Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lịch sử trà đạo nhật bản - chanoyu...

Tài liệu Lịch sử trà đạo nhật bản - chanoyu

.PDF
36
618
81

Mô tả:

Trong lịch sử nhân loại, có khá nhiều khám phá hoặc phát minh lớn lao bắt nguồn từ sự tình cờ. Truyền thuyết Trung Hoa kể rằng, vua Thần Nông (2700 AL) đã tìm ra công dụng của trà khi một số lá trà rơi vào nồi nước đang nấu, không mấy chốc, nước trong nồi ngả màu và tỏa mùi thơm. Là một người có đầu óc khoa học, vua Thần Nông nếm thử và nhận thấy nước này có hương vị thần diệu. Từ đó, ngài truyền dạy dân Trung Hoa cách dùng trà. Lại có truyền thuyết cho rằng trong một dịp ngẫu nhiên, vua Thần Nông nhai các lá trà thì nhận thấy chúng có khả năng xoa dịu sự công phạt của nhiều chất độc đang hoành hành trong cơ thể ngài. Những chất độc này đến từ các thảo mộc mọc trong thiên nhiên, do ngài nếm thử nhiều năm tháng trước đây. I – LỊCH SỬ TRÀ ĐẠO NHẬT BẢN Năm 801, hoà thượng Saicho mang hạt giống trà Trung Hoa về trồng ở Yeisan. Năm 1191 vào thời kỳ Kamakura (1185-1333), hoà thượng Yeisaizenji (1141-1215) học trường Thiền Tông phương Nam, đời nhà Tống, sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa tại Uji, phía nam Kyoto. Rồi sư YeiSai đã khuyến khích nông dân, phật tử tại nhiều vùng khác nhau trồng trà. Cùng lúc, ông cũng tuyên truyền quảng bá những lợi ích về mặt y học của trà. Thực ra vào thời đó, ở Nhật Bản cũng đã có cây trà hoang mọc rải rác nhiều nơi nhưng chất lượng kém nên không được dùng đến còn trà từ những hạt giống do nhà sư YeiSai mang về được người Nhật gọi là: ‘Trà chính gốc”. Từ thế kỷ XII, trà được sử dụng rộng rãi trong giới quý tộc, văn hóa uống trà giai đoạn đó giống như những trò chơi xa xỉ và các người quý tộc rất thích dụng cụ uống trà Trung Quốc. Giai cấp thống trị xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ, đã quy định một số quy tắc cho một buổi tiệc trà. Ngoài ra, họ còn tổ chức những cuộc thi đoán tên trà, trà đạo Nhật Bản dần dà có màu sắc của một nghệ thuật. Thế kỷ XIV, một nhà sư tên là Murata Juko đưa văn hóa uống trà lên tầm nghệ thuật. Với tư cách là một nhà sư, ông rất coi trọng cuộc sống tinh thần, ông tìm thấy vẻ đẹp giản dị trong văn hóa uống trà hòa cùng với tinh thần Thiền - Zen trong Phật Giáo. Tuy nhiên, trà vẫn còn chưa được nhiều người dân biết đến. Thế kỷ thứ XV, nghi lễ uống trà được thiết lập dưới sự chủ trì của Tướng quân samurai Ashikaga – Voshinasa, thời Shogun. Từ đó, Trà Đạo 1 được thiết lập ở Nhật Bản. Trà đạo đã có quy phạm độc lập và tồn tại hàng thế kỷ. Vào cuối thế kỉ XVI, Trà Đạo đã được Trà sư Senno Soyeki, thường gọi là Rikyu hoàn thiện. Chính Senno Rikyu là người đầu tiên làm một cuộc cải cách về phương tiện uống trà, các trà cụ quý hiếm đắt tiền của Trung Hoa nhập nội đã được ông bỏ đi và thay vào đó là những ấm, chén, bình, nồi bình dân. Việc sử dụng trà cụ Nhật Bản bình dân đã dấy lên một một phong trào sáng tạo trong mỹ nghệ gốm sứ và thúc đẩy khả năng tăng trưởng sôi sục, cung cấp trà cụ cho người dân thường. Người dân bắt đầu nhiệt liệt hưởng ứng Trà đạo. Sau khi nghiên cứu phong tục tập quán uống trà đã sáng lập Trà Đạo Nhật Bản, ra mắt tại chùa Kinh sơn tự, Senno Rikyu (15521591) duyệt buổi nghi lễ theo phong cách wabi (có nghĩa là thô sơ, đơn giản), “ tĩnh lặng”, “ không có trang trí gì ”; làm cho nhân dân ưa thích. Các chủ nhân phòng trà wabi ưa thích nhất những trà cụ đơn giản, mẫu mã thô sơ. Đến đầu thế kỉ XIX, tức là cuối thời kì Edo (1603-1868), văn hóa Trà Nhật đã thực sự phát triển rộng khắp, việc uống trà đã thực sự phổ biến trong mọi tầng lớp nhân dân. Mặc dù trà có nguồn gốc từ Trung Quốc thế nhưng với những nét rất riêng trong đời sống sinh hoạt và tâm linh của mình, người Nhật Bản đã nâng việc uống trà lên một tầm cao mới, biến nó trở thành nghệ thuật Trà đạo. Gọi là "nghệ thuật", bởi lẽ việc uống trà của người Nhật thực sự mang tính nghệ thuật rất cao, đồng thời cũng mang phong cách sống của người dân đất nước hoa anh đào. Trà đạo theo tiếng Nhật gọi là Chanoyu. II – CHANOYU_TRÀ ĐẠO 1. Tổng quan về trà đạo Nhật Bản Chanoyu, chado hay sado (trà đạo Nhật Bản) là một nghi thức truyền thống để giải trí trong một bầu không gian tĩnh lặng, mà cả người chủ lẫn khách đều hướng đến sự thư giãn tinh thần và sự hòa hợp với thiên nhiên. Cha-no-yu ( 茶 の 湯 , nước nóng dùng pha trà), là thuật ngữ thường được dùng để chỉ một nghi thức, nghi lễ uống trà đơn lẻ, còn Sado hay Chado (茶道, phương cách thưởng trà) là thuật ngữ đề cập đến việc nghiên cứu hay một học thuyết về Trà đạo. Đặc biệt hơn, Cha-ji (茶事, trà sự) là một nghi lễ trà đạo đầy đủ gồm Kaiseki (một bữa ăn nhẹ), Usuicha (một lượt trà trà loãng) và Koicha (một lượt trà đặc), nghi lễ này kéo dài trong 2 vòng bốn tiếng đồng hồ. Trong Chakai (茶会, trà hội) không bao gồm một bữa ăn nhẹ. Thường những buổi tiệc trà được tổ chức để nghênh tiếp những vị khách quý, hoặc trong những dịp đặc biệt như: Hanami (ngắm hoa anh đào nở), thưởng ngoạn những đêm trăng rằm… song đôi khi chỉ đơn giản chỉ là dịp để họp mặt bạn bè người thân. Người chủ trì buổi Trà đạo, thường là những nghệ nhân, rất am hiểu không chỉ là về Trà đạo, mà còn về những hình thức nghệ thuật khác, được gọi là Trà nhân hay Trà Tượng. Trong bất kỳ trường hợp nào, Trà nhân luôn giữ cho tâm hồn bình tĩnh và hướng dẫn cuộc đàm thoại bằng cách không bao giờ để mất sự hòa hợp ở xung quanh. Màu áo mặc, kiểu áo cắt, sự cân đối của cơ thể, dáng điệu đi đứng, tất cả đều thể hiện nhân cách của nghệ thuật gia, vì hễ người nào không tự biết làm cho mình đẹp thì không có quyền tới gần cái đẹp. 2. Trà Đạo và Thiền Nói đến Trà đạo, người ta thường nghĩ ngay đến Trung Quốc và Nhật Bản, hai đất nước còn lưu giữ được nhiều giá trị cổ xưa. Nhưng người Trung Quốc thích gọi nghệ thuật uống trà của họ là “kung-fu trà” hơn, còn cách gọi “Trà đạo Trung Hoa” tuy không sai nhưng nội hàm không hoàn toàn đồng nhất. Con người đến với chén trà bởi hai lý do: thứ nhất, thưởng thức một loại đồ uống ngon và bổ dưỡng; thứ hai, tự chiêm nghiệm bản thân qua chén trà và cách uống trà. Có thể nói, trong hai đất nước nổi tiếng về nghệ thuật uống trà, Trung Quốc nghiêng nhiều về lý do thứ nhất, Nhật Bản nghiêng nhiều về lý do thứ hai. Chính vì thế, nghệ thuật uống trà của người Trung Hoa thích hợp với cách gọi “kung-fu trà” trong khi nghệ thuật uống trà của người Nhật Bản phù hợp với hai chữ “trà đạo”. Trà đạo xuất phát từ cái duyên của các vị Thiền sư với chén trà. Chính vì nguyên nhân này, triết lý trong Trà đạo là triết lý Thiền. Trà đạo là biến thể của Đạo giáo. Thiền, cũng như Đạo gia, là sự tôn sùng “Tương Đối Tính”. Người ta chỉ có thể thấu đạt Chân Lý nhờ đã lý giải được những sự vật tương phản. Thiền cổ xúy mạnh cho cá nhân chủ nghĩa. Không có gì là thực tại cả, chỉ trừ những cái gì có liên quan đến công việc của chính trí não ta. Môn đồ Thiền gia mục đích chú trọng vào sự trực tiếp giao cảm với tính chất bề trong của sự vật, coi những đồ phụ thuộc bề ngoài của sự vật là những mối trở ngại cho việc nhận thức sáng suốt Chân Lý. Người đi tìm sự hoàn bị có thể khám phá thấy ánh sáng nội tâm phản xạ ngay ở trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của mình. Như vậy, có biết bao nhiêu vấn đề trọng đại được nêu ra trong lúc làm cỏ, gọt củ cải, hay pha 3 trà. Tất cả những lý tưởng của Trà Đạo là kết quả của quan niệm Thiền Gia về mức cao siêu trọng đại bao hàm trong những sự việc bé nhỏ nhất xảy ra ở trên đời. Khi pha trà, mọi động tác đều được làm một cách đầy ý thức, vừa làm vừa biết mình đang làm gì, tất cả tâm trí đều tập trung vào việc pha trà. Khi pha trà thì chỉ nghĩ đến pha trà, làm như pha trà không phải là để có trà mà uống: pha trà chỉ là để pha trà. Động tác pha trà được coi là quan trọng hơn là kết quả việc pha trà (có một bình nước trà ngon). Khi pha trà, ta quán chiếu tâm mình, ta chính định, ta chính niệm, ta sống trọn vẹn với công việc pha trà, ta hưởng trọn vẹn cái giây phút an lạc, thanh thản, cái vui thú của việc pha trà. Ta cảm nghiệm ngay chính lúc ấy cái tâm linh ta đang điều động công việc pha trà. Khi uống trà cũng thế, uống một cách đầy ý thức, hưởng trọn vẹn cái hương vị thơm tho của trà, tâm linh tập trung trọn vẹn vào đó, thưởng thức cái thú vị đến với mình lúc đó mà không so sánh với cái vị trà mà mình uống hôm trước. Sống trọn vẹn giây phút hiện tại đến độ dường như lúc đó chỉ biết duy nhất có một việc, chỉ làm duy nhất có một việc là uống trà. Đó là những giây phút siêu thoát, trong đó ta cảm thấy mình hoàn toàn không bị ràng buộc bởi một điều gì khác. Điều quan trọng là ta không để việc pha trà hay cái vị ngon của trà cuốn hút ta ra khỏi ý thức của ta, khiến ta miên man suy nghĩ chạy theo ngoại vật mà quên mất chính ta, quên mất tâm của ta, khiến ta bị vong thân ngay lúc đó. Phải hoàn toàn làm chủ ý thức mình, một cách tự nhiên không cần cố gắng: đó là kết quả của nhiều năm tu tập. Tất cả mọi việc, “đi đứng nằm ngồi gì cũng đều là Thiền hết” (Huệ Năng). Thời gian đầu mới tu tập Thiền, người ta chỉ làm được trong ngày một vài việc đầy tinh thần Thiền như thế thôi. Nhưng dần dần số công việc làm được như thế tăng dần lên theo thời gian tu tập. Và kết quả sẽ là những chứng nghiệm tâm linh siêu việt mà người bình thường không bao giờ cảm nghiệm được. Đó là cửa ngõ để bước qua một cách hiện hữu mới, một hiện hữu thần bí, hiện hữu của một tâm linh nở hoa. Đó chính là ý nghĩa của triết lý Thiền trong Trà đạo: “vận dụng tâm nhẫn nại, tâm lặng lẽ, tâm tĩnh giác, để mỗi người tự thông đạt đại đạo và có sự cộng thông giữa con người với thế giới xung quanh” Nho giáo và Phật giáo với tư tưởng sùng bái Tam Tôn, luôn luôn có ý cố gắng đạt tới tương xứng tính. Còn quan niệm về sự hoàn hảo của Đạo gia và Thiền gia thì khác. Họ nhấn mạnh về phương thức tìm kiếm trao dồi sự hoàn hảo hơn là chính sự hoàn hảo. Cái đẹp chân thực, chỉ người nào, về tinh thần đã hoàn thành được cái bất hoàn thành, mới khám phá ra được. Vì vậy, Trà đạo rất đề cao sự bất tương xứng, từ những chén trà, ấm trà đến lối kiến trúc của Trà thất, cách bài trí nội thất và cảnh quang xung quanh. Vì 4 tương xứng tính không những biểu thị sự hoàn thành, mà cả sự lặp đi lặp lại một hình một kiểu trùng nhau. Tính cách đồng nhất không biến đổi bị coi như là nguy hại cho sự tươi sáng của trí tưởng tượng. Trà Đạo tôn thờ cái Chưa hoàn hảo, vì đó là một nỗ lực để thực hiện một khả năng có thể trong sự đời không có thể, mà chúng ta gọi là cuộc sống. Đây là một yêu cầu về tinh khiết, vì nó đòi hỏi thanh tịnh; đây là một đạo đức tiết kiệm, vì nó chứng minh cho chúng ta, hạnh phúc cuộc đời chủ yếu là sự đơn giản hơn là sự phức tạp phiền toái và chi tiêu hoang phí; đây là một thước đo tinh thần nhằm xác định vị trí của chúng ta trong vũ trụ. 3. Vai trò của trà đạo trong đời sống người dân Nhật Trong Trà đạo, người dân Nhật nói riêng và những người yêu thích trà đạo của Nhật nói chung nhận ra được nhiều sự giáo dục trong trà đạo, đó là đức tính giản dị, sự hồn nhiên và tác phong chững chạc.Và chúng ta còn thấy được qua Trà đạo,những đặc điểm đáng học tập của con người Nhật Bản, đó là sự ngăn nắp, trọng kỉ luật và tuân thủ các quy chế xã hội. Có thể nói: Trà đạo là một trong những nền tảng vun đắp tình cảm dân tộc trong tâm thức người Nhật. Trà đối với người Nhật được coi trọng hơn là sự lý tưởng hóa dùng món đồ uống, trà là một tôn giáo của thuật sống. Qua món đồ uống này, sự tinh khiết và thanh tao được tôn thờ. Một nghi thức thiêng liêng mà chủ nhân với tân khách nhân dịp đó cùng tiếp tay nhau để tạo nên cái hạnh phúc tối cao trên cõi thế này. Trà thất được ví như khoảnh đất phì nhiêu trên sa mạc quạnh hiu buồn tẻ của cõi đời mà khách lữ hành có thể gặp gỡ nhau ở đó để cùng nhau giải khát trong nguồi suối chung của lòng ham chuộng thưởng thức nghệ thuật. Tính cách đơn giản và hoàn toàn thoát ra khỏi lối bình phàm của trà đã làm cho nó thành một nơi trú ẩn để tránh những nỗi buồn phiền của thế giới bên ngoài. Trà đạo bao gồm tất cả các yếu tố mang tính triết học Nhật Bản, nét thẩm mỹ, và sự đan xen giữa bốn nguyên tắc cơ bản: wa-sự hài hòa (giữa con người và thiên nhiên), kei-sự tôn kính (đối với người khác), sei-sự tinh khiết (của tâm hồn) và jaku-sự yên tĩnh. Trà đạo ngày càng phổ biến hơn ở Nhật Bản, rất nhiều cô gái trẻ dồn tâm sức học tập trà đạo, tu nhân dưỡng tính để cuộc sống gia đình cũng như cuộc sống tinh thần phong phú và đẹp đẽ hơn. Chính tinh thần của Chanoyu, thể hiện cái đẹp của sự đơn giản và sự hài hòa với thiên nhiên, đã hun đúc nên truyền thống văn hóa của Nhật Bản này. Hơn nữa, những nghi thức trong trà đạo đã cơ bản ảnh hưởng rất nhiều đến phong cách của người Nhật. 5 III – THƯỞNG THỨC TRÀ ĐẠO Ở NHẬT BẢN Không một màu nào làm biến loạn sắc điệu của căn phòng, không một tiếng động nào làm tao lộng tiết tấu của sự vật, không một cử chỉ nào làm sai lạc giai điệu, không một lời nào phá ngang sự nhất trí của cảnh vật xung quanh, mọi động tác đều làm một cách đơn giản tự nhiên, đó là mục đích của trà đạo. 1. Không gian thưởng trà: Tất cả đại trà tượng đều là những nhà tu Thiền Tông và cố đem truyền tinh thần Thiền Tông vào những sự vật thện hữu ở đời. Vì thế, Trà Thất cũng như tất cả các đồ dùng cần thiết cho trà thang, đều phản ánh rất nhiều giáo lý của Thiền. Yêu cầu về không gian thưởng trà của Chanoyu rất cao. Để có thể tiến hành những nghi thức Trà đạo đúng nghĩa, Chanoyu yêu cầu phải có một không gian thanh tịnh và hoài hòa với cảnh sắc thiên nhiên. Đáp ứng những tiêu chuẩn đó mà dần hình thành hai không gian thưởng trà chính, đó là trà viên và trà thất. 1.1. Trà Viên: Là một khu vườn được thiết kế phù hợp với việc ngắm hoa, và thưởng thức trà. Trà viên đòi hỏi bố cục khu vườn phải tinh tế, làm cho khu vườn vẫn giữ được nét tự nhiên. Trà viên là nơi bạn có thể đắm chìm trong cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng bên ly trà ấm nồng. Trong Trà viên, mọi người thường ngồi trên thảm cỏ trong vườn để thưởng thức trà. Hoa, Lư Trầm thường được đặt ở giữa chỗ ngồi họp nhóm của những người tham gia. Trong vườn thì có các loài cây như: Hoa anh đào, hoa mai, hoa mơ, tùng, liễu. Những loài cây này dễ tạo cảm hứng thi phú cho người xem trong quá trình đàm Đạo, đối ẩm. Bên cạnh đó là các hòn non bộ, những tảng đá lớn, chậu nước cũng được sắp xếp theo bố cục chặt chẽ, thể hiện sự cân đối Âm – Dương trong phong thủy. Trà viên thường không phổ biến bởi tính cầu kỳ của nó đòi hỏi cách bày trí khu vườn thật khéo, làm sao cho khu vườn vẫn còn được nét tự nhiên để 6 người tham gia Trà Đạo không có cảm giác bị rơi vào một cảnh giả do bàn tay con người tạo ra. 1.2. Trà thất : Là một căn phòng nhỏ dành riêng cho việc uống trà, nó còn được gọi là "nhà không". Nó có kích thước rất nhỏ, nhỏ hơn cả những nhà Nhật bé nhỏ nhất. Kích thước của Trà Thất chính thống là bốn chiếc chiếu rưỡi, hoặc mười bộ vuông, thường làm bằng tre hoặc tatami. Kích thước này được ấn định theo một đoạn trong Sutra of Vikramadytia_Duy Ma Kinh. Đối với những gia đình bình thường, trà thất được đặt liền ngay ở trong nhà chứ không được đặt riêng ở một nơi, được gọi là Kakoi Đối với các gia đình khá giả, trà thất được xây trong vườn riêng của nhà, gọi là Sukiya cùng với hai phòng khác. Một phòng nối liền với trà thất, Midsuya, là nơi đặt than, bộ đồ trà và vòi nước. Phòng còn lại là nơi nghỉ ngơi của khách, phải cách hai phòng kia một khoảng nhất định. Trà thất làm ta nghĩ đến cái vô thường và trống rỗng của mọi sự. Không có một vẻ gì là chắc chắn hay cân đối trong lối kiến trúc, vì đối với Thiền, sự cân đối là chết, là thiếu tự nhiên, nó quá toàn bích không còn chỗ nào cho sự phát triển và đổi thay. Điều thiết yếu là ngôi Trà thất phải hòa nhịp với cảnh vật chung quanh, tự nhiên như cây cối và những tảng đá. Vật liệu dùng để xây cất cũng cố ý làm ra vẻ thanh bần. Tuy nhiên, tất cả những kiểu cách ấy là cả một sự dụng tâm thâm thúy về mỹ thuật, và những bộ phận nhỏ nhặt còn được làm kỹ lưỡng tỷ mỷ có lẽ hơn cả những đền đài dinh thự nguy nga tráng lệ nhất. 7 Machiai Thường khi khách đến, họ không được đến trực tiếp ngay trà thất mà được đưa qua một dãy phòng dẫn để đến machiai_trì hợp, phòng đợi. Ở đây, sau khi được phục vụ một tách nước nóng, khách được đưa ra roji_lối đi trong vườn nối liền trì hợp với trà thất. Roji có ý định dùng để cắt đứt hết mọi liên lạc với thế giới bên ngoài, và để gây cho khách có một cảm giác lâng lâng, thư thái sẵn sàng đón nhận những thú vui hoàn toàn của duy mỹ chủ nghĩa trong Trà thất. Vườn trong khuôn viên của phòng trà mang nét độc đáo riêng biệt của trà đạo. Những lối mòn yên tĩnh tạo cho khách cảm giác thanh bình yên ả. Mỗi một thứ trong vườn đều mang một biểu tượng riêng. Một vài cây thông tượng trưng cho sự trường thọ. Những cây tre thẳng đứng thể hiện cho sức mạnh và sự phục hồi. Một vài tảng đá xếp thẳng hàng làm cho người xem liên tưởng đến hình ảnh của một thác nước. Trên đường dẫn đến trà thất trong vườn, có một tảng đá lớn, mặt tảng đá được khoét thành một cái chén đựng đầy nước từ một cành tre rót xuống, gọi là Tsukubai. Ở đây người ta "rửa tay" trước khi vào ngôi nhà nằm ở cuối con đường. 8 Tsukubai Chỗ đi vào trà thất là một cửa thấp được che bằng rèm, ai cũng phải cúi mình cung kính bước vào phòng, trượng trưng cho sự khiêm tốn và để xóa đi rào cản sang hèn trong xã hội, người võ sĩ thì phải để lại bên ngoài cây kiếm dài thể hiện không khí hòa bình. Trái ngược với người Tây phương, trong nhà thường biến thành một bảo tàng viện, Trà thất phải hoàn toàn trống rỗng, ngoại trừ một vài thứ có thể tân thời trưng bày để thỏa mãn thị hiếu thẩm mỹ của chủ nhà, nhưng phải hòa hợp và tăng thêm giá trị vẻ đẹp cho chủ đề. Không gian bên trong của Trà thất luôn dành cho Tokonoma một vị trị trang trọng. Tokonoma chính là một góc phòng được trang trí và hơi thụt vào trong so với vách tường. Nó là một trong những nhân tố thiết yếu tạo nên phòng khách chính của một căn nhà. Tokonoma thường được bày trí bởi một bức Kakejiku, một bình hoa hay lọ hoa cắm theo phong cách Chabana và một lư trầm hương. - Chabana là phong cách cắm hoa đơn giản mà thanh lịch của Trà đạo, có nguồn gốc sâu xa từ việc nghi thức hóa Ikebana. Phong cách của chabana là không có bất kỳ qui tắc chính thức nào để trở thành chuẩn mực cho nghệ thuật cắm hoa trong trà thất. Hoa thể hiện tình cảm của chủ nhà trong một buổi tiệc trà, khi cắm hoa cho một bữa tiệc trà, đầu tiên chủ nhà phải chọn hoa và lọ tương ứng. Hoa trong phòng trà gợi được cho người ngắm cảm giác như đang đứng giữa khu vườn tự nhiên. Hoa không được hái bừa bãi, mà phải thận trọng kén từng cành từng ngọn, vừa hái vừa suy nghĩ tới việc phối hợp như thế nào, để không hái quá số hoa tối cần. Hoa thường không được cắm cầu kỳ, màu sắc rực rỡ mà chỉ là những cành hoa nhánh cỏ được lấy ngay trong vườn, cắm vào những lọ hoa bằng gỗ hoặc bằng tre treo lơ lửng trên tường. Thoạt nhìn vào tưởng rất đơn sơ nhưng càng ngắm kỹ mới cảm nhận hết những nét tinh tế về thẩm mỹ của chủ nhà. Có rất nhiều trường phái cắm hoa, nhưng không một lối cắm hoa nào không bao hàm ba nguyên lý, Nguyên Lý Chỉ Đạo là “Thiên”, Nguyên Lý 9 Tòng Thuộc là “Địa”, Nguyên Lý Điều Hòa là “nhân”. Cắm hoa không theo ba nguyên lý này đều bị coi là vô vị, không có sinh khí. Chabana - Kakejiku có thể hiểu chỉ là một tấm vải trống trơn, nó có thể cuộn vào cất đi, hoặc mở ra để treo trên vách tường tokonoma. Lúc thì gắn vào Kakejiku một bức tranh nhỏ, lúc khác một bức thư pháp hoặc là sự kết hợp cả tranh và chữ (thư họa). Những nội dung khi xuất hiện trên Kakejiku thường mang ý nghĩa sâu xa. 10 Kakejiku Khi bước vào một Trà thất, người ta thường quỳ và ngắm Tokonoma một lát, cũng để thưởng thức các vật được trưng bày. Theo tinh thần ThiềnZen chỉ khi chúng ta chú tâm đến những chi tiết nhỏ bé trong cuộc sống thì mới thấy vẻ đẹp trong những điều giản dị. Trong Tokonoma, các đạo cụ được xếp rất gọn gàng, hòa hợp theo phong thủy và không bao giờ được đặt ở chính giữa, lọ hoa, lư trầm hay bất kì thứ gì, vì sợ rằng nó sẽ chia Tokonoma thành hai khoảng đều nhau. Một gia đình truyền thống Nhật có nhiều cuộn giấy và các vật dụng khác mà họ trưng bày ở tokonoma tùy từng mùa hoặc ngày lễ gần nhất. Trong Trà thất, các đồ vật được lựa chọn một cách cẩn thận để không có một màu sắc hay một kiểu nào trùng nhau, giống nhau. Nếu đã bày một bông hoa tươi thì không thể bày thêm một bức họa hoa. Nếu đã dùng ấm đun nước hình tròn, thì bình đựng nước phải là hình có góc. Một chén men đen không được đi đôi với một hộp trà sơn đen. Phòng trà không có ghế ngồi mà chỉ có chiếc bàn thấp, có chiều cao độ khoảng 30 cm. Người uống trà phải xếp bằng trên “Tọa cụ”, đây là loại nệm ngồi mà những người tọa thiền thường sử dụng. Trên bàn trà được đặt một lư đốt trầm bằng gốm đỏ, một cái đèn giấy kiểu Nhật chỉ đủ tỏa ánh sáng vừa đủ cho bàn trà. “Trà cụ” được bày ra trên bàn gồm có: Ấm, chén, bình đựng trà, bình chuyên, bình hãm trà, bếp lò than, nồi châm trà, gáo pha trà, đồ gạt trà… 2. Dụng cụ dùng để pha trà: 11 Trà cụ, Dogu, một tiệc trà cơ bản nhất cũng cần đến rất nhiều loại dụng cụ khác nhau. Liệt kê danh sách đầy đủ về các dụng cụ uống trà có thể viết thành một cuốn sách dày hàng vài trăm trang. Dưới đây là một số Dogu cần thiết: - Mizusasi: bình đựng nước. Mizusasi chứa nước sạch được bày biện trong dougu-tatami, khi pha trà, nước trong Mizusasi được cho vào ấm đun nước để giữ nước nóng ở nhiệt độ nhất định. Mizusasi - Kama: nồi đun nước. Quai xách rời sẽ tháo ra khi vào buổi trà đạo. Nước từ ấm sẽ được lấy ra bằng Hishaku để rót vào bát. Kama 12 - Lò đun: chỉ được đem ra sau khi chủ nhà chào khách. Gồm hai loại: furo đem theo được, và ro được gắn cố định vào nền nhà để giữ ấm vào mùa đông. Furo Ro - Tetsubin: ấm đun nước. Thường bằng gang, bên trong lòng Tetsubin có tráng một lớp men như loại 'nonstick' để nước đun không bị ngái mùi kim loại. Kích thước của Tetsubin khá đa dạng. Tùy theo số người uống mà dung tích Tetsubin lớn nhỏ khác nhau. Tetsubin - Bình pha trà: thường bằng đất nung màu đen hay nâu có cán cầm (khác với loại có quai, tuy nhiên đây cũng không phải là điều bắt buộc) . Bình pha trà cũng có khi bằng kim khí rất nặng màu đen, có quai sách. Thường bình pha trà có dung tích khoảng 200 ml. Bình này được dùng trong pha trà lá. - Natsume và Chaire: hộp đựng trà. Làm từ gỗ sơn mài, cũng mang những nét đặc trưng riêng của từng trà nhân giống như bát vậy. 13 Nasume là một phong cách hộp trà được đặt tên theo một loại quả, quả táo ta. Thân hộp ngắn, nắp bằng, đáy hình tròn, thường được làm bằng chất liệu sơn mài hay gỗ thô. Nasume Chaire Chaire thì thân thường cao và mỏng (nhưng hình dáng thì rất đa dạng) và có nắp bằng ngà voi, mặt dưới nắp bằng vàng lá. Thân hộp Cha-ire thường bằng chất liệu sứ, và thường được bảo quản bằng những chiếc túi vải lụa. Trà trước khi cho vào Natsume và Chaire phải được lọc cẩn thận để không vón cục ảnh hưởng đến hương vị. Trà trong natsume và Chaire được trình bày theo hình núi Phú Sỹ, vốn là biểu tượng của Nhật bản. - Kensui: Chậu đựng nước rửa khi pha trà, có thể làm bằng các chất liệu như tre, gốm… Trong phòng trà luôn nằm ở vị trí sau để đảm bảo sạch sẽ. Kensui - Chasen: cây đánh trà. Dùng để đánh tan trà với nước sôi. Được làm bằng tre một cách công phu và cũng là một dụng cụ đặc trưng cho cách pha trà bát, hay trà bột. Chasen mới và các tua tre phải đều, thì bát trà pha ra mới 14 ngon, đều và đẹp mắt. Có hai loại Chasen mỏng và dày, được dùng trong tiệc trà loãng hay trà đặc. Những Chasen cũ hay bị hỏng không đơn thuần sẽ bị bỏ đi. Mỗi năm một lần vào khoảng tháng Năm, người ta lại tổ chức lễ rước những Chasen này lên đền rồi thực hiện nghi lễ hoả táng được gọi là chasen koyō, để thể hiện sự tôn kính đối với những vật được sử dụng trong trà đạo. - Chasaku: thìa trà. Chiếc muỗng tre dài, một đầu uốn cong để múc trà, dùng để múc trà từ hộp ra bát. Những thìa lớn hơn được dùng để múc trà cho vào hộp trà ở Thuỷ toà- mizuya hay còn gọi là khu chuẩn bị. Giữa cán chasaku là khấc tre, và người cầm chasaku không được cầm quá khấc này, để đảm bảo tính vệ sinh của trà. Cũng là một nét đặc trưng trong tính lễ nghi của Trà đạo. Những màu và phong cách Chasaku khác nhau đực sử dụng trong các dòng phái trà đạo khác nhau (Omotesenke và Urasenke). - Futaoki: Đi kèm shaku là futaoki, là dụng cụ kê nắp kama khi mở. 15 Futaoki - Hishaku: gáo. Một chiếc gáo bằng trúc có một mấu nhỏ ở gần giữa cán tay cầm dài để chuyên nước tinh khiết từ bình đựng nước vào ấm kim loại và chuyên nước từ ấm kim loại ra các bát trong những hội trà khác nhau. Những kiểu gáo khác nhau được dùng trong những buổi trà đạo khác nhau và những mùa khác nhau. Loại gáo lớn hơn được các vị khách dùng trong nghi thức tẩy uế trước khi bước vào phòng trà. Các quy tắc sử dụng hishaku đã tạo ra những nét hấp dẫn rất đặc trưng cho kiểu pha trà này, từ cách cầm dụng cụ, cách di chuyển đến tiếng nước róc rách chẩy từ shaku xuống bát trà. Hishaku - Tana: những chiếc giá. Tana rất đa dạng về kích cỡ, kiểu dáng, đặc trưng và chất liệu, mỗi loại Tana đều có một tên riêng. Chúng được đặt trước mặt gia chủ trong phòng trà, một loạt các trà cụ khác nhau được bày bên trên hoặc sắp xếp trong những chiếc giá đó. Chúng cũng được sử dụng theo nhiều cách khác nhau trong những tiệc trà khác nhau. 16 Daisu Kikou Daisu được dùng trong những dịp đặc biệt như là lễ trà đầu năm mới. Kikkou (mai rùa) có ba ngăn kệ. Hình dạng của ngăn thứ 2 là hình vỏ trai vào mùa xuân và sẽ được thay bằng hình trăng lưỡi liềm vào mùa thu. - Chakin: khăn lau. Là một mảnh vải lanh, hoặc vải gai hình tam giác, được dùng trong nghi thức lau bát trà. Những kiểu khác nhau được sử dụng cho tuần trà khác nhau (trà loãng, trà đặc). Chakin luôn phải sạch và ẩm, nhưng không được ướt, và phải là màu trắng. - Fukusa: Fukusa mà một mảnh lụa hình vuông dùng trong nghi thức lau muỗng trà và Natsume hay Cha-ire, và cũng dùng để lót tay khi cầm ấm hay nắp ấm cho khỏi nóng. Fukusa đôi khi được những người khách dùng để bảo vệ trà cụ khi họ nếm trà (Fukusa là một loại đặc biệt còn được gọi là kobukusa hay “fukusa nhỏ”. Chúng được thêu dày hơn với nhiều mẫu hình, và thông thường màu sắc thì tưới sáng hơn loại fukusa thông thường). 17 Fukusa - Chawan: bát trà. Có thể nói là thứ đặc trưng và giành được sự yêu quý và quan trọng nhất của Trà đạo. Chawan được làm bằng men, công phu, tỉ mỉ và mỗi Chawan có những họa tiết độc đáo riêng. Vì thế mà trong khi làm một buổi tiệc trà, không có hai Chawan giống nhau. Các nghê nhân làm Chawan cũng đưa chủ đề thiên nhiên, thời tiết vào trong tác phầm của mình, vậy nên có thể dùng Chawan phù hợp cho 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông. Mùa xuân: chawan có những hoa văn mùa xuân như hoa anh đào. Mùa hạ: là mùa nóng nên chawan có độ cao thấp hơn, miệng rộng hơn chawan mùa xuân để dễ thoát hơi nóng. Mùa thu: chawan có hình dạng giống chawan mùa xuân, có hoa văn đặc trưng cho mùa thu như lá phong, lá momizi. Mùa đông: là mùa lạnh nên chawan có độ dày và cao hơn các chawan mùa khác để giữ nóng lâu hơn. Màu sắc của men cũng mang gam màu lạnh. 18 Chawan mùa xuân Chawan mùa hạ Chawan mùa thu Chawan mùa đông Chawan được các trà nhân yêu quý như chính bản thân họ vậy. Bởi vậy, việc một Chawan có giá trị bằng một căn nhà đối với người hiểu về bát, cũng không có gì là lạ. Được ưa thích không phải là những Chawan tròn vẹn bóng bẩy kiểu Trung quốc, mà là những chiếc thô sơ giản dị, và hơn nữa, là được làm bằng tay. Chawan thậm chí lại không tròn, phù hợp với lý tưởng của trà đạo là “ tìm kiếm sự toàn vẹn trong cái bất toàn” Những Chawan bị vỡ thường được gắn lại rất tỉ mỉ bằng một hợp chất sơn mài và các thành phần khoáng chất tự nhiên khác. Vàng cám đựơc dùng để che khoảng màu tối của sơn mài, và đôi khi một số đồ án phụ cũng được 19 tạo ra bằng những hợp chất. Những chiếc bát được hàn gắn như thế thường được đem sử dụng chủ yếu vào tháng 11, khi những người tổ chức trà đạo bắt đầu sử dụng ro, hay lò sưởi, một cách thể hiện và ca tụng Wabi hay sự giản dị, mộc mạc. - Để thưởng thức trà lá thì có thêm loại tách nhỏ. Thường cỡ khoảng 70ml đến 100 ml. Hình tròn, hay hình ống , đôi khi có hình dạng méo mó . Thường màu đậm hay nhiều màu in hình hoa trái hay viết những chữ Nhật bản dạng chữ thảo. Tuy nhiên màu sắc không diêm dúa với màu đỏ gay gắt như trên các đồ sứ của Trung Hoa. Ly tách uống trà của Nhật bản có màu thanh thoát, êm dịu. Tách uống trà có thể có nắp hoặc không, nhưng phải có một đĩa nhỏ đễ đỡ tách uống trà. * Tất cả mọi Dogu được bảo quản rất cẩn thận. Sau mỗi lần sử dụng, chúng đựơc cọ rửa sạch sẽ trước khi cất đi. Một vài trong số các Dogu chỉ được cầm vào khi tay đã đeo găng. 3. Quy trình của một buổi uống trà - Chủ nhà sẽ chọn ngày để tổ chức uống trà, gửi thư mời và người được mời sẽ viết thư trả lời có nhận lời mời hay không. Một buổi uống trà thường là một nhóm nhỏ, và không vượt quá 4 người. Cho nên những người được mời thường là những người rất thân thiết với chủ nhà. - Thời gian tổ chức được chia ra làm 4 loại: trà sáng (7h sáng), sau ăn cơm (8h sáng), giữa trưa (12h trưa) và câu chuyện buổi tối (6h tối). - Lúc đến nơi, những người khách chào lẫn nhau. Họ được phục vụ nước nóng trong khi chờ đợi trên một chiếc ghế băng ngoài vườn. Và gia chủ sẽ bước ra chào các vị khách mới đến. - Khi đến, khách sẽ được tiếp nước nóng ở ngoài vườn, sau đó tẩy trần ở Roji. - Khách tự thỏa thuận vấn đề phân chia ngôi thứ, rồi từng người lặng lẽ tiến vào chỗ ngồi của mình. Sau khi khách đã yên vị, trong phòng hoàn toàn im lặng, không một tiếng động nào khác ngoài tiếng nước sôi reo trong ấm sắt. Toàn bộ nghi thức Chanoyu cổ truyền cần từ 3-4 tiếng, gồm 4 giai đoạn: ♦ Hoài thạch: Sau khi những người khách đã an vị, chủ nhà sẽ mời khách dùng điểm tâm, thường là bánh. Trong các buổi tiệc trà lớn khách được phục vụ một bữa ăn nhẹ như soup hoặc một ít cơm và cá kho. Bữa ăn này thường kéo dài hơn một tiềng đồng hồ mặc dầu đây chỉ là phần khởi đầu của buổi tiệc trà. Trong các buổi tiệc trà nhỏ, khách thường chỉ đến để ngắm cảnh khu vườn, nói chuyện và thưởng thức một bát trà xanh trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ. Chủ nhà mời khách lui về vườn hoặc Machiai ngồi nghỉ trong khi chuẩn bị lễ trà. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan