quyền trung ương với địa phương chưa có thay đổi gì
đáng kể so với trước.
Sau hơn 30 năm, khi xã hội Đại Việt chuyển sang thời kì ổn định và phát triển,
lãnh thổ mở rộng đến núi Thạch Bi (nam Ninh Bình), Lê Thánh Tông mới quyết định
thực hiện một cuộc cải cách hành chính quốc gia, từ trung ương đến địa phương.
Ở trung ương, Lê Thánh Tông bãi bỏ các chức quan và các cơ quan trung gian giữa vua
và bộ phận thừa hành, đó là Thượng thư sảnh, Trung thư sảnh, Môn hạ sảnh, Khu mật
viện cùng các viên quan cao cấp nhất như Tướng quốc (Tể tướng), Đại hành khiển, tả,
hữu Bộc xạ...Vua trực tiếp quyết định mọi việc. Giúp việc cho vua là 6 bộ, phụ trách các
mặt hoạt động khác nhau của nhà nước. Bên cạnh 6 bộ còn có 6 tự có chức năng thừa
hành công việc của 6 bộ, có 6 khoa để giám sát công việc của các bộ.
Hệ thống hành chính từ cấp trung gian đến cấp cơ sở là xã cũng có những cải cách cơ
bản, quan trọng.
Ở địa phương, Lê Thánh Tông bãi bỏ các đơn vị trung gian, thống nhất chia cả
nước làm 13 đạo thừa tuyên. Dưới đạo thừa tuyên là các phủ, huyện (châu), xã. Ở mỗi
đạo thừa tuyên đều có ba ti ngang quyền nhau, cùng quản lí công việc chung theo thể
chế tam quyền phân lập. Ba ti gồm: Đô ti phụ trách quân sự, Thừa ti trông coi mặt dân
sự và Hiến ti phụ trách công việc thanh tra, giám sát các quan lại trong đạo của mình.
Các ti chịu trách nhiệm trực tiếp trước triều đình theo hệ thống dọc. Các chức Đô tổng
5
binh sứ hay Thừa tuyên sứ chỉ có quyền đối với ti của mình và trực tiếp chịu trách nhiệm
trước vua và cán bộ ở trung ương, không có một chức quan đứng đầu đạo thừa tuyên,
chỉ đạo mọi việc. Mỗi đạo còn có một viên Giám sát ngự sử (thuộc Ngự sử đài), có trách
nhiệm theo dõi, giúp đỡ hoạt động của Hiến ti. Dưới đạo là các phủ, các huyện (châu) do
Tri phủ, Tri huyện (Tri châu) đứng đầu, cấp cơ sở là xã do xã trưởng đứng đầu.
Lê Thánh Tông đã có những cải cách nhằm hạn chế tối đa tính tự trị của làng xã
bằng việc đề ra những nguyên tắc, thể lệ rõ ràng cho việc thành lập xã mới và bầu cử xã
trưởng. Về việc bầu xã trưởng, Lê Thánh Tông có những qui định cụ thể như:
+ Qui định số lượng xã trưởng tương ứng với từng loại xã: xã lớn 500 hộ trở lên
có 5 xã trưởng, xã vừa 300 hộ trở lên có 4 xã trưởng, xã nhỏ 100 hộ trở lên có 2 xã
trưởng. Đặc biệt, số xã trưởng trong từng xã lại phân làm các chức: xã chính, xã sử, xã
tư, mỗi người một việc. Điều này cho thấy các chức danh đứng đầu mỗi xã được phân
công, phân nhiệm rõ ràng, không hề có sự chồng chéo.
+ Định rõ tiêu chuẩn bầu chọn xã trưởng: chọn hạng giám sinh, sinh đồ tuổi cao
nhưng học nghiệp không tiến bộ hoặc là con người lương thiện, tuổi từ 30 trở lên, không
vướng việc quân, biết chữ...Ngoài ra, Lê Thánh Tông cũng chú ý đến tiêu chuẩn không
cùng họ hàng thân tộc để hạn chế sự móc nối vây cánh và ngăn ngừa sự liên kết bè đảng,
thân thích. Cùng với những tiêu chuẩn bầu chọn xã trưởng là những qui định về chế độ
khảo hạch, giảm thải các chức danh quản lí làng xã.
Có thể nói, việc bầu xã trưởng đã được vua Lê Thánh Tông qui định rất nghiêm
ngặt và chặt chẽ thể hiện vai trò của Nhà nước cũng như mối quan hệ gắn kết giữa trung
ương và địa phương trong thời kì này. Bên cạnh đó, nhà nước thời Lê Thánh Tông cũng
đã có nhiều biện pháp tích cực nhằm ngăn chặn nạn cường hào nhũng nhiễu trong các
làng xã. Điều đó được thể hiện qua nhiều quy định mang tính pháp luật. Triều đình Lê
Thánh Tông đã rất kiên quyết xử lí các hiện tượng “dựa vào quyền thế ức hiếp xóm làng,
coi thường luật pháp làm nhiều điều sai trái".
Như vậy, hệ thống hành chính thời Lê Thánh Tông thể hiện được tính tập trung từ
dưới lên trên, từ địa phương đến trung ương, đề cao quyền hành toàn diện của người
đứng đầu nhà nước. Sự thông thuộc từ trên xuống đã thể hiện rõ ràng, quyền lực của
6
toàn hệ thống đó tập trung vào trong tay vua, vua quản lí công việc của triều đình nói
chung, triều đình thể hiện sức mạnh chi phối xuống các địa phương và chịu trách nhiệm
trước vua; các phủ quản các huyện, huyện quản xã nhưng phủ lại chịu trách nhiệm
trước tam ti, tam ti chịu trách nhiệm trước vua và triều đình. Mỗi cấp như vậy đều có
nhiệm vụ riêng, không dẫm đạp lên nhau mà lại ràng buộc nhau. Đó là hệ thống chính
quyền phong kiến tập trung cao độ, có ý nghĩa quan trọng đối với một quốc gia thống
nhất trên cơ sở nông nghiệp, kinh tế hàng hóa chưa phát triển, giao thông liên lạc còn
khó khăn.
3.
ối quan hệ giữa trung ƣơng và địa phƣơng trong nền hành chính Việt
am
thời nhà guyễn ( nửa đầu thế kỉ X X).
Sau khi đánh bại vương triều Tây Sơn, năm 1802 nhà Nguyễn làm chủ một lãnh
thổ rộng lớn, hợp nhất hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài cũ. Đứng trước tình hình
mới của đất nước, Gia Long buộc phải thực hiện "giải pháp tình thế": đặt chức Tổng trấn
Bắc thành (gồm 11 trấn) và Gia Định thành (gồm 5 trấn) ở hai đầu đất nước và niềm
Trung ở giữa trực thuộc triều đình. Mỗi Tổng trấn đều có chức Tổng trấn đứng đầu, có
quyền quyết định mọi việc rồi mới báo cáo lên vua sau. Tuy nhiên, trong những điều
kiện cụ thể, Gia Long vẫn cố gắng nắm lấy mọi quyền hành trong nước, nâng cao quyền
lực chuyên chế của mình. Chính quyền trung ương vẫn được tổ chức như thời Lê sơ, với
sự gia tăng quyền lực của vua.
Sau 30 năm nắm quyền, nhà Nguyễn đã tạo được điều kiện cần và đủ cho việc
thống nhất tổ chức cai quản đất nước từ trung ương đến địa phương. Cái gọi là "giải
pháp tình thế" không còn tồn tại nữa khi Minh Mạng thực hiện cuộc cải cách hành chính
lớn. Dưới thời trị vì của ông, tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương xuống đến các địa
phương chặt chẽ hơn, hoàn chỉnh hơn theo ý đồ tập trung mọi quyền lực cao nhất vào
nhà nước trung ương mà trực tiếp là Hoàng đế.
Minh Mạng đã thực hiện những cải cách trong việc tổ chức và hoàn thiện bộ máy
quản lí nhà nước. Đứng đầu triều đình là nhà vua, nắm giữ mọi quyền hành. Giúp việc
và tham mưu cho nhà vua có một số cơ quan như: Nội các, Viện cơ mật, Đô sát viện.
Nội các (lập năm 1829) thay thế Văn thư phòng, có nhiệm vụ giữ ấn triện của nhà nước,
7
đóng ấn triện vào các chỉ dụ của vua, ghi chép lời vua, coi giữ sách công, giấy tờ bang
giao, các bản châu phê, tâu báo... Viện cơ mật (lập năm 1834) là cơ quan trọng yếu
chuyên bàn bạc giúp vua những công việc trọng đại của đất nước. Đô sát viện (lập năm
1832) là cơ quan giám sát hoạt động của các quan chức trong hệ thống cơ quan hành
chính từ trung ương đến địa phương. Đô sát viện không chịu sự kiểm soát của bất kì cơ
quan nào ở triều đình ngoài nhà vua. Ngoài ra còn các cơ quan khác như 6 bộ, 6 tự, 6
khoa, Quốc tử giám, Hàn lâm viện được giữ như cũ.
Về cơ cấu tổ chức các cơ quan quản lí nhà nước ở các địa phương từ thời Minh
Mạng có nhiều thay đối, chặt chẽ hơn, có tác dụng củng cố chế độ quân chủ chuyên chế
và thống nhất quốc gia. Các đơn vị hành chính cấp thành, trấn bị bãi bỏ, thống nhất tên
gọi các đơn vị hành chính cấp trung gian trong cả nước là liên tỉnh và tỉnh. Cả nước có
30 tỉnh và một phủ Thừa Thiên chịu sự quản lí và kiểm soát trực tiếp của chính quyền
trung ương. Đứng đầu cấp tỉnh, liên tỉnh là Tổng đốc. Tổng đốc cai quản một liên tỉnh
kiêm hạt trực tiếp một tỉnh, tỉnh còn lại giao cho Tuần phủ. Cùng với quan đầu tỉnh có 2
ti Bố chánh và Án sát do Bố chính sứ (trông coi thuế má, đinh điền, truyền đạt mệnh
lệnh của vua cho các chức, viện) và Án sát sứ (chuyên về việc hình phạt, án ngục, kỉ
cương, phong tục, giám sát quan lại) đứng đầu. Bên cạnh đó còn có Đề đốc hoặc Lãnh
binh cai quản binh lính thừa hành theo lệnh của Tổng đốc.
Hệ thống quan lại ở phủ, huyện, châu, tổng, xã cũng được thống nhất. Năm 1823,
Minh Mạng bãi bỏ thể lệ đặt ở một phủ, một huyện có hai viên tri phủ, tri châu từ thời
Gia Long mà chỉ đặt ở mỗi phủ, mỗi huyện một viên. Tri phủ trực tiếp quản lí một
huyện lớn, kiêm nhiệm một số huyện nhỏ. Minh Mạng cũng qui định thực hiện thống
nhất trong cả nước số lượng quan lại cho các phủ, huyện, tổng, xã theo số đinh, số ruộng
đất hoặc số lượng công việc. Năm 1828, Minh Mạng quy định việc cắt đặt lí trưởng ở
các làng xã Bắc thành: mỗi xã đều đặt một lí trưởng; số đinh trên 50 người thì đặt thêm
một lí trưởng; số đinh trên 150 thì cắt đặt hai viên phó lí. Các chức này do cai tổng và xã
dân đề cử và được quan phủ, quan huyện xem xét, trình báo lên quan tỉnh cấp văn bằng
và dấu gỗ.
8
Đối với miền núi, lúc đầu nhà Nguyễn vẫn bảo lưu hình thức tự quản, thế tập theo
truyền thống cũ, được triều đình ban chức tước. Đến thời Minh Mạng, triều đình bắt đầu
can thiệp vào tổ chức quản lí hành chính vùng dân tộc ít người bằng cách nắm chặt nhân
sự trong bộ máy cấp châu, giao cho quan đầu trấn chọn người có năng lực ở địa phương.
Cùng với việc cho đổi tên gọi một số vùng cho thống nhất như ở miền xuôi (ví dụ đổi
các mường làm huyện hay châu), nhà nước còn qui định số đinh, điền để đặt số lượng
quan lại cho mỗi đơn vị và phẩm hàm cho mỗi viên quan. Từ năm 1828, nhà nguyễn
thực hiện chế độ lưu quan, tức là chế độ cắt cử quan lại người kinh lên làm việc ở miền
núi. Đến năm 1829, triều đình bãi bỏ chế độ thế tập của các thổ ty miền núi, trực tiếp bổ
dụng người đứng đầu theo tiêu chuẩn qui định chung, không phân biệt xuôi ngược. Tuy
nhiên chế độ lưu quan không phải thực hiện ngay một lúc ở tất cả các địa phương miền
núi. Mãi tới năm 1838, chế độ lưu quan mới được phổ biến thực hiện triệt để.
Như vậy, nguyên tắc bao trùm, chi phối trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước thời Nguyễn là tập trung thống nhất quyền lực vào cá nhân Hoàng đế, tăng
cường sự quản lí, giám sát của nhà nước trung ương với tất cả các địa phương và quan
lại các cấp. Nguyên tắc này có tác dụng củng cố chế độ trung ương tập quyền, thúc đẩy
bộ máy hành chính các cấp hoạt động có hiệu quả hơn. Nhà nước thống nhất quy chế, lề
lối làm việc và chức trách của các quan lại trong hệ thống chính quyền các cấp. Giữa
các cơ quan, các chức quan vừa có cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn nhau, vừa có tác dụng
thúc đẩy các hoạt động của nhau, tạo nên sự vận hành đều đặn của hệ thống hành chính
từ trung ương đến cơ sở. Chế độ giám sát và khảo khóa quan lại được đặt ra nghiêm
ngặt làm cơ sở cho thưởng phạt, thanh lọc, cất nhắc, thuyên chuyển nâng cao ý thức
trách nhiệm của các quan. Bên cạnh đó, quan hệ thông tin hai chiều giữa triều đình và
tỉnh, phủ huyện được thực hiện chặt chẽ đều đặn. Trung ương truyền xuống theo lệnh
dụ, cấp dưới (tỉnh, huyện) chỉ có thi hành. Ngược lại cấp dưới (phủ, huyện) phải trình
báo lên cấp cấp tỉnh, cấp tỉnh tâu trình lên nhà vua dưới hình thức “thỉnh an” có định
kì. Với tình hình đột xuất như giặc giã, thiên tai, dịch bệnh thì có chế độ trình báo
thường xuyên hàng ngày, hàng tuần (10 ngày) để nhà vua và triều đình xem xét, điều
9
chỉnh, xử lí giải quyết. Những nguyên tắc trên đã đản bảo cho sự vận hành của hệ thống
hành chính từ trung ương xuống địa phương thời Nguyễn.
. KẾT UẬ :
Trong suốt thời kì dài của lịch sử, làng xã truyền thống của người Việt vốn được
coi là những “pháo đài xanh” bất khả xâm phạm với tính tự trị khá cao. Ở thời trung đại,
để xây dựng một nhà nước thống nhất, chống tình trạng phân tán, cát cứ thì nhà nước
phong kiến trung ương phải hạn chế được tối đa tính tự trị của làng xã. Nói cách khác,
nhà nước phải giải quyết tốt được mối quan hệ giữa trung ương và địa phương, xây dựng
được mối lên hệ, sự ràng buộc lẫn nhau giữa các cơ quan và các chức quan ở địa phương
vào chính quyền trung ương.
Từ thế kỉ X đến nửa đầu XIX, các triều đại phong kiến Việt Nam luôn cố gắng chi
phối các địa phương, từ vùng đồng bằng cho tới cả những vùng miền núi xa xôi, từ cấp
lộ phủ cho đến cấp xã thôn. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi thời kì khác nhau, tùy từng
điều kiện và hoàn cảnh mà các nhà nước phong kiến đã đưa ra những chính sách khác
nhau nhằm tăng cường sự quản lí, giám sát của nhà nước trung ương với tất cả các địa
phương và quan lại các cấp. Trong mối quan hệ hai chiều giữa trung ương và địa
phương, xu hướng trung ương ngày càng chi phối địa phương phản ánh xu hướng tập
trung quyền lực tối cao vào tay một ông vua chuyên chế. Từ chế độ quân chủ tập quyền
còn sơ khai ở thế kỉ X, đến thế kỉ XV nhà Lê sơ đã hoàn toàn xây dựng được nhà nước
quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền điển hình theo kiểu phương Đông. Đến nửa
đầu thế kỉ XIX, nhà nước quân chủ chuyên chế đó tiếp tục được củng cố và phát triển,
phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa trung ương và địa phương.
Như vậy, muốn thống nhất lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền biên giới và biển đảo,
muốn phát huy tối đa sức mạnh đoàn kết toàn dân thì phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa trung ương - địa phương trong một nền hành chính quốc gia.
10
TÀ
ỆU T A
K ẢO
1. Phan Huy Chú, (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 2, Nxb KHXH, Hà Nội.
2. Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê, (1998), Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 2, Nxb
KHXH, Hà Nội.
3. Phạm Văn Liệu (dịch), (1997), Lê triều quan chế, Viện Sử học & Nxb VHTT, Hà
Nội.
4. Nguyễn Cảnh Minh, Đào Tố Uyên, (2007), Một số chuyên đề lịch sử cổ trung đại
Việt Nam, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
5. Nguyễn Cảnh Minh (chủ biên), (2008), Giáo trình lịch sử Việt Nam, tập III, từ thế kỉ
XVI đến năm 1858, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
6. Nguyễn Cảnh Minh, Phan Ngọc Huyền, Chính sách của nhà nước trung ương thời Lê
Thánh Tông đối với bộ máy quản lý cấp xã, Khoa Lịch sử, trường ĐHSP Hà Nội.
7. Tạp chí NCLS, số 6 (1995)
8. Tạp chí NCLS, số 10 (2010)
9. Đào Tố Uyên (chủ biên), Nguyễn Cảnh Minh, (2008), Giáo trình lịch sử Việt Nam,
tập II, từ thế kỉ X đến thế kỉ XVI, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
11
- Xem thêm -