Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Liên hợp quốc và vấn đề bảo vệ chủ quyền của việt nam trên biển đông...

Tài liệu Liên hợp quốc và vấn đề bảo vệ chủ quyền của việt nam trên biển đông

.PDF
127
31
79

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ===== VÕ THỊ KIM TUYẾN LIÊN HỢP QUỐC VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG Chuyên ngành: Luật quốc tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN BÁ DIẾN HÀ NỘI - 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN VÕ THỊ KIM TUYẾN MỤC LỤC Trang phu ̣ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mu ̣c từ viế t tắ t MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LIÊN HỢP QUỐC ..............................6 1.1 GIỚI THIỆU VỀ LIÊN HỢP QUỐC ..............................................................6 1.1.1 Lịch sử hình thành Liên hợp quốc ...................................................................6 1.1.2 Hiến chương của Liên hợp quốc ......................................................................7 1.1.3 Mục đích và nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc ...................................8 1.2 CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA LIÊN HỢP QUỐC .............................................11 1.2.1 Đại Hội Đồng Liên hợp quốc .........................................................................11 1.2.2 Hội Đồng Bảo An Liên hợp quốc ..................................................................17 1.2.3 Tòa án Công lý Quốc Tế ................................................................................22 1.2.4 Ban Thư ký .....................................................................................................26 1.3 VAI TRÒ CỦA LIÊN HỢP QUỐC TRONG THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT HÒA BÌNH CÁC TRANH CHẤP QUỐC TẾ ...............................28 1.3.1 Tranh chấp giữa Anh và Anbani năm 1947 ....................................................29 1.3.2 Tranh chấp giữa Anh và Argentina về chủ quyền đối với quần đảo Malvinas/Falkland . ........................................................................................30 1.3.3 Tranh chấp giữa Anh, Pháp, Itxaren và Ai Cập tại kênh đào Suez năm 1956 .......32 1.4 CẢI TỔ LIÊN HỢP QUỐC PHÙ HỢP VỚI TÌNH HÌNH HIỆN NAY............33 1.4.1 Sửa đổi Hiến chương Liên hợp quốc .............................................................33 1.4.2 Cải tổ Hội đồng bảo an Liên hợp quốc ..........................................................35 1.4.3 Vấn đề thay đổi quyền phủ quyết...................................................................36 Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................39 CHƢƠNG II: CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG ...............40 2.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BIỂN ĐÔNG .....................................................40 2.1.1 Vị trí và tầm quan trọng của Biển Đông ........................................................40 2.1.2 Các tranh chấp trên Biển Đông giữa Việt Nam với các nước trong khu vực ....46 2.2 CƠ SỞ ĐỂ KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG ..................................................................................................49 2.2.1 Biên giới và chủ quyền của Quốc gia trên biển. ............................................49 2.2.2 Cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông ..............57 2.2.3 Chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa .....63 2.3 THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG CỦA VIỆT NAM ..........................................................................................70 2.3.1 Quan điểm của Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông .....70 2.3.2 Giải quyết tranh chấp giữa Việt Nam với các nước trong khu vực tại các vùng biển chồng lấn trên Biển Đông .......................................................74 2.3.3 Giải quyết tranh chấp chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ......78 2.3.4 Những khó khăn và thách thức đối với Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông .............................................................................80 Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................87 CHƢƠNG III: BẢO VỆ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG THÔNG QUA VAI TRÒ CỦA LIÊN HỢP QUỐC .....................88 3.1 VAI TRÒ CỦA CÁC CƠ CHẾ LIÊN HỢP QUỐC TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG ....................................88 3.1.1 Vai trò của Đại hội đồng Liên hợp quốc trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. .....................................................................................89 3.1.2 Vai trò của Hội Đồng Bảo An trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. .....................................................................................................93 3.1.3 Vai trò của Tòa án công lý quốc tế trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. .....................................................................................................96 3.1.4 Vai trò của Tổng thư ký LHQ trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. ..100 3.2 KIẾN NGHỊ LIÊN HỢP QUỐC TRONG VIỆC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TRÊN BIỂN ĐÔNG .......................................103 3.2.1 Đưa vấn đề tranh chấp trên Biển Đông ra thảo luận tại ĐHĐ và đạt được một yêu cầu tư vấn của Tòa án công lý quốc tế ..................................103 3.2.2 Kiến nghị với Tổng thư ký LHQ về tình hình căng thẳng và bất ổn trên Biển Đông hiện nay. .....................................................................................105 3.2.3 Kiến nghị với LHQ thành lập một ủy ban về tranh chấp Biển Đông. .........105 Kết luận chƣơng 3 .................................................................................................107 KẾT LUẬN ............................................................................................................108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................110 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ĐHĐ Đại hội đồng HĐBA Hội đồng bảo an LHQ Liên Hợp quốc TACLQT Tòa án công lý quốc tế UNCLOS Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của Đề tài Biển Đông được đánh giá là vùng biển trọng yếu nhất trên thế giới vì nó nằm ở vị trí chiến lược quan trọng nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Chính vì nằm ở vị trí chiến lược và nguồn tài nguyên thiên nhiên khổng lồ tại Biển Đông nên khiến cho vùng biển này luôn rơi vào tình trạng căng thẳng. Không những các Quốc Gia trong khu vực mà còn cả các cường quốc lớn như Mỹ, Nhật Bản…cũng có lợi ích thiết thực liên quan đến khu vực Biển Đông. Do vậy tranh chấp ở khu vực Biển Đông không chỉ là tranh chấp giữa các Quốc Gia trong khu vực Biển Đông mà còn ảnh hưởng đến hòa bình và an ninh trên thế giới. Hiện nay, Các vấn đề liên quan Biển Đông rất phức tạp, hệ trọng và nhạy cảm đối với nhiều quốc gia liên quan. Các nước ven Biển Đông đang đẩy mạnh các hoạt động thực hiện chủ quyền biển, đảo của mình. Do vậy có thể hiểu vì sao các tranh chấp trên Biển Đông ngày càng căng thẳng và leo thang, nhất là khi Trung Quốc ngày càng bộc lộ rõ tham vọng độc chiếm Biển Đông của mình thông qua yêu sách hết sức phi lý là “đường lưỡi bò” hay còn gọi là “đường chín đoạn”. Yêu sách này đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền của 5 nước ASEAN đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình. Chính vì vậy, mà Việt Nam, Malaysia, Indonesia và Philippines lần lượt gửi công hàm đến Tổng thư ký Liên hợp quốc bác bỏ yêu sách này. Việc Trung Quốc đưa yêu sách phi lý nói trên ra Liên hợp quốc và tiến hành các việc làm gần đây ở trên thực địa nhằm theo đuổi yêu sách này đang làm cho tình hình Biển Đông trở nên phức tạp hơn, gây lo ngại thực sự cho cộng đồng Thế Giới và buộc dư luận phải lên tiếng. Không chỉ các Quốc Gia liên quan tranh chấp ở Biển Đông mà dư luận của nhiều Quốc Gia khác cũng đã bày tỏ ý kiến bất bình trước yêu sách này. Do đó, Liên hợp quốc với vai trò là một tổ chức quốc tế phổ cập liên chính phủ lớn nhất hiện nay, là sân chơi chung cho các Quốc gia yêu chuộng hòa bình và vì sự phát triển chung của nhân loại. Liên hợp quốc có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới nói chung và khu vực Biển Đông nói 1 riêng. Vậy Liên hợp quốc đã làm được gì với vai trò của mình đối với tranh chấp trên Biển Đông hiện nay ? Việt Nam cần phải làm gì để bảo vệ chủ quyền của mình trên Biển Đông thông qua các cơ chế của Liên hợp quốc ? Với mong muốn tìm ra một giải pháp hiệu quả cho vấn đề Biển Đông hiện nay nên học viên đã lựa chọn đề tài “Liên hợp quốc và vấn đề bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông” cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hiện nay ở Việt Nam có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về “Liên Hợp Quốc” cũng như về “vấn đề Biển Đông” được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành và các phương tiện thông tin khác, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau đây: - Tạp chí Luật học - Tập san về 60 năm Liên Hợp Quốc của Trường Đại Học Luật Hà Nội năm 2005; trong đó có một số bài chuyên đề nói về vai trò của các cơ quan chính của Liên Hợp Quốc trong giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế như: “Vai trò của Tòa án quốc tế trong giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế” của tác giả Vũ Thị Mai Liên; “ Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc và vấn đề duy trì hòa bình và an ninh quốc tế ” của ThS. Nguyễn Thị Kim Ngân. - “Phương hướng cải tổ Liên Hợp Quốc: Trường hợp Hội đồng bảo an LHQ”, đề tài cấp viện của Viện Kinh tế và Chính trị thế giới năm 2005, do tác giả Bùi Trường Giang thực hiện. - “Vấn đề cải tổ Liên Hợp Quốc trong bối cảnh quốc tế mới hiện nay” của tác giả Đinh Quý Tộ. Nxb Khoa học xã hội năm 2007. - “Hội đồng bảo an LHQ trong duy trì hòa bình và an ninh quốc tế”, luận văn thạc sĩ ngành luật quốc tế của tác giả Nguyễn Thị Hoài Hương năm 2008. - “ Đi tìm một giải pháp cho cuộc tranh chấp trên Biển Đông” của tác giả Hoàng Việt đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 2 năm 1009. - “Tranh chấp Biển Đông và vai trò của Liên Hợp Quốc” của các tác giả: Dương Danh Huy, Phạm Thu Xuân, Nguyễn Thái Linh, Lê Vĩnh Trương, Lê Minh Phiếu – Quỹ nghiên cứu Biển Đông trên web: nghiencuubiendong.vn năm 2009. 2 - Tạp chí luật học – đặc san về luật Biển của trường ĐH Luật HN năm 2012; trong đó có một số bài viết chuyên đề nói về tranh chấp trên Biển Đông giữa Việt Nam và các quốc gia láng giềng như: “Phân định biển giữa Việt Nam với quốc gia láng giềng” của hai tác giả Mạc Thị Hoài Thương và Hà Thanh Hòa; “Xác định các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam” của ThS. Lê Thị Anh Đào năm 2012. - “ Chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông – nhìn từ góc độ pháp lý, thực tiễn và lời giải cho bài toán giải quyết tranh chấp trên Biển Đông ”, luận văn thạc sĩ luật quốc tế của tác giả Trần Thị Họa My năm 2012. Đặc biệt, trong các cuộc hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần 1 được tổ chức tại Hà Nội ngày 26 và 27/11/2009, và lần 2 tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 11và 12/11/2010, các học giả trong và ngoài nước đã đóng góp những tham luận về hòa bình giải quyết tranh chấp trên Biển Đông hiện nay. Có thể kể ra như: Liệu có thể giải quyết được các tranh chấp chủ quyền và phân định trên biển đối với các đảo ở Biển Đông (GS Stein Tennesson – Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Na Uy), Giải quyết các tranh chấp biển quốc tế thông qua các biện pháp tài phán (Matthias Fueracker – Chuyên viên pháp luật của Tòa án quốc tế về Luật Biển), Quyền tài phán biển và hợp tác Biển Đông (GS Ji Guo Xing – Trường các vấn đề công và vấn đề quốc tế, Đại học Giao Thông Thượng Hải, Trung Quốc)… Nhưng có thể thấy chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và tổng quát nhất về vai trò của Liên hợp quốc đối với vấn đề bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Do đó đề tài:“ Liên Hiệp Quốc và vấn đề bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông” là một vấn đề hoàn toàn mới. Hi vọng luận văn sẽ có những đóng góp nhất định về mặt khoa học cũng như thực tiễn giải quyết tranh chấp trên Biển Đông hiện nay. 3. Mục đích nghiên cứu Trước vấn đề chung hết sức cấp thiết của toàn dân tộc - bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia, là công dân Việt Nam và là một thạc sĩ luật học tương lai, tác 3 giả nhận thấy phần nào trách nhiệm của mình trong việc nghiên cứu, tổng hợp, phân tích những luận chứng pháp lý, thực tiễn nhằm chứng minh và khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông nói chung, trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nói riêng. Từ việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, tác giả mong muốn tìm ra được giải pháp hiệu quả trong công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên biển thông qua việc nghiên cứu các cơ chế giải quyết tranh chấp của Liên Hợp Quốc. Chính vì vậy, với đề tài luận văn này, tác giả hi vọng mình có thể đóng góp một phần tiếng nói cũng như trí tuệ, giúp đặt thêm những viên gạch nhỏ xây nền tảng pháp lý vững chắc nhằm bảo vệ toàn vẹn chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. 4. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu: Do các tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề rất rộng và phức tạp mà thời gian và khuôn khổ luận văn có giới hạn, nên Luận văn không thể đi sâu phân tích tất cả các tranh chấp trên Biển Đông hiện nay mà chủ yếu tập trung đề cập tới tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc, luận văn cũng không nghiên cứu về tổng thể các giải pháp giải quyết tranh chấp trên Biển Đông mà chỉ cung cấp một cái nhìn tổng quát nhất về vai trò của bốn cơ quan chính của Liên hợp quốc ( gồm Đại hội đồng; Hội đồng bảo an; Tòa án công lý quốc tế và Ban thư ký) trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế nói chung và tranh chấp trên Biển Đông nói riêng. Qua đó kiến nghị những giải pháp hiệu quả cho vấn đề bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng các nguyên tắc, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, của tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học khác. Quá trình nghiên cứu được bắt đầu bằng phương pháp thu thập thông tin qua sách báo, tài liệu trong và ngoài nước nhằm tổng hợp, đánh giá và từ đó rút ra những nhận định làm cơ sở lý luận có ý nghĩa về mặt khoa học cũng như thực tiễn. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả có sử dụng các bằng chứng, lập luận của các nhà sử học, nhà nghiên cứu có kiến thức chuyên sâu về lịch sử Biển Đông, về 4 sự hình thành và xác lập chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, sử dụng kiến thức và khai thác ý kiến đánh giá của các chuyên gia có trình độ cao về luật biển để từ đó đưa ra những nhận định mang tính cá nhân. Để làm rõ vấn đề nêu trên, luận văn đã dùng các biện pháp quy nạp, phân tích và diễn giải đồng thời dựa vào các cơ sở pháp lý và thực tiễn giải quyết tranh chấp của Việt Nam trên Biển Đông cũng như thực tiễn giải quyết các tranh chấp quốc tế của các cơ chế của LHQ để qua đó rút ra những kiến nghị cần thiết cho Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền của mình trên Biển Đông. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Với những kết quả nghiên cứu đạt được, luận văn góp phần đưa ra giải pháp pháp lý hiệu quả cho cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông hiện nay. Mặc dù các kết luận đưa ra theo quan điểm cá nhân nhưng có tham khảo ý kiến, bài viết của các chuyên gia về luật biển nên luận văn có thể được sử dụng như tài liệu tham khảo cho các độc giả quan tâm và muốn tìm hiểu, nghiên cứu giải pháp cho vấn đề Biển Đông dưới góc độ lý luận và khoa học. 7. Nội dung nghiên cứu Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Nội Dung của luận văn được kết cấu gồm ba chương: Chương I: Khái quát chung về Liên hợp quốc Chương II: Chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông Chương III: Bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông thông qua vai trò của Liên hợp quốc. 5 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LIÊN HỢP QUỐC 1.1 GIỚI THIỆU VỀ LIÊN HỢP QUỐC 1.1.1 Lịch sử hình thành Liên hợp quốc LHQ chính thức ra đời vào ngày 24/10/1945 khi Hiến chương LHQ được Trung Quốc, Pháp, Liên Xô, Vương quốc Anh, Hợp chủng quốc Hoa kỳ và đa số các quốc gia ký trước đó phê chuẩn. Tên gọi "LHQ" đã được Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt sáng lập ra và được sử dụng lần đầu tiên trong "Tuyên ngôn của LHQ" vào ngày 1/1/1942, trong đó 26 quốc gia đã khẳng định cam kết tiếp tục cuộc đấu tranh chống lại các nước thuộc phe phát xít [55]. Việc LHQ ra đời là một sự kiện quan trọng và là sự kết hợp của nhiều yếu tố khác nhau, như: vai trò kém hiệu quả của Hội Quốc Liên trong việc giữ gìn hoà bình, an ninh quốc tế, sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai cùng những hậu quả thảm khốc đối với loài người và nỗ lực lớn lao của các nước trong việc thiết lập một thể chế toàn cầu có vai trò hiệu quả hơn đối với hòa bình và an ninh quốc tế. Trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người, hòa bình và an ninh quốc tế luôn là nguyện vọng tha thiết, là nền tảng để phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia. Sự thất bại của Hội Quốc Liên (tiền thân của LHQ) đã đặt ra yêu cầu phải thiết lập một thể chế đa phương hữu hiệu có tính toàn cầu, nhằm duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Trong một thời gian dài, hệ thống an ninh tập thể của Hội Quốc Liên tỏ ra không hiệu quả vì không được sự quan tâm ủng hộ của các cường quốc. Những nỗi kinh hoàng của Chiến tranh thế giới thứ nhất chưa đủ sức thuyết phục các quốc gia hiểu rằng quyền lợi hoà bình của họ đòi hỏi cần có một trật tự quốc tế với các quyền lợi quốc gia truyền thống làm ưu tiên hàng đầu. Hội Quốc Liên trở thành một thể chế cứng nhắc, không thể hiện được chức năng dàn xếp hoặc thiết lập các liên minh năng động, nhằm ngăn chặn các hoạt động bành trướng quyền lực của một số cường quốc. 6 Với ý định chuẩn bị cho thời kỳ hậu chiến, nhằm loại trừ khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba và bảo đảm một thế cân bằng mới trong quan hệ quốc tế sau chiến tranh, ba cường quốc chính của phe Đồng minh - Anh, Mỹ và Liên Xô - đã tiến hành hai hội nghị thượng đỉnh quan trọng tại Tê-hê-ran (tháng 11/1943) và I-an-ta (tháng 2/1945). Nội dung trao đổi chính giữa Trớc-trin, Xta-lin và Ru-dơ-ven bao gồm số phận châu Âu và tương lai của LHQ. Việc Liên Xô tán thành thiết lập Tổ chức LHQ tại Hội nghị I-an-ta mở ra khả năng hợp tác giữa các nước đồng minh trong việc xây dựng một trật tự thế giới mới sau chiến tranh. Tại Ian-ta, ba cường quốc trên đã thống nhất với nhau về một số điểm then chốt trong việc thiết lập tổ chức LHQ: chấp nhận ghế thành viên riêng rẽ của U-cờ-rai-na và Bạch Nga (nay là Bê-la-rút), dành quyền phủ quyết cho các thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an, LHQ có quyền giám sát việc tạo dựng trật tự châu Âu. Đến Hội nghị Pốt-xđam từ 17/7 đến 2/8/1945, ba cường quốc (thực chất chủ yếu là Mỹ và Liên Xô, vì Anh đã bị suy yếu) thoả thuận thành lập cơ chế để giải quyết các vấn đề sau chiến tranh, như vấn đề bồi thường chiến tranh của Đức và xác định lại biên giới các quốc gia. Hội đồng Ngoại trưởng 5 nước gồm Nga, Mỹ, Anh, Pháp và Trung Quốc được thành lập. Trên cơ sở thoả thuận tại Hội nghị I-an-ta, đại biểu của 50 quốc gia đã tham dự Hội nghị Xan Phran-xít-xcô tháng 4/1945 và dự thảo Hiến chương LHQ. Trên cơ sở Hiến chương, Tổ chức LHQ đã chính thức được thành lập với sự tham gia của 51 quốc gia sáng lập [55].Sự ra đời của LHQ đã chấm dứt hoàn toàn cơ chế cân bằng quyền lực giữa các cường quốc châu Âu dựa trên cơ sở của Hội nghị Viên năm 1815. Cân bằng quyền lực trên cơ sở LHQ là thế cân bằng linh hoạt dựa trên tương tác trong từng vấn đề giữa ba cạnh: hoà hợp quyền lực giữa 5 thành viên thường trực Hội đồng Bảo an (còn gọi là P5), tập hợp các nước phương Tây/phát triển, tập hợp các nước Á–Phi–Mỹ La-tinh/đang phát triển, trong đó tiếng nói của các nước P5 có trọng lượng đặc biệt. 1.1.2 Hiến chƣơng của Liên hợp quốc Trong quá trình chuẩn bị thành lập LHQ, Liên Xô đã kiên quyết yêu cầu đưa vào dự án Hiến chương những nguyên tắc tiến bộ về quan hệ giữa các nước. Đó là 7 nguyên tắc bình đẳng, bình quyền giữa các nước, nguyên tắc dân tộc tự quyết, nguyên tắc nhất trí giữa 5 nước lớn… Xét tại thời điểm lịch sử lúc đó, sự ra đời của bản Hiến chương LHQ là thắng lợi to lớn của tất cả các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Từ đó đến nay bản Hiến chương LHQ trở thành cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho tất cả các hoạt động của các cơ quan thuộc LHQ, mọi hành động và việc làm của các cơ quan này phải phù hợp với quy định của Hiến chương. Hiến chương LHQ gồm có lời nói đầu và 110 điều, chia làm 19 chương. Kèm theo Hiến chương còn có Quy chế của Tòa án quốc tế gồm 70 điều nữa. Những quy định của Hiến chương rất phức tạp, nhưng có thể tóm tắt những điểm chính như sau:  Trong lời nói đầu và chương thứ nhất, Hiến chương quy định những mục đích và nguyên tắc của LHQ. Đây là những điều quan trọng nhất của Hiến chương – cơ sở cho mọi hoạt động của LHQ.  Hiến chương quy định ra những thủ tục và biện pháp để ngăn ngừa chiến tranh và trừng phạt những nước xâm lược.  Hiến chương có đề ra cho các nước đế quốc những nhiệm vụ đối với các nước thuộc địa và định ra một chế độ quản lý thuộc địa gọi là chế độ quản thác.  Hiến chương cũng quy định những tiêu chuẩn để kết nạp những nước thành viên mới và thủ tục kết nạp.  Hiến chương còn quy định tỉ mỉ bộ máy của LHQ và quyền hạn, nhiệm vụ của mỗi cơ quan LHQ. Ngoài ra, Hiến chương còn quy định một số điều khoản về sự hợp tác quốc tế về phương diện kinh tế, xã hội, những hiệp định khu vực, về những thủ tục sửa đổi Hiến chương… 1.1.3 Mục đích và nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc LHQ hoạt động theo các mục đích và nguyên tắc quy định trong Hiến chương LHQ. Điều 1 của Hiến chương nêu rõ bốn (04) mục tiêu cơ bản của LHQ là: (1) Duy trì hoà bình và an ninh quốc tế; (2) Thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng về quyền lợi giữa các dân tộc và nguyên tắc dân tộc tự quyết; 8 (3) Thực hiện hợp tác quốc tế thông qua giải quyết các vấn đề quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo trên cơ sở tôn trọng các quyền con người và quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ và tôn giáo; (4) Xây dựng LHQ làm trung tâm điều hoà các nỗ lực quốc tế vì các mục tiêu chung. Từ khi thành lập đến nay, mục tiêu quan trọng nhất mà LHQ theo đuổi vẫn là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Điều này được thể hiện rõ ngay trong Lời nói đầu của Hiến Chương: “Chúng tôi, nhân dân các nước liên hợp lại, quyết tâm phòng ngừa cho những thế hệ tương lai khỏi thảm họa chiến tranh đã hai lần trong một cuộc đời người gây cho nhân loại đau thương không kể xiết… Bày tỏ lòng mong muốn cùng chung sống trong hòa bình trên tinh thần láng giềng thân thiện, cùng chung nhau góp sức để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế…” [23]. Và 6 nguyên tắc hoạt động chủ yếu của LHQ là: (1) Bình đẳng về chủ quyền quốc gia; (2) Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị quốc gia; (3) Cấm đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; (4) Không can thiệp vào công việc nội bộ các nước; (5) Tôn trọng các nghĩa vụ quốc tế và luật pháp quốc tế; và (6) Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hoà bình. Các mục tiêu và nguyên tắc hoạt động trên của LHQ mang tính bao quát, phản ánh mối quan tâm toàn diện của các quốc gia. Các quan tâm ưu tiên này thay đổi tuỳ theo sự chuyển biến cán cân lực lượng chính trị bên trong tổ chức này. Thời gian đầu khi mới ra đời, cùng với sự tăng vọt về số lượng thành viên, LHQ tập trung vào các vấn đề phi thực dân hoá, quyền tự quyết dân tộc và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Apácthai. Trong thời kỳ gần đây LHQ ngày càng quan tâm nhiều hơn tới các vấn đề kinh tế và phát triển. Hoạt động của LHQ trong gần 70 năm qua cho 9 thấy trọng tâm chính của LHQ là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế và giúp đỡ sự nghiệp phát triển của các quốc gia thành viên. Đặc điểm bao trùm của LHQ là tổ chức này không phải là một nhà nước siêu quốc gia. LHQ là tổ chức đa phương toàn cầu đầu tiên có những hoạt động thực chất và đã có nhiều cố gắng trong việc phối hợp và điều tiết các mối quan hệ giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền bình đẳng của các quốc gia. Theo Điều 2 mục 7 của Hiến Chương, LHQ không được can thiệp vào các vấn đề thuộc quyền tài phán nội bộ của các nước. Tất cả các quốc gia tham gia LHQ theo nguyên tắc bình đẳng chủ quyền. Nguyên tắc này được phản ánh triệt để nhất trong cơ chế tham gia bỏ phiếu các quyết định và nghị quyết tại Đại Hội Đồng LHQ (các quốc gia lớn nhỏ đều có một phiếu). Một đặc điểm nổi bật khác của LHQ là tổ chức này phản ánh sự dàn xếp và cân bằng quyền lực giữa các cường quốc thắng trận. Thực tế này được thể hiện trong cơ chế hoạt động của Hội đồng Bảo an LHQ - cơ quan chấp hành có thực quyền nhất của LHQ và đảm nhiệm trách nhiệm hàng đầu của LHQ là duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Chỉ các quyết định của Hội đồng Bảo an mới có tính cưỡng chế thực hiện. Các nghị quyết tại các cơ quan chính khác của LHQ như Đại hội đồng, Hội đồng Kinh tế–Xã hội, Hội đồng Quản thác, và cả Toà án Quốc tế chỉ có tính khuyến nghị, đạo lý và tạo sức ép dư luận. Để bảo đảm lợi ích và thu hút sự tham gia của cho các cường quốc, Hội đồng Bảo an LHQ là cơ quan duy nhất dành cho 5 cường quốc quyền phủ quyết (veto) khi thông qua các nghị quyết, quyết định của Hội đồng. Quyền hạn của Hội đồng Bảo an tập trung vào hai lĩnh vực hoạt động chính là giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế và tiến hành các biện pháp cưỡng chế. So với Hội Quốc Liên, LHQ chứng tỏ đầy đủ hơn tính chất toàn cầu (thành phần gồm hầu hết các quốc gia độc lập trên mọi châu lục) và đặc biệt là tính toàn diện của nó: chương trình nghị sự không bó hẹp vào vấn đề duy trì hoà bình, an ninh, mà bao gồm cả việc thúc đẩy hợp tác vì phát triển kinh tế–xã hội của cộng đồng các dân tộc; bản thân LHQ bao gồm hàng loạt cơ quan, chương trình, quỹ, tổ 10 chức chuyên môn tập trung vào mọi lĩnh vực của đời sống các quốc gia và quan hệ quốc tế ngoài lĩnh vực chính trị - quốc phòng, từ tiền tệ đến nông nghiệp, văn hoá, khoa học–kỹ thuật... 1.2 CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA LIÊN HỢP QUỐC Theo quy định tại Điều 7, Hiến chương LHQ, cơ cấu tổ chức của LHQ gồm 6 cơ quan chính là: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh tế –Xã hội, Hội đồng Quản thác, Toà án công lý Quốc tế, Ban Thư ký và các cơ quan chuyên môn và các chương trình hợp tác phát triển (xem phụ lục bảng 1). Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chỉ đi sâu phân tích thủ tục hoạt động của một số cơ quan chính của LHQ có vai trò giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế. 1.2.1 Đại Hội Đồng Liên hợp quốc Các qui định của Hiến chương liên quan đến Đại hội đồng được đề cập trong chương IV (từ Điều 9 đến 22), đã xác định thành phần, chức năng quyền hạn, bầu cử và thủ tục. Những qui định khác liên quan đến Đại hội đồng còn được nêu ở một số điều khoản khác. 1.2.1.1 Thành viên Đại hội đồng là cơ quan đại diện rộng rãi nhất của LHQ. Từ 51 thành viên ban đầu (những nước có đại diện dự Hội nghị tại Xan-Phran-xit-xcô hoặc đã ký Tuyên ngôn của LHQ ngày 1/1/1942, và những nước đã ký và phê chuẩn Hiến chương LHQ), hiện nay số thành viên LHQ là 193 thành viên [77]. Khác với Hội đồng Bảo an, các thành viên Đại hội đồng đều là các thành viên bình đẳng, không phân biệt quốc gia lớn hay nhỏ, mỗi quốc gia thành viên đều được 1 phiếu bầu. Các nước thành viên được chia theo nhóm khu vực để phân bổ vị trí khi bầu vào các cơ quan cơ chế LHQ. Hiện nay có 5 nhóm khu vực: châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê, Đông Âu, Tây Âu và các nước khác. 1.2.1.2 Chức năng quyền hạn Theo điều 10 đến điều 17 của Hiến chương LHQ, Đại hội đồng là cơ quan có thẩm quyền rất rộng : 11  Xem xét và kiến nghị về các nguyên tắc hợp tác trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, kể cả những nguyên tắc liên quan đến giải trừ quân bị và các qui định về quân bị;  Bàn bạc về các vấn đề liên quan tới hoà bình và an ninh quốc tế, trừ trường hợp tình hình hoặc tranh chấp hiện đang được thảo luận tại Hội đồng Bảo an, và đưa ra các khuyến nghị về các vấn đề đó;  Bàn bạc và khuyến nghị về các vấn đề theo qui định của Hiến chương có tác động đến chức năng, quyền hạn của các cơ quan thuộc LHQ;  Nghiên cứu và khuyến nghị để thúc đẩy hợp tác chính trị quốc tế, phát triển và pháp điển hoá luật pháp quốc tế; thực hiện các quyền con người và các quyền tự do cơ bản cho mọi người, và hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục và y tế;  Khuyến nghị các giải pháp hoà bình cho mọi tình huống có thể làm phương hại quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc;  Nhận và xem xét các báo cáo của Hội đồng Bảo an LHQ và các cơ quan khác thuộc LHQ;  Xem xét, thông qua ngân sách LHQ và phân bổ đóng góp của các nước thành viên;  Bầu các thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, các thành viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội, Theo nghị quyết "Đoàn kết vì hoà bình" (Uniting for Peace) thông qua tại Đại hội đồng tháng 11/1950, Đại hội đồng có thể hành động nếu Hội đồng Bảo an, vì không đạt được sự nhất trí giữa các thành viên, không thể có hành động trong một trường hợp có nguy cơ đe doạ hoà bình, phá vỡ hoà bình hoặc hành động xâm lược. Đại hội đồng được quyền xem xét vấn đề ngay lập tức để có khuyến nghị với các nước thành viên thực hiện các biện pháp tập thể, trong trường hợp phá hoại hoà bình hoặc xâm lược, bao gồm biện pháp sử dụng vũ lực khi cần thiết, để duy trì và khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế. 12 1.2.1.3 Các khoá họp của Đại hội Đồng Có các loại của Đại hội đồng LHQ là: khoá họp thường kỳ, khoá đặc biệt thường kỳ và khoá họp đặc biệt khẩn cấp * Khoá họp thường kỳ: Theo Nghị quyết 57/301 (2002), Đại hội đồng quyết định khoá họp thường kỳ hàng năm của Đại hội đồng sẽ bắt đầu vào ngày thứ 3 của tuần thứ 3 của tháng 9, tính từ tuần đầu tiên có ít nhất một ngày làm việc. Nghị quyết cũng quy định buổi thảo luận chung của Đại hội đồng sẽ được tiến hành vào ngày thứ 3 sau khi khai mạc khoá họp thường kỳ và sẽ kéo dài liên tục trong 9 ngày. Các quy định này được áp dụng từ khóa họp thường kỳ thứ 58 của Đại hội đồng LHQ. Các khoá họp sẽ được tổ chức tại trụ sở của LHQ ở New York, trừ khi tại khoá họp trước đó Đại hội đồng quyết định hoặc đa số các thành viên LHQ yêu cầu tổ chức họp ở nơi khác. Mỗi khoá họp có một Chủ tịch chủ trì, do các nhóm khu vực luân phiên đề cử. Sau tuần đầu thống nhất chương trình nghị sự, Đại hội đồng sẽ tiến hành thảo thuận chung của các trưởng đoàn. Cấp tham gia thường ở cấp cao như: Nguyên thủ quốc gia, Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng ngoại giao...Các nước thành viên bày tỏ lập trường quan điểm về những vấn đề quốc tế quan tâm. Sau đó, 6 Uỷ ban của Đại hội đồng bắt đầu nhóm họp song song với Đại hội đồng. Phần lớn các đề mục được thảo luận tại Uỷ ban trước khi đưa ra Đại hội đồng, một số được thảo luận thẳng tại Đại hội đồng. * Khoá đặc biệt thường kỳ: Do Tổng thư ký LHQ triệu tập, theo yêu cầu của Hội đồng Bảo An hoặc đa số các nước thành viên LHQ. Khoá họp đặc biệt thường kỳ sẽ được tổ chức trong vòng 15 ngày kể từ khi Tổng thư ký nhận được yêu cầu trừ khi Đại hội đồng đã ấn định ngày tổ chức khoá họp đặc biệt từ trước. Sau đó, Tổng thư ký sẽ thông báo cho các nước thành viên ít nhất 14 ngày trước khi khai mạc khoá họp đặc biệt, nếu không thì phải trước 10 ngày. Tính đến năm 2004, đã có 27 khoá họp đặc biệt thường kỳ trong đó chủ yếu là theo yêu cầu của Đại hội đồng. Chủ đề của các khoá họp bao gồm các vấn đề chính trị, kinh tế, môi trường, xã hội. Từ năm 1990 trở lại đây, các khoá họp đặc biệt thường kỳ của Đại hội đồng chủ yếu xoay quanh các vấn đề như: hợp tác kinh tế quốc tế, ma tuý, dân số, môi trường, bình đẳng giới, HIV/AIDS [55]. Điều này cho thấy rõ xu thế của của LHQ sau chiến tranh lạnh là tập trung bàn về vấn đề phát triển. 13 * Khoá họp đặc biệt khẩn cấp: Có thể được triệu tập trong vòng 24 giờ kể từ khi Tổng thư ký nhận được yêu cầu của Hội đồng Bảo an, hoặc yêu cầu hoặc thông báo của đa số các nước thành viên LHQ. Khoá họp này phải được thông báo cho các nước thành viên ít nhất trước 12 giờ. Tính đến năm 2004, đã có 10 khóa họp đặc biệt khẩn cấp được triệu tập [55], trong đó đa số được triệu tập theo yêu cầu của Hội đồng Bảo an còn lại là của các nước đặc biệt quan tâm đến tình hình xung đột. Vì mang tính khẩn cấp nên chủ đề của các khoá họp này cũng có những nét khác so với các khoá họp đặc biệt thường kỳ ở chỗ các khoá họp đặc biệt khẩn cấp thường bàn về các vấn đề chính trị cụ thể như giải quyết xung đột khu vực hoặc trong bản thân một nước (vấn đề Trung đông 1956, Hungary 1956, Trung đông 1958, Congo 1960...). Khi muốn yêu cầu triệu tập một khoá họp đặc biệt, Hội đồng Bảo an phải có một quyết định chính thức về vấn đề này được 9 thành viên Hội đồng Bảo an bỏ phiếu ủng hộ. Mặc dù Hiến chương quy định các khoá họp đặc biệt được triệu tập theo yêu cầu của đa số thành viên LHQ nhưng trên thực tế cho đến nay chưa có một yêu cầu nào được đưa ra và có chữ ký của đa số nước thành viên. Thay vào đó, một nước thành viên sẽ trình yêu cầu triệu tập khoá họp đặc biệt lên Tổng thư ký LHQ. Tổng thư ký sẽ ngay lập tức thông báo các nước thành viên khác và hỏi ý kiến của họ về yêu cầu này. Nếu đa số các nước bỏ phiếu thuận trong vòng 30 ngày thì một khoá họp đặc biệt sẽ được triệu tập. * Kết quả của các khoá họp thể hiện bằng các nghị quyết và quyết định được thông qua (các hình thức thông qua văn kiện được đề cập ở phần thủ tục hoạt động). Các nghị quyết và quyết định này không có giá trị ràng buộc pháp lý mà chỉ có giá trị khuyến nghị và đạo lý phản ánh ý chí, nguyện vọng chung của đông đảo các nước thành viên LHQ. 1.2.1.4. Thủ tục hoạt động của Đại hội đồng Liên hợp quốc a) Chương trình nghị sự * Tại các khoá họp thường kỳ, thông thường, chương trình nghị sự của Đại hội đồng LHQ gồm khoảng 150 đề mục, liên quan đến tất cả các lĩnh vực thuộc sự quan tâm của cộng đồng quốc tế. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan