Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Luận văn ngành báo chí báo chí hội nhà báo việt nam với vấn đề bảo vệ quyền hành...

Tài liệu Luận văn ngành báo chí báo chí hội nhà báo việt nam với vấn đề bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo​

.PDF
146
17
125

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------- PHẠM VĂN THÀNH BÁO CHÍ HỘI NHÀ BÁO VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN HÀNH NGHỀ HỢP PHÁP CỦA NHÀ BÁO LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Báo chí học Hà Nội - 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------------- PHẠM VĂN THÀNH BÁO CHÍ HỘI NHÀ BÁO VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ QUYỀN HÀNH NGHỀ HỢP PHÁP CỦA NHÀ BÁO Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học Mã số: 60 32 01 01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Văn Hƣờng Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, luận văn “Báo chí Hội Nhà báo Việt Nam với vấn đề bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Đinh Văn Hường. Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Luận văn có sử dụng, phát triển và kế thừa những tư liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu từ các sách, giáo trình, tài liệu liên quan đến nội dung đề tài, và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn. Tác giả luận văn Phạm Văn Thành LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Viện Đào tạo Báo chí và Truyền thông (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) đã tận tình giảng dạy, truyền đạt cho tôi nhiều kiến thức quý báu và phương pháp nghiên cứu khoa học bổ ích. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Đinh Văn Hường, người thầy đã trực tiếp và tận tình hướng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn này. Tôi xin cảm ơn lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam, BBT Tạp chí Người Làm Báo, BBT báo Nhà báo & Công luận đã tạo điều kiện cho tôi tham gia khóa học này. Tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn đối với những người thân, các học viên trong lớp, các bạn đồng nghiệp đã tư vấn, giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này. Hà Nội, tháng 11/2019 Tác giả luận văn Phạm Văn Thành CÁC CHỮ VIẾT TẮT BBT Ban Biên tập BTV Biên tập viên CTV Cộng tác viên HNBVN Hội Nhà báo Việt Nam NB&CL Nhà báo và Công luận PV Phóng viên TBT Tổng biên tập TKTS Thƣ ký tòa soạn VPDD Văn phòng đại diện PVTT Phóng viên thƣờng trú MỤC LỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .................................................................................................. 3 PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .......................................................... 5 3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................12 4. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................................12 5. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ............................................................................13 6. Phƣơng pháp nghiên cứu ......................................................................................13 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.................................................................15 8. Kết cấu của luận văn ..............................................................................................15 NỘI DUNG ..................................................................................................................17 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN HÀNH NGHỀ HỢP PHÁP CỦA NHÀ BÁO ........................................17 1.1. Các khái niệm ...................................................................................................17 1.2. Vai trò của báo chí trong đồi sống xã hội ........................................................25 1.3. Quan điểm của Đảng và nhà nƣớc đối với báo chí ........................................26 1.4. Những yêu cầu cầu cơ bản của báo chí Hội Nhà báo Việt Nam trong thông tin bảo vệ quyền hành hợp pháp của nhà báo ........................................................30 1.5. Vài nét khái quát về Hội Nhà báo Việt Nam và báo chí thuộc Hội..............34 Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................................38 CHƢƠNG 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG BÁO CHÍ HỘI NHÀ BÁO VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ THÔNG TIN BẢO VỆ QUYỀN HÀNH NGHỀ HỢP PHÁP CỦA NHÀ BÁO ..............................................................................................40 2.1. Thực trạng tình hình xâm phạm, cản trở quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo .........................................................................................................................40 2.2. Nguyên nhân của hành vi xâm phạm, cản trở................................................48 2.3. Thực trạng thông tin về vấn đề bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo trên báo chí Hội Nhà báo Việt Nam .................................................................63 2.4. Đánh giá ƣu điểm và hạn chế của thông tin về vấn đề bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo trên báo chí của Hội .................................................66 2.4. Các tồn tại cần khắc phục của báo chí Hội nhà báo Việt Nam ....................76 Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................................79 CHƢƠNG 3:MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ 81 NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA BÁO CHÍ HỘI NHÀ BÁO VIỆT NAM TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN HÀNH NGHỀ HỢP PHÁP CỦA NHÀ BÁO .81 3.1. Một số vấn đề đặt ra.............................................................................................81 3.2. Nhóm giải pháp chung .......................................................................................85 3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lƣợng thông tin trên báo chí của Hội về vấn đề bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo .......................................93 3.3. Giải pháp nâng cao hình thức ...........................................................................96 3.4. Một số giải pháp khác .......................................................................................102 Tiểu kết chƣơng 3 .....................................................................................................107 KẾT LUẬN ................................................................................................................109 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................112 PHỤ LỤC 1.................................................................................................................... 1 DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Các hành vi cản trở nhà báo. Nguồn: BKTHNBVN.............................41 Biểu đồ 2.2. Về mức độ quan tâm của bạn đến các vụ cản trở nhà báo ở Việt Nam. BKTHNBVN ..............................................................................................................41 Biểu đồ 2.3. Hậu quả của việc cản trở nhà báo. .......................................................41 Biểu đồ 2.4: Độ tuổi tham gia khảo sát năm 2017 ...................................................54 Biểu đồ 2. 5: Tỷ lệ người có thẻ tham gia khảo sát năm 2017 .................................54 Bảng 2.1. Thống kê thể loại sử dụng trên trang Diễn đàn và Nghề báo từ năm 20132018. ..........................................................................................................................68 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong bài phát biểu với chủ đề Hãy để báo chí phát triển mạnh mẽ của nguyên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki-Moon nhân ngày Tự do báo chí thế giới 3/5/2015 đã khẳng định, việc bảo vệ những người làm nghề báo không chỉ là bảo vệ một trong những nền tảng của dân chủ mà cũng chính là bảo vệ những giá trị mà Liên Hiệp Quốc đại diện. Thông điệp của Tổng thư kí đưa ra trong bối cảnh tình trạng bạo lực nhằm vào nhà báo ngày càng gia tăng không chỉ ở trong vùng có chiến sự mà trong cả thời bình ở nhiều quốc gia. Bởi lẽ, để cung cấp cho bạn đọc những thông tin xác thực nhất, những bức ảnh chân thực nhất, các nhà báo phải xông pha vào những nơi nguy hiểm như vùng có xung đột vũ trang, chiến tranh. Vì thế, đằng sau nhiều bài báo, bức ảnh là mồ hôi, nước mắt và thậm chí cả máu của các nhà báo. Theo thống kê của các tổ chức quốc tế, chỉ riêng ở Syria trong vòng 6 năm từ năm 2011 tới 2017, đã có 122 nhà báo, phóng viên chiến trường thiệt mạng khi đưa tin chiến sự ở nước này. Các nhà báo là mục tiêu tấn công vì những sự thật mà họ nói hoặc viết để phơi bày các vụ việc nhạy cảm như tham nhũng, buôn lậu, vi phạm pháp luật, xâm hại quyền lợi quốc gia, công chúng. Theo Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, những vụ tấn công này là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được trong các nỗ lực chung để thúc đẩy an toàn, nhân phẩm và thịnh vượng cho tất cả mọi người. Đó là trên thế giới, còn ở Việt Nam thì sao? Với vai trò là lực lượng của Đảng, Nhà nước, tiếng nói của các tổ chức xã hội và là diễn đàn của nhân dân, báo chí đã bám sát các sự kiện xảy ra trong xã hội, phản ánh đa chiều những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống cũng như lột tả bản chất các hiện tượng xung đột, mâu thuẫn xảy ra trong quá trình đi lên của đất nước. Sự tham gia của báo chí vừa để thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin cho người dân theo Hiến pháp, vừa giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước với tư cách là nhân 1 tố chủ chốt điều hành và phân chia các nguồn lực trong xã hội. Chính vì đánh giá rất cao vai trò của báo chí nên từ năm 1957 và 1989, Quốc hội đã ban hành Luật Báo chí nhằm tạo hành lang pháp lý cho các phóng viên, nhà báo hoạt động. Luật này không những minh định quyền thu thập và công bố thông tin của nhà báo mà còn nghiêm cấm tất cả những hành vi cản trở nhà báo hành nghề đúng pháp luật. Sau đó, Luật Phòng chống tham nhũng và nhiều văn bản khác tiếp tục cụ thể hóa quyền này của báo chí với mục tiêu tạo điều kiện tốt hơn cho các nhà báo hoạt động, cũng là nhằm phục vụ xã hội tốt hơn. Với sứ mệnh vẻ vang và trách nhiệm cao cả gánh trên vai, đội ngũ báo chí nước ta thời gian qua đã luôn nỗ lực phấn đấu, và góp phần quan trọng vào sự phát triển toàn diện của đất nước. Vì trách nhiệm thông tin nhanh nhạy, chuẩn xác; vì mục đích đi đến cùng sự thật, người làm báo đã vượt qua rất nhiều khó khăn và thử thách, thậm chí những hiểm nguy luôn rình rập để chiến đấu bằng ngòi bút của mình chống lại những việc làm mờ ám, tiêu cực, vạch trần những hành vi sai trái xâm hại đến lợi ích của người dân, do vậy những kẻ có hành vi tham nhũng, trục lợi thường có những thủ đoạn đê hèn, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, thậm chí tới sức khoẻ, tính mạng nhà báo, có trường hợp rất nghiêm trọng, gây bức xúc dư luận xã hội. Trong vài năm gần đây, hiện tượng này diễn ra ngày một nhiều, hậu quả ngày một lớn, ở tất cả mọi vùng miền, lĩnh vực… nhưng kết quả xử lý các hành vi cản trở nhà báo lại không tương xứng với mong muốn của các cơ quan quản lý, chỉ đạo, của chính giới báo chí cũng như của các tầng lớp nhân dân. Trong thực tế, đại đa số các nhà báo tuân thủ pháp luật và đạo đức nghề nghiệp, tuy nhiên vẫn còn một số nhà báo vi phạm, mặc dù không nhiều nhưng ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín, danh dự của giới báo chí nói chung. Chúng ta vẫn chưa quên sự việc nhiều nhà báo đã bị hành hung khi đang tác nghiệp trong khoảng 5 năm trở lại đây (2013 – 2018), trong đó có một số vụ khá nghiêm trọng. Đáng lo ngại, các vụ tấn công, cản trở nhà báo tác nghiệp 2 có xu hướng gia tăng cả về mức độ và tần suất, thậm chí các hành vi cản trở mang tính chất trả thù, cảnh cáo còn nhằm vào thân nhân các nhà báo cho thấy tình trạng “coi thường hoạt động báo chí” cũng như các quy định pháp luật nói chung đã đến mức đáng báo động. Đặc biệt tình trạng này thường xuất hiện khi nhà báo tác nghiệp chống tiêu cực. Những kẻ liên quan sẵn sàng bất chấp, kể cả tính mạng của nhà báo cho tới pháp luật để thực hiện bằng được hành vi che đậy, cản trở, né tránh, bưng bít các hoạt động tiêu cực của mình. Với tình trạng trên, những người làm báo có thể an tâm sử dụng ngòi bút của mình vào các mục tiêu truyền thông chính xác và trung thực hay không? Bên cạnh đó, không ít nhà báo dù tác nghiệp đúng quy định pháp luật nhưng đang gặp phải nhiều rào cản trong tiếp cận thông tin, đặc biệt là thông tin về các vụ việc liên quan chống tham nhũng, tiêu cực. Vì sao lại có sự coi thường dư luận và pháp luật như vậy? Câu trả lời rằng, một phần xuất phát từ sự thờ ơ, vào cuộc một cách đối phó của một số cơ quan chức năng khi giải quyết sự việc khiến “chìm xuồng”, rơi dần vào quên lãng. Trên thực tế, các vụ hành hung người làm báo bị xử lý rất ít và thường nghiêng về các biện pháp hành chính. Qua báo cáo công tác kiểm tra của Hội Nhà báo Việt Nam nhận thấy gần đây, hầu hết các cơ quan ở địa phương đã quan tâm xử lý việc các nhà báo bị tấn công nhưng mức xử lý đưa ra còn quá nhẹ. Một số địa phương thậm chí còn thờ ơ, chưa làm hết trách nhiệm hoặc làm cho qua chuyện. Chính vì sự giải quyết không thỏa đáng, mức độ xử lý còn thấp, không đủ sức răn đe; bên cạnh đó những bất cập tồn tại trong hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi cũng như chưa có một quy trình tác nghiệp và quy tắc ứng xử đúng mực của nhà báo đã góp phần làm cho vòng luẩn quẩn tác nghiệp – bị hành hung gia tăng, kèm theo sự hung hăng, ngang nhiên coi thường pháp luật của không ít đối tượng. Vai trò của báo chí là rất lớn, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội, là một trong những lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực 3 vì sự bình yên của xã hội. Đây là một cuộc đấu tranh lâu dài và đầy khó khăn, thử thách. Để cuộc đấu tranh này đem lại hiệu quả cao hơn, nhà báo cần phải được khuyến khích, động viên và rất cần được bảo vệ. Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của các nhà báo chưa thực sự nhận được sư quan tâm đúng mức của toàn xã hội. Quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo đã được nêu rõ trong luật định, mới đây nhất là Luật Báo chí sửa đổi năm 2016 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/1/2017. Xét về mặt hình thức, các quy định của pháp luật về lĩnh vực này có tương đối nhiều, hệ thống cơ quan quản lý, chỉ đạo báo chí và tổ chức của hội nghề nghiệp cũng khá đầy đủ nhưng chưa thực sự hiệu quả, cơ chế thực thi còn nhiều lỗ hổng. Hiện tượng phóng viên, nhà báo bị cản trở khi tác nghiệp đã diễn ra từ lâu, ở nhiều vùng, do nhiều loại đối tượng gây ra với đủ loại hậu quả. Thường trực Thường vụ Hội Nhà báo Việt Nam hết sức coi trọng công tác bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo. Bởi lẽ, Hội Nhà báo Việt Nam có một vai trò, chức năng rất trọng yếu đó là bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà báo. Trong các quyền lợi của nhà báo thì quyền lợi tối thượng, thiêng liêng nhất đó là quyền được làm nghề trong khuôn khổ của pháp luật. Đó là quyền lợi tinh thần, cũng là quyền lợi thiết thân nhất. Với chức trách ấy, Hội Nhà báo Việt Nam nói chung, các cơ quan báo chí của Hội nói riêng luôn có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi các hội viên của mình – một trách nhiệm nặng nề nhưng cũng hết sức thiêng liêng. Có thể nói, việc bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo luôn là vấn đề mang tính thời sự, có giá trị thực tiễn sâu sắc, cần có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, bàn luận thấu đáo, quan tâm thỏa đáng, phân tích làm rõ thực trạng, các vấn đề đặt ra trong hoạt động tác nghiệp thực tiễn. Ngay tại thời điểm người viết đề xuất ý tưởng nghiên cứu (tháng 12/2017), đã xảy ra liên tiếp các vụ cản trở, hành hung nhà báo gây xôn xao dư luận và giống như nhiều sự việc khác, các vụ cản trở này đa phần không tìm ra thủ phạm hoặc thủ phạm 4 không bị xử lý nghiêm minh. Trước những đòi hỏi cấp thiết đang đặt ra, cũng như ý nghĩa, tầm quan trọng cùng với vinh dự và trách nhiệm lớn lao mà đội ngũ báo chí cách mạng nước ta đã và đang gánh vác, học viên mạnh dạn lựa chọn đề tài “Báo chí Hội Nhà báo Việt Nam với vấn đề bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo”, hi vọng có thể đưa ra cái nhìn toàn diện về vấn đề này, góp phần kiến tạo hành lang pháp lý cần thiết để bảo vệ môi trường tác nghiệp lành mạnh, hạn chế tình trạng xâm phạm, cản trở nhà báo tác nghiệp. Đó cũng là trăn trở của các nhà báo, những người làm công tác quản lý báo chí và các cấp Hội Nhà báo hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo đã xuất hiện khá nhiều trên các phương tiện báo chí, truyền thông thời gian qua. Nói đúng hơn, đây là những vấn đề không mới đối với báo giới và công chúng cả nước. Chỉ tính riêng trong khoảng 5 năm trở lại đây (2013-2018) đã có hàng chục cuộc hội thảo, tọa đàm, hàng trăm bài viết tập trung đề cập, phân tích làm rõ nguyên nhân các vụ cản trở, hành hung nhà báo thời gian qua, từ đó kêu gọi công chúng phải lên tiếng bảo vệ nhà báo, xem hoạt động tác nghiệp báo chí là thi hành công vụ, phải có “đường dây nóng” cho nhà báo và thông tin kịp thời cho cơ quan chức năng khi bị cản trở, hành hung. Bên cạnh đó, một số khóa luận tốt nghiệp cử nhân, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ báo chí học cũng đã bước đầu đề cập tới các giải pháp nhằm hoàn hoàn thiện các “khe hở” pháp luật, tạo điều kiện cho báo chí thực hiện nhiệm vụ thuận lợi, an toàn, hiệu quả. Trong luận án tiến sĩ Hoàn thiện pháp luật về báo chí ở Việt Nam hiện nay (2015, Đại học quốc gia Hà Nội), tác giả Phan Thị Thanh Tâm trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước về báo chí, đã phân tích làm rõ hơn các khái niệm và đặc điểm của pháp luật về báo chí (PLBC); vai 5 trò, nội dung của PLVBC; sự tương thích giữa PLVBC của Việt Nam với pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác; những tiêu chí đặc thù xác định mức độ hoàn thiện PLVBC. Bên cạnh đó, luận án cũng phân tích những hạn chế của PLVBC và hoạt động quản lý báo chí hiện nay; tập trung làm sáng tỏ những vấn đề như: mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý báo chí; mô hình cơ quan báo chí; cải chính, quảng cáo trên báo chí; tiếp cận thông tin; quyền riêng tư; lưu chiểu; xử lý vi phạm PLVBC và đưa ra các quan điểm cơ bản hoàn thiện PLVBC; phân tích các nội dung PLVBC cần sửa đổi, bổ sung. Cuốn Đạo đức nghề báo - Những vấn đề lý luận và thực tiễn do PGS. TS Hoàng Đình Cúc chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, 2013) đã đề cập đến quan điểm của Mác, Ăng ghen, Lê nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về báo chí, đạo đức nghề báo; thực trạng đạo đức nghề báo ở Việt Nam hiện nay; qua đó phác thảo hệ tiêu chí về chuẩn mực đạo đức nghề báo và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện đạo đức nghề báo. Luận án tiến sĩ Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời kỳ đổi mới do tác giả Nguyễn Vũ Tiến (Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003) thực hiện đã phân tích những bước tiến trong quá trình lãnh đạo báo chí của Đảng, trong đó khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho báo chí tiếp tục phát triển. Trong cuốn chuyên luận Quản lý và phát triển báo chí xuất bản do PGS.TS Lê Thanh Bình làm chủ biên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004), trên cơ sở phân tích những thành tựu, tồn tại và thách thức của báo chí, xuất bản từ năm 1986 đến nay, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí, xuất bản trong đó có giải pháp hoàn thiện PLVBC. Tuy nhiên, nội dung này chỉ được trình bày khái quát mà chưa có sự phân tích toàn diện, sâu sắc. Bài viết Tăng cường quản lý nhà nước về pháp luật đối với báo chí của 6 tác giả Hoàng Anh đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 25/10/2012 đã đánh giá thực trạng hệ thống văn bản pháp luật và thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực báo chí; qua đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với báo chí, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm PLVBC; có chính sách hợp lý để đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ. Bài viết Dự thảo Luật báo chí: Cân nhắc quy định về quyền tự do ngôn luận của tác giả Thu Thảo đăng trên Báo điện tử VOV ngày 25/09/2015 đã đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ nguyên tắc về tự do báo chí và tự do ngôn luận trên báo chí của công dân; cần xác định rõ lại nội hàm để quy định cho đúng với tinh thần Hiến pháp cũng như công ước quốc tế. Đặc biệt, trong Báo cáo khảo sát, nghiên cứu về các hành vi cản trở tác nghiệp báo chí, do Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông Phát triển (RED Communication) và Đại sứ quán Anh tại Việt Nam, thống kê giai đoạn 20102015 cho thấy rằng, việc đấu tranh phòng, chống hành vi cản trở báo chí tác nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Báo cáo khẳng định, ngoài những nguyên nhân khách quan thì nguyên nhân chủ quan từ phía chính các nhà báo cũng góp phần không nhỏ, thậm chí đáng lo ngại. Cụ thể là một bộ phận nhà báo cậy thế, nhũng nhiễu tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp. Trong báo cáo này, RED đã nhận diện 12 hành vi cản trở báo chí tác nghiệp. Nghiên cứu dựa trên ý kiến của 7,2 vạn bạn đọc của 6 tờ báo trực tuyến uy tín, đồng thời khảo sát trực tiếp 384 nhà báo đang hành nghề. RED cho rằng, những bất cập tồn tại trong hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi không phải là nguyên nhân trực tiếp nhưng để hạn chế các vụ việc cản trở, góp phần xây dựng một xã hội minh bạch thông tin, thì luật pháp đóng vai trò tối quan trọng. PGS. TS Nguyễn Thành Lợi, trong bài viết Khi công luận lên tiếng: Vì sao số vụ nhà báo bị hành hung không giảm? (Kỳ II), Tạp chí Người Làm Báo, số 11/2016, cho rằng, báo chí ngày nay có vai trò đặc biệt quan trọng 7 trong đời sống xã hội. Sứ mệnh của người làm báo là đưa ra những thông tin chính xác, nhanh nhạy và kịp thời đến với công chúng. Tuy nhiên, không ít nhà báo đang phải đối mặt với những rủi ro khi bị đe dọa và hành hung. Trên thực tế, số vụ việc các nhà báo bị đe dọa, hành hung được xử lý chỉ mới chiếm khoảng 1/5 tổng số vụ xảy ra được báo chí phản ánh. Theo PGS. TS Nguyễn Thành Lợi, hiện nay còn rất nhiều vụ đe dọa, cản trở nhà báo tác nghiệp chưa được kịp thời phát hiện, xử lý, nhiều nhà báo và gia đình vẫn từng ngày, từng giờ sống, làm việc trong sự lo lắng, thấp thỏm. Trong bài viết này, PGS. TS Nguyễn Thành Lợi đã đề xuất một số giải pháp để ngăn chặn và hạn chế tình trạng nhà báo bị cản trở, hành hung, đề nghị cơ quan chức năng cần vào cuộc điều tra, làm rõ và xử lý nghiêm các cá nhân, tổ chức có hành vi xâm phạm hoạt động báo chí theo quy định của pháp luật, nhằm đấu tranh và răn đe đối với những hành vi vi phạm pháp luật tương tự có thể tái diễn trong tương lai. Cùng quan điểm, nhà báo Phan Hữu Minh, Trưởng Ban Kiểm tra Hội Nhà báo Việt Nam trong tham luận tại hội thảo Bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo do Tạp chí Người Làm Báo – Hội Nhà báo Việt Nam và Hội Nhà báo Quảng Ngãi phối hợp tổ chức tại Quảng Ngãi ngày 8/8/2017 nhấn mạnh, văn hóa, chuẩn mực và mức độ tuân thủ quy trình, đạo đức tác nghiệp báo chí đã thay đổi theo chiều hướng tiêu cực. Nhà báo Phan Hữu Minh cũng thẳng thắn cảnh báo tình trạng một số tờ báo đang khai thác lợi thế thông tin vụ án lá cải, một số nhà báo đang hành nghề với sức mạnh của các cơ quan chủ quản. Tình trạng lạm dụng quyền lực và sử dụng thông tin án của các cơ quan chủ quản để quấy rối doanh nghiệp và các cơ quan địa phương đang tạo ra những ức chế và trở thành nguyên nhân của một số vụ bạo hành nhà báo thời gian qua. PGS.TS Nguyễn Thị Trường Giang trong cuốn chuyên khảo Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo (2011) cho rằng, bên cạnh phần đông những nhà 8 báo vững vàng trước thử thách, luôn giữ cao ngòi bút trong sáng, cũng có những nhà báo vì tư lợi cá nhân mà cầm bút. Số nhà báo vi phạm đạo đức nghề nghiệp, lợi dụng nghề báo để thực hiện những hành vi vụ lợi không còn cá biệt. Trong tổng số các vụ nhắc nhở và vi phạm của các cơ quan quản lý báo chí thì loại vi phạm này chiếm số lượng ít nhất. Tuy nhiên, trên thực tế, số nhà báo có động cơ đen tối, làm việc xấu một cách trắng trợn, bị đem ra xét xử thì ít nhưng số nhà báo có hành vi kiêu ngạo, coi thường mọi người, thường xuyên “kiếm vặt” như ép cơ sở chạy một vài quảng cáo, yêu cầu chi phí cho bài viết hay gây phiền hà, nhũng nhiễu cho xã hội lại không ít. PGS.TS Nguyễn Thị Trường Giang cũng thẳng thắn chỉ ra tình trạng một số nhà báo đã lợi dụng việc một số doanh nghiệp làm ăn phi pháp, sai trái để thông tin nhằm đe dọa, tống tiền các doanh nghiệp thông qua các bài điều tra chống tiêu cực, tham nhũng. Đáng ra, họ phải công bố các thông tin này, song vì “nhiều lý do”, trong đó có trường hợp nhà báo đến “thăm” , đến “gợi ý” các cơ sở doanh nghiệp sai phạm, tống tiền và nhận hối lộ để không đăng những thông tin trên. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khuyến báo chí mất dần uy tín trước công chúng, bạn đọc, làm suy giảm niềm tin của xã hội trước sứ mệnh lớn lao và cao cả của những người làm báo, khiến tình trạng xâm phạm quyền tác nghiệp, thậm chí hành hung nhà báo càng diễn biến phức tạp, tốt xấu đan xen. Thực tế, không chỉ câu chuyện hành hung nhà báo mới là cản trở mà chính sự im lặng đáng sợ, cố tình không cung cấp thông tin cho báo chí mới thật sự là rào cản lớn nhất trên hành trình bảo vệ niềm tin và lẽ phải của mỗi người làm báo. Đã có nơi nhân danh “vùng cấm”, nhân danh “thông tin mật”, nhân danh lợi ích quốc gia, an ninh quốc gia, hoặc an toàn quản lý để không cung cấp thông tin cho báo chí. Bàn về vấn đề trên, nhà báo Hạnh Nguyên trong bài viết Không được “né” cung cấp thông tin cho báo chí, đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản 9 Việt Nam, ngày 14/02/2017 chỉ rõ, vẫn còn hiện tượng các phóng viên chầu chực ở nhiều cơ quan Nhà nước để mong chuyển tải những thông tin chính thống tới bạn đọc, nhưng đáp lại là “cổng đóng, then cài”; hoặc là những lời khất hứa: “lãnh đạo bận họp”, “người phát ngôn ốm, hẹn khi khác”… Mặt khác, trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, các nhà báo, tòa soạn thường xuyên phải đối diện với một số thế lực có chức quyền hoặc những đối tượng làm ăn phi pháp, có nhiều tiền và quan hệ. Bên cạnh sức ép về chính trị, các nhà báo điều tra đang phải đối mặt với một rào cản khác - đó là các hợp đồng bảo trợ truyền thông trá hình. Trong bài viết “ Rào cản với phóng viên điều tra”, đăng trên Tạp chí Mặt trận, ngày 21/6/2018, nhà báo Vũ Văn Tiến khẳng định, hiện nay rất nhiều doanh nghiệp “có vấn đề” muốn “mua sự im lặng” của báo chí bằng việc ký các hợp đồng bảo trợ truyền thông. Khi cơ quan báo chí ký hợp đồng bảo trợ truyền thông với doanh nghiệp, có hai nội dung đáng chú ý: Doanh nghiệp có thể gửi những bài PR, thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và “thòng” vào điều khoản để cơ quan báo chí không đăng tin, bài bất lợi cho đơn vị họ. Thậm chí, họ còn thỏa thuận với tòa soạn nếu phát hiện có tin xấu đối với mình thì thông tin cho họ biết để xử lí. Từ đời sống truyền thông hiện nay có thể thấy, một số tờ báo, trang tin có “quan hệ” tốt với một bộ phận doanh nghiệp và một số cán bộ, công chức để lũng đoạn chính sách, thực hiện chiến dịch truyền thông tạo lợi thế để doanh nghiệp làm ăn bất chính, gây bất lợi cho doanh nghiệp khác. Vừa qua, có rất nhiều trường hợp nhà báo bị hành hung, nhưng tại sao các cơ quan báo chí lại im lặng? Bởi, sau khi hành hung xong, có thể xuất hiện những thương lượng, bồi thường đối với phóng viên hay tòa soạn, dẫn đến việc không thấy bài đăng nữa? Rõ ràng, xét về khía cạnh đạo đức nghề nghiệp, việc một cơ quan báo chí, hay phóng viên im lặng trước những thông tin sai phạm phát hiện được là khó có thể chấp nhận. Trong bài viết Cùng nhìn lại những vụ nhà báo bị hành hung, cản trở khi 10 tác nghiệp từ đầu năm 2017 đến nay, trên báo Pháp luật Việt Nam số ra ngày 01/09/2017, tác giả Duy Khương, Như Trường đã thống kê có tới 5 vụ hành hung nhà báo đã được các cơ quan báo chí đồng loạt lên tiếng nhưng vẫn chưa được xử lý dứt điểm gây bức xúc dư luận. Tác giả Anh Quân trong bài viết Bảo vệ nhà báo tác nghiệp đúng pháp luật đăng trên Báo Quân đội nhân dân số ra ngày 18/06/2017 đề xuất một số giải pháp bước đầu để giảm tối đa các vụ cản trở, hành hung nhà báo như: Cơ quan báo chí cần phối hợp với cơ quan chức năng, chính quyền địa phương có kế hoạch bảo vệ phóng viên khi tiến hành điều tra, thu thập tin tức… ở các địa bàn dễ xảy ra nguy hiểm. Bên cạnh đó, mỗi phóng viên phải không ngừng học hỏi, trang bị cho mình kiến thức pháp luật, nhất là nắm vững Luật Báo chí; thường xuyên trau dồi đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng nghiệp vụ, tránh để xảy ra sai sót, vi phạm trong quá trình tác nghiệp. Nhìn chung, cho đến nay, ở Việt Nam, chưa có một đề tài nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống và chuyên sâu về bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo. Các bài viết, bài nghiên cứu khá phong phú về mặt số lượng chủ yếu tập trung vào các trường hợp đơn lẻ khi xảy ra vụ việc, một số đã bước đầu đề xuất giải pháp nhưng còn khá chung chung không mang tính tổng thể. Những bài viết, tài liệu nêu trên có tính chất tham khảo để người viết nghiên cứu đề tài “Báo chí Hội Nhà báo Việt Nam với vấn đề bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo” nhằm phát huy những mặt tích cực, khắc phục những của các nghiên cứu trước nhằm đề xuất các giải pháp hiệu quả nâng cao kỹ năng tác nghiệp nghiệp, góp phần làm phong phú hơn nguồn tài liệu trong lĩnh vực này, đồng thời bổ sung thêm kiến thức về bảo việc vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo nói riêng, xây dựng quy trình tác nghiệp báo chí, quy tắc ứng xử của người làm báo, ngăn ngừa những hành vi xâm phạm thân thể, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của nhà báo, cản trở hoạt động báo chí đúng pháp luật; đồng thời nâng cao đạo đức nghề nghiệp, năng 11 lực và trách nhiệm của nhà báo, những người quản lí báo chí, các cấp hội và hội viên ở các cơ quan báo chí… 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận và thực tiễn báo chí học, luận văn sẽ khảo sát, nghiên cứu, đánh giá thực trạng về vấn đề bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo trên các tác phẩm, ấn phẩm báo chí của Hội Nhà báo Việt Nam, từ đó đề xuất, kiến nghị các giải pháp để nâng cao chất thông tin nói riêng và nâng cao vai trò, vị thế tờ báo Nhà báo và Công luận cũng như Tạp chí Người Làm Báo trong nói chung. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra là: - Nghiên cứu, phân tích và hệ thống hóa cơ sở lý luận, căn cứ pháp lý làm sáng tỏ các khái niệm liên quan tới quyền hành nghề và lợi ích hợp pháp của nhà báo trong tác nghiệp báo chí. - Đánh giá thực trạng việc tổ chức nội dung thông tin của chuyên trang, chuyên mục liên quan đến bảo vệ quyền hành nghề của nhà báo, đánh giá ưu điểm, hạn chế về nội dung và hình thức thông tin về báo vệ quyền hành nghề của nhà báo trên báo chí của Hội Nhà báo Việt Nam hiện nay; phân tích làm rõ hệ thống lý thuyết về thông điệp và phương thức truyền tải thông điệp trên báo Nhà báo và Công luận, Tạp chí Người Làm Báo. - Khảo sát sự quan tâm của độc giả để đánh giá chất lượng thông tin liên quan đến trách nhiệm xã hội của nhà báo, pháp luật và đạo đức báo chí. - Phỏng vấn các chuyên gia báo chí - cũng đồng thời là độc giả của tờ báo về thông tin trên chuyên trang, lãnh đạo của tờ báo, đồng nghiệp trong cơ quan… để thu thập ý kiến đánh giá và góp ý về nội dung và hình thức truyền tải thông tin về những chủ đề quyền hành nghề hợp pháp của nhà báo mà báo chí nói chung, báo chí của Hội nói riêng phản ánh. - Kết quả nghiên cứu cũng sẽ nêu lên các ưu điểm và hạn chế của các cơ 12
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan