Trường Đại học Quốc gia Hà Nội
Khoa Luật
Nguyễn Thị Nhuần
Lỗi cố ý trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn Thạc sĩ luật học
Hà Nội – 2011
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội
Khoa Luật
Nguyễn Thị Nhuần
Lỗi cố ý trong luật hình sự Việt Nam
Chuyên ngành
: Luật Hình sự
Mã số
: 60 38 40
Luận văn Thạc sĩ luật học
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Văn Hùng
Hà Nội - 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học
và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
NGUYỄN THỊ NHUẦN
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục sơ đồ
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI
7
1.1. Lỗi và cơ chế hình thành hành vi phạm tội
7
1.2. Tự do ý chí là cơ sở của lỗi trong luật hình sự
10
1.3. Khái niệm chung về lỗi theo Luật hình sự Việt Nam
14
1.4. Phân loại các hình thức lỗi và lỗi cố ý trong Luật hình sự Việt Nam
18
Kết luận chương 1
46
Chƣơng 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY PHẠM PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VỀ LỖI CỐ Ý TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ Ở
NƢỚC TA GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
49
2.1. Thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về lỗi cố ý
trong việc định tội danh
49
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về lỗi cố ý
trong việc định khung hình phạt
86
Kết luận chương 2
104
KẾT LUẬN
106
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o
109
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Về cơ chế hình thành hành vi
7
Sơ đồ 1.2: Về biểu hiện người gây thiệt hại có lỗi
15
Sơ đồ 1.3: Về lỗi cố ý trực tiếp
26
Sơ đồ 1.4: Về lỗi cố ý gián tiếp
35
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiờn đề tài
Lỗi là thái độ tâm lý của chủ thể đối với hành vi và hậu quả của hành vi
đó. Vì thế, nó là yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội phạm, phản ánh tính chất
mức độ nguy hiểm của hành vi và sự nguy hiểm của người phạm tội. Lỗi cho
phép người ta hiểu được rằng, tội phạm không chỉ là kết quả của một việc làm
sai trái mà còn là hệ quả của một thái độ, một sự nhận thức. Việc ghi nhận lỗi
như là một yếu tố thuộc về căn cứ của trách nhiệm hình sự, là một nguyên tắc
quan trọng của luật hình sự nước ta. Nguyên tắc đó là cơ sở của chính sách
hình sự của nhà nước. Việc thừa nhận lỗi với tính cách là cơ sở của mặt chủ
quan của trách nhiệm hình sự thể hiện sự tôn trọng một cách đầy đủ và sâu
sắc phẩm giá của con người. Luật hình sự của chúng ta coi con người là chủ
thể có ý thức và lý trí, có thể tự hiểu được và đánh giá được hành vi của mình,
làm chủ thiên nhiên và làm chủ bản thân mình. Do đó chúng ta nhìn nhận lỗi
như là một yếu tố không chỉ mang tính pháp lý mà còn có cả giá trị đạo
đức, văn minh, lỗi thể hiện cơ sở đạo lý của trách nhiệm hình sự. Con
người chỉ có thể chịu trách nhiệm về hành vi của mình, về những gì con
người đó hiểu được, những gì nằm trong tầm kiểm soát của sự nhận thức.
Không thể nói đến trách nhiệm nếu thiếu đi khả năng tự lựa chọn cách ứng xử
và hành động của con người.
"Lỗi trong luật hình sự là một chế định trung tâm và có thể
coi là vô cùng phức tạp. Vì đã từ lâu và cho đến tận bây giờ xung
quanh các vấn đề về chế định này vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau
trong khoa học luật hình sự cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự. Chính vì vậy, dưới góc độ nhận thức khoa học, việc
nghiên cứu chế định lỗi để từ đó áp dụng đúng pháp luật hình sự và
1
đưa ra những kiến giải lập pháp không chỉ có ý nghĩa lý luận - thực
tiễn mà còn có ý nghĩa xã hội- pháp lý quan trọng" [16, tr. 532].
Với bản chất là dấu hiệu của tội phạm, ở một mức độ nào đó cho phép
các cơ quan bảo vệ pháp luật và toà án phân biệt đâu là hành vi có tính chất
tội phạm, đâu là hành vi không có tính chất tội phạm và tương ứng như vậy sẽ
quyết định được người đó có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không.
Lỗi của chủ thể trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị
luật hình sự cấm phải được các cơ quan bảo vệ pháp luật và Toà án khẳng
định dứt khoát là có lỗi hay không có lỗi. Nếu có người đó đã phạm tội,
không thể có trường hợp thứ ba cái gọi là “nghi ngờ lỗi”. “Không có lỗi thì
không thể có trách nhiệm hình sự”. Đó cũng là một trong những yêu cầu đòi
hỏi dân chủ và khách quan, công bằng trong hệ thống pháp luật của nhà nước
pháp quyền.
Lỗi phản ánh những diễn biến tâm lý thể hiện tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi và của người thực hiện hành vi đó. Vì vậy, lỗi giúp cơ quan
bảo vệ pháp luật và Toà án có thể cá thể hoá trách nhiệm hình sự một cách
chính xác. Đồng thời các hình thức của lỗi còn là cơ sở để định tội danh với
những trường hợp mà việc phân hoá trách nhiệm hình sự tối đa được dựa trên
sự phân định các hình thức lỗi.
Việc coi lỗi là cơ sở về mặt chủ quan của trách nhiệm hình sự gắn liền
với xuất phát từ mục đích của luật hình sự, của trách nhiệm hình sự và hình
phạt, chúng ta đều biết rằng mục đích của luật hình sự và trách nhiệm hình sự
là giáo dục và cải tạo người phạm tội. Nếu trách nhiệm hình sự và hình phạt
được áp dụng cho một người không kiểm soát được hành vi của mình, không
nhận thức được về hành vi đó, thì trách nhiệm hình sự và hình phạt không có
ý nghĩa, thậm chí là vô nhân đạo, phi nhân tính. Luật hình sự của chúng ta
cũng như đạo lý của nhân dân ta không chấp nhận những việc làm như truy
2
cứu trách nhiệm hình sự người vô tội, những người còn nhỏ chưa hiểu được
hành vi của mình.
Xuất phát từ những lý do và ý nghĩa nêu trên, việc nghiên cứu một cách
sâu sắc và toàn diện về chế định lỗi, đặc biệt là hình thức lỗi cố ý trong luật
hình sự là cần thiết và quan trọng để góp phần nâng cao nhận thức - khoa học
về việc tiếp tục hoàn thiện nó trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành. Do
đó, tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “Lỗi cố ý trong Luật hình sự Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Là một chế định lớn có ý nghĩa, vị trí, vai trò quan trọng, nhưng các
quy phạm về lỗi trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985, kể cả Bộ luật hình
sự Việt nam năm 1999 vẫn còn một số nhược điểm chưa được khắc phục mà
lẽ ra cần và có thể khắc phục được.
Lỗi cố ý đã từ lâu được nhà nghiên cứu đề cập đến trong luật hình sự
Việt Nam, chế định lỗi cố ý luôn được chú ý đúng mức. Qua từng bước phát
triển của luật hình sự Việt Nam chế định đó từng bước được phát triển và
hoàn thiện. Trong nước, đáng chú ý nhất là các công trình của các nhà nghiên
cứu như: Lê Cảm, Trần Văn Độ, Kiều Đình Thụ, Nguyễn Ngọc Hoà, Đào Trí
úc…mà ở đó các khía cạnh khác nhau của lỗi cố ý đã được làm rõ, chẳng hạn
như: khái niệm, các hình thức và mức độ của lỗi nói chung và của lỗi cố ý nói
riêng…Đề tài lỗi cố ý trong Luật hình sự Việt Nam trước đây cũng đã được
nhắc đến rất nhiều. Tuy nhiên hiện tại nó vẫn là vấn đề mũi nhọn của Luật
hình sự…
Vấn đề lỗi cố ý gắn liền với đặc điểm của từng giai đoạn phát triển của
các quan hệ kinh tế - xã hội. Do đó, đây là vấn đề thường xuyên ở trong trạng
thái phát triển cho phù hợp với tình hình mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích tổng quát của luận văn là nghiên cứu một cách chuyên sâu và
có tính hệ thống về chế định lỗi trong Luật hình sự Việt Nam; phân biệt rõ các
3
hình thức lỗi và các dạng lỗi trong lý luận và thực tiễn áp dụng Luật hình sự ở
nước ta.
Để đạt được mục tiêu tổng quát như trên, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ cụ thể như sau:
Một là, làm sáng tỏ nội dung lý luận của chế định lỗi cố ý trong Luật
hình sự Việt Nam như: lỗi và cơ chế hỡnh thành hành vi phạm tội, cơ sở của
lỗi, khỏi niệm lỗi.
Hai là, đi sâu nghiên cứu và phân định rõ các hình thức lỗi, các dạng
lỗi trong thực tiễn xét xử, trên cơ sở đó chỉ ra những điểm bất cập trong việc
áp dụng chúng.
Ba là, phân tích và làm sáng tỏ sự thể hiện lỗi cố ý trong Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 1999.
Bốn là, làm sáng tỏ và sâu sắc hơn nữa vị trí, vai trò và ý nghĩa của chế
định lỗi cố ý trong việc định tội danh và định khung hình phạt trong việc áp
dụng Luật hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn này tập trung nghiên cứu chế định lỗi mà đặc biệt là lỗi cố ý
với tính chất là yếu tố quan trọng nhất trong mặt chủ quan của cấu thành tội
phạm; thực tiễn áp dụng chế định này trong việc định tội danh, định khung
hỡnh phạt đối với những chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999.
Tuy nhiên, do đây là một chế định khó và phức tạp, thêm vào đó thời
gian nghiên cứu có hạn cũng như năng lực nghiên cứu, kỹ năng phân tích và
giải quyết vấn đề của tác giả còn hạn chế, nên trong Luận văn này, tác giả chỉ
có thể làm sáng tỏ những khía cạnh mà theo quan điểm tác giả là quan trọng
và chủ yếu hơn cả.
Phạm vi nghiên cứu
4
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định lỗi
cố ý theo pháp luật hình sự Việt Nam dưới góc độ của luật hình sự, đồng thời
luận văn cũng đề cập một số quy phạm của luật tố tụng hình sự nhằm hỗ trợ
cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu.
5. Cơ sở lý luận và cỏc phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội
phạm cũng như đường lối xử lý tội phạm và đấu tranh phòng chống tội phạm.
Đồng thời, cơ sở lý luận của Luận văn cũng dựa trên thành tựu của các
chuyên ngành khoa học pháp lý và triết học, những luận điểm khoa học trong
các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí
của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn này dựa trên việc sử dụng phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương
pháp tổng hợp, phương pháp thống kê…trong sự nhìn nhận tổng thể và khách
quan, không phiến diện một chiều.
Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào các văn bản pháp luật
của Nhà nước và những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của thực
tiễn xét xử thuộc lĩnh vực pháp luật hình sự do Toà án nhân dân tối cao hoặc
(và) của các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Trung ương ban hành có liên quan
đến chế định lỗi; dựa vào báo cáo tổng kết hàng năm của ngành Toà án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân để phân tích, tổng hợp các tri thức
khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu
trong luận văn.
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
5
Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên trong khoa học luật
hình sự Việt Nam nghiên cứu một cách có hệ thống và đồng bộ những vấn đề
lý luận và thực tiễn về vấn đề lỗi cố ý ở cấp độ một luận văn. Trong luận văn
này, tác giả đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau:
1. Phân tích một cách tương đối có hệ thống và tương đối toàn diện
những vấn đề lý luận về chế định lỗi mà đặc biệt là lỗi cố ý như: cơ chế
hình thành hành vi phạm tội, cơ sở của lỗi, khái niệm lỗi, phân biệt các hình
thức lỗi.
2. Phân tích sự cần thiết phải xác định lỗi trong định tội danh và định
khung hình phạt.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu
tiên đề cập một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận và thực
tiễn về chế định lỗi cố ý theo pháp luật hình sự Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn
những điều kiện cụ thể của từng trường hợp áp dụng chế định lỗi cố ý trong
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, để giúp
việc áp dụng chúng trong thực tiễn ngày một hoàn thiện hơn.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần
thiết cho các nhà khoa học, luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học
viên cao học chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho công tác
lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu
tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người
phạm tội ở nước ta hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Xuất phát từ nội dung, yêu cầu của đề tài, ngoài phần mở đầu, kết luận
và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 2 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về lỗi
6
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về lỗi cố
ý trong Bộ luật hình sự ở nước ta giai đoạn hiện nay.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỖI
1.1. Lỗi và cơ chế hình thành hành vi phạm tội
Tội phạm trước hết là một hành vi. Chính vì thế, tội phạm bao giờ cũng
được thực hiện bởi chủ thể xác định. Không thể có hành vi xuất hiện bên
ngoài Thế giới khách quan mà không có chủ thể. Theo Từ điển, hành vi được
hiểu là toàn bộ những phản ứng, cách cư xử biểu hiện ra bên ngoài của một
con người trong một hoàn cảnh cụ thể.
Theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, hành vi của con
người suy cho cùng là do điều kiện xã hội khách quan quyết định. Tuy nhiên,
đó phải là quá trình diễn ra phức tạp, không đơn thuần chỉ là kết quả của sự lệ
thuộc tuyệt đối của con người vào hoàn cảnh khách quan đó. Trong quá trình
này, ý chí của con người, nhận thức của con người có vị trí độc lập, có ý
nghĩa không kém phần quan trọng, mặc dù bản thân ý chí và nhận thức cũng
lại do các điều kiện khách quan quyết định.
Quan điểm trên cho thấy rằng, sự tác động của môi trường bên ngoài để
dẫn đến hành vi đều phải gián tiếp thông qua ý thức và ý chí của con người.
Do đó, có thể hiểu rằng: một hành vi phạm tội được thực hiện - đó không thể
là sự phản ánh trực diện của con người đối với hoàn cảnh mà là kết quả của sự
tương tác giữa một bên là điều kiện và môi trường xã hội với một bên (khác)
là bản thân con người ấy.
Sơ đồ 1.1: Về cơ chế hình thành hành vi
Cá nhân
- Quan điểm xã hội
- Các đặc điểm tâm
sinh lý
Môi trường XH
- Môi trường chung
- Môi trường cụ thể
8
Quyết định
Hành vi
Một hành vi khách quan đơn thuần xảy ra ngoài sự nhận thức chủ quan
của cá nhân không thể là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự; những hậu
quả và tác hại hiện hữu về vật chất hay tinh thần do những hành vi như vậy
gây ra không thể là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chủ thể
của hành vi, bởi lẽ, chủ thể của hành vi không có ý thức gì về hành vi đó cũng
như hậu quả của hành vi.
Hành vi của con người bao giờ cũng là sự thống nhất giữa biểu hiện cụ
thể bên ngoài Thế giới khách quan và những nội dung tâm lý bên trong (ý chí)
của chủ thể thực hiện hành vi chi phối hành vi đó. Tội phạm được biểu hiện
bởi hành vi, do đó nó cũng là sự thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ
quan. Hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội luôn gắn liền với các
biểu hiện bên ngoài của tội phạm. Hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ được coi
là tội phạm, nếu hành vi đó được thực hiện trong một thái độ tâm lý nhất định
của con người đối với hành vi đó và hậu quả của hành vi đó gây ra hoặc đối
với khả năng phát sinh hậu quả từ hành vi đó.
Pháp luật từ xưa đến nay, bao giờ cũng quan tâm đến yếu tố chủ quan
của hành vi vi phạm. Hành vi vi phạm pháp luật dù thể hiện, gây ra thiệt hại
nhưng không có sự thống nhất với mặt chủ quan của người gây thiệt hại sẽ
không bị bắt gánh chịu trách nhiệm pháp lý.
Con người tồn tại trong Thế giới bị chi phối bởi những qui luật khách
quan và hoạt động của con người bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử xã
hội cụ thể. Tất cả những động cơ thúc đẩy con người hành động không phải
bộc phát một cách ngẫu nhiên trong ý thức của con người mà được hình thành
một cách có qui luật. Đó là kết quả giao tiếp của người đó với người khác, sự
phát triển tâm lý trước đây, sự phản ánh những sự vật, hiện tượng tác động
trực tiếp đến người ấy. Thông qua hoạt động tâm lý con người hoạt động có ý
thức, từ đó quyết định sự hình thành và phát triển xã hội [37, tr. 190].
9
Xử sự của con người có tính qui luật nhưng không phải mang tính tuyệt
đối. Khi sống trong cùng một xã hội, cùng một điều kiện nhưng có người vi
phạm các chuẩn mực xã hội, có người thực hiện tốt các trách nhiệm của một
thành viên trong xã hội, có người phạm tội, có người không phạm tội, có
người phạm tội một lần, có người phạm tội nhiều lần… Chủ nghĩa Mác Lênin công nhận tính qui luật của xử sự con người nhưng cũng công nhận sự
tự do ý chí của con người. Hoạt động của con người bị chi phối bởi các qui
luật khách quan nhưng nhờ hoạt động ý thức, con người đã nhận thức và vận
dụng các qui luật đó vào việc thực hiện các mục đích của mình. Đó chính là
sự tự do ý chí.
Tuy nhiên, tự do ý chí của con người không phải là sự suy nghĩ tuyệt
đối độc lập, mà nó bị chi phối bởi các qui luật tự nhiên, tự do ý chí là năng lực
quyết định của một người khi nhận thức được nó. Hêghen nói:
“Tự do là nhận thức được cái tất yếu, tất yếu sẽ mù quáng khi con
người chưa nhận thức được nó” [2, tr. 195].
Tất cả những gì tác động đến con người, thúc đẩy hành vi đều phải
thông qua bộ óc của con người. Hoạt động của con người không phải là kết
quả tác động trực tiếp của các điều kiện lịch sử mà chịu ảnh hưởng trực tiếp
của hoạt động tâm lý bên trong con người.
Con người có sự tự do của mình, nghĩa là có quyền lựa chọn một xử sự
phù hợp với các qui luật, đó là sự tự do thực sự. Ngược lại, con người sẽ bị
tước bỏ sự tự do của mình khi xử sự không phù hợp với qui luật.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì chỉ có sự tự do tương đối trong khuôn
khổ các điệu kiện lịch sử, xã hội cụ thể và phụ thuộc vào bản chất của chế độ
xã hội. Vì vậy, mỗi cá nhân trong xã hội dựa trên cơ sở sự tự do của mình
phải đáp ứng những đòi hỏi có tính qui luật của xã hội là pháp luật và đạo đức
xã hội. Đó là vấn đề trách nhiệm của cá nhân trong xã hội, phù hợp với sự tự
do của cá nhân nhằm bảo đảm tôn trọng sự tự do của cá nhân khác.
10
Tóm lại, con người có khả năng nhận thức và vận dụng tốt các qui luật
của xã hội để giành lấy tự do cá nhân. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng
là như vậy. Đôi lúc, họ vẫn nhận thức được các qui luật đó nhưng không phải
họ vận dụng nó để thực hiện hành vi một cách phù hợp với sự tự do của người
khác mà ngược lại, họ hành động sai với qui luật. Đó là ý chí của cá nhân
người muốn tự tước bỏ tự do của người khác và hậu quả cũng tự tước bỏ sự tự
do của mình. Pháp luật buộc họ phải chịu trách nhiệm về hành vi đó của họ là
phù hợp.
Tự do là cơ sở của trách nhiệm và trách nhiệm chỉ đặt ra cho một
người khi họ có tự do. Con người xử sự trái với lợi ích của Nhà nước, lợi
ích của xã hội trong khi có tự do thì có nghĩa họ có lỗi. Trách nhiệm chỉ đặt
ra khi họ có lỗi.
Tự do, trách nhiệm là cơ sở lý luận của lỗi. Đúng như Ph. Ăngghen đã viết:
“Người ta không thể bàn bạc đúng đắn về đạo đức và pháp quyền, mà
lại không nói đến cái gọi là tự do ý chí, đến trách nhiệm của con người, đến
quan hệ giữa tất yếu và tự do” [2, tr. 194].
1.2. Tự do ý chí là cơ sở của lỗi trong luật hình sự
Con người phải chịu trách nhiệm về hành vi gây thiệt hại cho xã hội
của mình, vì con người có khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành
vi và có khả năng điều khiển được hành vi theo những đòi hỏi của xã hội. Một
người chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi gây thiệt hại cho xã hội của mình
trong trường hợp người đó đã lựa chọn hành vi này khi có đủ điều kiện lựa
chọn hành vi khác không gây thiệt hại cho xã hội. Đó là những trường hợp có
lỗi. Trong trường hợp này tội phạm được coi là một xử sự mất tự do.
Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho
xã mà họ thực hiện và hậu quả đó do hành vi đó gây ra cho xã hội. Con người
chỉ có thể chịu trách nhiệm về hành vi của mình, về những gì con người đó
hiểu được, những gì nằm trong tầm kiểm soát của sự nhận thức. Nó không thể
11
phải chịu trách nhiệm về những gì tuy có liên quan đến việc làm của mình và
thậm chí những gì đã dẫn đến hành vi đó, nhưng lại nằm ngoài nhận thức và ý
thức của chủ thể. Từ đó cho thấy, không thể nói đến trách nhiệm nếu thiếu đi
khả năng lựa chọn cách ứng xử và hành động của con người.
Việc coi lỗi là cơ sở về mặt chủ quan của trách nhiệm hình sự gắn liền
với xuất phát từ mục đích của luật hình sự, của trách nhiệm hình sự và hình
phạt. Chúng ta đều biết rằng, mục đích của Luật Hình sự và của trách nhiệm
hình sự là giáo dục và cải tạo người phạm tội. Nếu trách nhiệm hình sự và
hình phạt được đem áp dụng cho một người không kiểm soát được hành vi
của mình, không nhận thức được về hành vi đó thì trách nhiệm hình sự và
hình phạt sẽ không có ý nghĩa, thậm chí là vô nhân đạo, phi nhân tính. Luật
hình sự của chúng ta cũng như đạo lý của nhân dân ta không chấp nhận những
việc làm như truy cứu trách nhiệm người vô tội, những người còn nhỏ chưa
hiểu được hành vi của mình.
Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc có lỗi là nguyên tắc cơ bản.
Người phải chịu trách nhiệm hình sự theo Luật hình sự Việt nam không phải
chỉ đơn thuần vì người này đã có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội
mà còn vì đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi khách quan đó. Theo nguyên
tắc này, luật hình sự Việt nam không chấp nhận việc “qui tội khách quan”,
nghĩa là truy cứu trách nhiệm hình sự con người chỉ trên cơ sở hành vi khách
quan mà không xét đến lỗi của họ.
Việc thừa nhận nguyên tắc có lỗi trong luật hình sự chính là sự thừa
nhận và tôn trọng tự do thực sự của con người. Đó là cơ sở đảm bảo cho
trách nhiệm hình sự có khả năng khách quan thực hiện được mục đích:
“… không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục họ trở
thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các qui tắc
của cuộc sống xã hội chủ nghĩa chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới…”
(Điều 27 Bộ luật hình sự).
12
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu
hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện
khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi
hỏi của xã hội.
Chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định: xử sự của con người có tính qui
định trước nhưng đối với chính xử sự của mình con người vẫn có tự do, vì
con người qua hoạt động có ý thức của mình có năng lực lựa chọn, quyết định
và thực hiện xử sự phù hợp với qui luật tự nhiên và xã hội đã nhận thức được.
Xử sự của con người có tính qui định trước, có nghĩa được hình thành
một cách có qui luật, xuất hiện không phải một cách ngẫu nhiên, tách rời
những điều kiện kinh tế - xã hội. Điều kiện kinh tế - xã hội qui định những
khả năng xử sự của con người. Những khả năng đó có tính tất nhiên. Nhưng
khả năng khách quan nào được thực hiện qua cá nhân cụ thể còn phụ thuộc
vào chủ quan của chính cá nhân đó, vì “tất cả cái gì thúc đẩy con người hành
động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc họ”…[1, tr.78].
“Con người khi hành động không phải chỉ nhắm mắt thụ động, để cho
hoàn cảnh khách quan lôi kéo…mà còn có tự do tương đối”…[20, tr. 339].
Xử sự của con người tuy chịu sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội
nhưng không phải là kết quả trực tiếp của riêng điều kiện kinh tế - xã hội, vì
“mọi sự tác động của hiện tượng lên một hiện tượng khác đều bị khúc xạ bởi
các thuộc tính bên trong của hiện tượng bị tác động” [24, tr. 270]. Tất cả xử
sự của con người đều là kết quả của sự tác động qua lại giữa điều kiện khách
quan bên ngoài của cuộc sống xã hội và điều kiện chủ quan bên trong của chủ
thể. Điều kiện kinh tế - xã hội qui định xử sự của con người nhưng phải thông
qua lăng kính chủ quan của mỗi chủ thể. Xử sự của con người không được qui
định một cách trực tiếp bởi điều kiện bên ngoài mà là kết quả trực tiếp của sự
lựa chọn, quyết định và thực hiện xử sự trong số những xử sự khách quan đã
nhận thức được. Con người có tự do đối với xử sự của mình có nghĩa họ có tự
13
do lựa chọn, có tự do quyết định và tự do thực hiện xử sự. Nhưng việc lựa
chọn, việc quyết định và việc thực hiện xử sự chỉ có thể là tự do thực sự khi
xử sự đã lựa chọn, đã quyết định, đã thực hiện phù hợp với qui luật. Trái lại,
nếu con người lựa chọn, quyết định và thực hiện xử sự không phù hợp qui
luật thì có nghĩa họ đã tự tước bỏ khả năng tự do của mình.
Trong xã hội vẫn còn những xử sự biểu hiện của sự mù quáng xã hội.
Đó là những hành vi phạm tội, những hành vi vi phạm và những hành vi trái
đạo đức. Đối với những người đã có hành vi như vậy xã hội và nhà nước có
quyền phản ứng, có quyền lên án và có quyền buộc họ phải gánh chịu trách
nhiệm. Đó là hậu quả của việc không thực hiện đầy đủ những nghĩa vụ trên cơ
sở quyền hạn đã có, trên cơ sở của tự do. Con người phải gánh chịu trách
nhiệm về những hành vi mù quáng xã hội của mình, vì con người có năng lực
lựa chọn, năng lực đánh giá xử sự của mình và vì con người trong xã hội có
đủ điều kiện để thoả mãn những đòi hỏi của xã hội, hay nói một cách khác vì
họ có tự do. Tự do là cơ sở của trách nhiệm và trách nhiệm chỉ đặt ra cho một
người khi họ có tự do. Con người xử sự trái với lợi ích của nhà nước, lợi ích
của xã hội trong khi có tự do thì có nghĩa họ là người có lỗi. Trách nhiệm chỉ
đặt ra khi có lỗi.
Như vậy, lỗi trong luật hình sự, trước hết được hiểu là quan hệ giữa cá
nhân người phạm tội với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan
những đòi hỏi của xã hội đã được thể hiện qua các đòi hỏi cụ thể của Luật
hình sự. Sự phủ định chủ quan này tồn tại trên cơ sở và trong sự thống nhất
với sự phủ định khách quan là sự gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là
khách thể được luật hình sự bảo vệ. Cũng như quan hệ giữa khách quan và
chủ quan, sự phủ định khách quan có thể tồn tại độc lập không cần có sự phủ
dịnh chủa quan nhưng sự phủ định chủ quan chỉ tồn tại khi có sự phủ định
khách quan.
14
Điều đó có nghĩa là: lỗi bao giờ cũng phải đi liền với hành vi nguy
hiểm cho xã hội và không thể nói đến lỗi khi không có hành vi cụ thể nguy
hiểm cho xã hội. Lỗi trong Luật hình sự Việt Nam là lỗi cá nhân, lỗi của con
người cụ thể khi thực hiện hành vi cụ thể nguy hiểm cho xã hội.
Sự phủ định chủ quan thể hiện ở sự tự lựa chọn, quyết định và thực
hiện xử sự khách quan gây thiệt hại cho xã hội và trái pháp luật hình sự.
Trong trường hợp có lỗi, chủ thể có nhiều khả năng xử sự - khả năng
xử sự gây thiệt hại cho xã hội và khả năng xử sự phù hợp với lợi ích của xã
hội. Những khả năng này chủ thể đều có thể lựa chọn quyết định và thực hiện
xử sự gây thiệt hại cho xã hội. Như vậy, lỗi chỉ đặt ra cho những trường hợp
trong đó có khả năng xử sự phù hợp với xã hội và chủ thể đã không lựa chọn
khả năng này.
1.3. Khái niệm chung về lỗi theo Luật hình sự Việt Nam
(Điều 9+10 = thái độ đối với hành vi và hậu quả).
Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của một người đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra.
Trong Luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc lỗi là nguyên tắc cơ bản. Một
người phải chịu trách nhiệm hình sự không chỉ đơn thuần vì họ có hành vi
khách quan đã gây ra thiệt hại cho xã hội, mà còn vì đã có lỗi trong việc thực
hiệm hành vi khách quan đó. Một người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội sẽ
bị coi là có lỗi nếu hành vì đó là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của
chủ thể trong khi chủ thể có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn
hoặc quyết định một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
15
- Xem thêm -