Lời cảm ơn:
Thực hiện đề tài này, em đã được sự đóng góp ý kiến nhiệt tình của T.S Vũ Công
Hảo – giảng viên trường Đại học sư phạm Hà Nội 2 – Em xin chân thành cãm
ơn thầy !!!
Lời cam đoan:
X.A.Exenhin là một tác giả lớn trong văn học Nga. Thật khó có thể hiểu hết
được sự nghiệp văn học của ông. Đã có nhiều người nghiên cứu Exenhin, nhưng
đặt ông bên cạnh Nguyễn Bính là một hương đi mới. Người viết đề tài đã tham
khảo những tài liệu có liên quan đến tác giả và sử dụng một số lời nhận xác đáng
vào bài viết. Tuy nhiên hương đi của đề tài không trùng khít với các tài liệu đó.
Hi vọng sẽ được các thầy cô đóng góp ý kiến và bổ xung thêm.
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Xegây Alêchxanđrôvich Exenhin ( 1825 - 1925 ) là đại diên tiêu biểu của
nên thi ca Nga đầu thế kỉ XX. Cả tuổi đời “và” tuổi thơ đều rất trẻ, Exenhin đã
để lại một khối lượng tác phẩm khá bề thế, gồm 9 tập thơ :
Lễ cầu hôn - 1916, Đồng chí - 1917, Người đánh trống trời - 1918, Lễ biến hình
- 1918, Miếu thờ hương thôn - 1918, Trinh bạch Goocđani -1918, Về nước Nga
và cách mạng - 1945, Nước Nga xô viết - 1925; bốn bản trường ca: Bài ca về
cuộc hành quân vĩ đại - 1924, Matxcova Quán rượu - 1925, Bài ca về hai mươi
sáu - 1924, Anna xnêghia -1925; Kịch pugasốp -1924; truyện dài: Bờ dốc 1916; truyện ngắn: Người độc thân và đứa bạn - 1917; bút kí: Migôrốt sắt thép 1923… Thơ Exenhin có sức hút lớn bởi nó chính là tiếng lòng ông, là tình yêu
thẳm sâu của ông về đất nước con người Nga trong thời đại chuyển giao lịch sử .
Trong dòng chảy ồn ào của lịch sử Nga cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thơ
Exenhin giống như một mạch nước ngầm, lúc dịu dàng êm dịu, lúc dữ dội. Tiếng
thơ ông vừa làm cho người ta đắm say, vừa làm cho người ta day dứt bởi trong
nó không chỉ có hình ảnh của một lòng quê yêu dấu, không chỉ có vóc dáng thân
thương của người mẹ hiền ,…, trong nó còn ẩn chứa tâm sự đau buồn của nhà
thơ về cuộc đời và thân phận mình. Thơ ông đã đựơc nhìn nhận từ nhiều góc độ:
là khúc nhạc buồn muôn thủa của đồng quê Nga, la sự nuối tiếc của một người
Nga trước sự ra đi không trở lại của những giá trị văn hóa truyên thống, là lời tự
thú của nhà thơ về nhưng lầm lỗi của bản thân mình… Tâm sự của Exenhin
cũng là tâm sự chung của nhiều nhà thơ khác trên thế giới.
Với đề tài: “X.A.Exenhin và Nguyễn Bính nhìn từ góc độ loại hình” người viết
muốn chỉ ra một vài khía cạnh về “ lịch sử tâm hồn Nga” khi nước Nga bước
vào “ thời đại bão tát cách mạng đầu thế ki XX” mà Exenhin là một trong những
chứng nhân của sự biến thiên lịch sử ấy. Đồng thời, qua đó khẳng định thêm giá
trị thơ Exenhin trong lịch sử văn học dân tộc nói riêng và trong nền văn học thế
giới nói chung.
1.2 Sức mạnh của văn học nói chung, của thơ ca nói riêng không chỉ bó hẹp
trong pham vi một dân tộc, mà nó còn lan rộng trên toàn thế giới.Thơ Exenhin
cũng vậy – đôi khi những tiếng lòng riêng ông lại được tìm thấy trong thơ của
nhiều nhà thơ khác. Khi mà việc nghiên cứu văn học theo phương pháp so sánh
loại hình đang phát triển và có nhiều triển vọng thì việc đặt Exenhin và Nguyễn
Bính bên cạnh nhau để thấy được những nét tương đồng và khác biệt là một việc
làm cần thiết và có ý nghĩa. Sự gặp gỡ ngẫu nhiên mà kì lạ giữa một hồn thơ
Nga và một hồn thơ Việt cho thấy một biểu hiện khác của sự gặp gỡ Đông - Tây
đã xuất hiện từ nhiều thập kỉ trước.
1.3 Đã từ rất lâu, bài thơ “Thư gửi mẹ” của Exenhin được đưa vào giảng dạy
trong trường phổ thông ở Việt Nam. Từ bài thơ này, thơ ông đã được biết đến
nhiều hơn và để lại ấn tượng sâu hơn trong lòng bạn đọc Việt Nam. Là một giáo
viên trong tương lai, chúng ta không thể không có một vài hiểu biết về một tác
giả văn học nước ngoài lớn như Exenhin, càng không thể không thấy được mức
độ ảnh hưởng của thơ ông đối với nền văn học nước nhà. Việc tìm ra những nét
tương đồng và khác biệt giữa Exenhin va Nguyễn Bính sẽ giúp chúng ta có một
cái nhìn toàn diện va sâu sắc hơn về mỗi nhà thơ, đồng thời thấy được những giá
trị cao đẹp mà những tiếng thơ ấy mang lại.
Vơi tất cả nhưng lí do trên, người viết đã đi vào nghiên cứu đề tài này với lòng
say mê và nhiệt thành của bản thân mình.
2. Lịch sử vấn đề
Nguyễn Hải Hà đã có một nhận xét chính xác về đời người và đời thơ
Exenhin: “ Đời Exenhin lận đận và thơ Exenhin cũng long đong” [
] Đúng là
có một thời, nhiều người đã đánh giá không đúng mức về ông vì họ chỉ thấy cái
bề ngoài có vẻ côn đồ của một tên du đãng, mà không thấy được cái ẩn ức cá
nhân trong tâm hồn nhà thơ, chỉ thấy một vài những biểu hiện tiêu cực trong vấn
đề thơ tự thú mà không thấy được cách ứng xử cao đẹp của nhà thơ khi ăn năn
hối lỗi một cách chân thành. Cái “có vẻ ” và cái “ một vài ” kia không thể làm
nên diện mạo tinh thân của một nhà thơ. Điều đáng để chúng ta trân trọng nâng
niu chính là vẻ đẹo thuần khiết của làng quê Nga, tình yêu thẳm sâu đối với con
người Nga, và những giá trị người cao cả mà ông đem đến trong thơ. Tất nhiên
cũng không ít người rất đề cao Exenhin đã trao cho ông những lời hết sức đẹp
đẽ: Exenhin la “chàng thiên thần của những mục đồng ”, “nhà tiên tri của nông
dân ”, “ người tình của những cây bạch dương, ca sĩ của đồng quê”, “người bạn
thân của các con vật ”va họ lí giải khía cạnh “con người đen”, “tên du đãng”,
“kẻ gây gổ vô tích sự” ở phương diện cái tôi cô đơn đau đớn trước thực tại nước
Nga thời đó. Đúng như N.Chikhanôp đã nhận xét: “Thơ anh là sự cảm nhận sâu
sắc về thế giới, đó không chỉ là thế giới của niềm vui,nỗi buồn của những xúc
cảm lơn lao và ở đó có sự khao khát mãnh liệt thực sự về tình yêu, lòng dũng
cảm, sự táo bạo, và cả những âu lo trăn trở về nước Nga. Anh yêu và ca ngợi sự
sống bằng tất cả sự chân thành của mình” [
]
Iu. N. libêdinxky rất tinh tế khi nhận thấy đàng sau những nét bề ngoài của
Exenhin ẩn chứa một “tiểu vũ trụ” phức tạp với những tâm sự dường như luôn
được dấu kin: “những bức chân dung còn giữ được nói chung truyền đạt được
những nét đáng yêu trên gương mặt anh, nụ cười anh, khi thì hồn hậu, khi thì
ngổ ngáo. Nhưng không có một bức nào trong số đó truyền đạt được nét biểu
hiện một cách đặc biệt thể trạng mệt mỏi tâm hồn, vẻ u dột thế nào ấy, đôi khi
dương như cái bóng hiện lên trên gương mặt anh” [
]
L. Ersốp bắt đầu nhận ra tư tưởng lớn lao nơi thơ ông khi ông này cho rằng:
“Thơ trữ tình Exenhin chủ yếu có tính tâm tình độc bạch” và những bài thơ tâm
tình nhất của ông được chiếu rọi bằng ánh sáng của lý tưởng nhân đạo cao cả” [
]
Iu.L . Prôkusép nhận thấy trong thơ Exenhin có nhiều tính chất tự thuật “Đó là
lời bộc bạch trung thực và dũng cảm của nhà thơ” [
]
Gordan Macvay đã nhìn nhận Exenhin ở góc nhìn của một nhà văn hóa lớn,
ông khẳng định: “Exenhin nổi lên như một hiên tượng lạ trong văn học” mà “tên
tuổi đã nhanh chóng đi vào huyền thoại” không chỉ nhân thấy tầm vóc lớn của
thi nhân, tác giả cũng đánh giá một cách chính xác bản chất của thơ Exenhin:
“Thơ Exenhin có tính tự thuật và tính tự thú cao” [
]
Hầu hết các nhà nghiên cứu trên đều chỉ ra nét đậm trong thơ Exenhin là chất
trữ tình đằm thắm và tính tự thuật – vôn là chiều sâu tâm hồn thi sĩ. Tuy nhiên
chua ai đi sâu vào thế giới nghệ thuật thơ Exenhin để thấy được vẻ đẹp thuần
khiết của đất nước và con người Nga được ông thể hiện trong thơ. Cũng chua ai
lí giải cặn kẽ những căn nguyên của nỗi niềm day dứt ngẹn ngào trong thơ ông.
Người viết đề tài này sẽ lấy những đánh giá xác đáng của những nhà nghiên cứu
đó để đi sâu vào thế giới nghệ thuật thơ Exenhin, thẩm định lại giá trị của nó, cố
gắng tìm ra những ẩn số còn là bí mật đối với giới phê bình văn học.
Từ những năm 1960, thơ Exenhin đã đến với độc giả Việt Nam qua bản
dich của nhiều dịch giả như: Thúy Toàn, Đăng Bẩy, Tế Hanh, Bằng Việt, Xuân
Diệu,… và nhanh chóng đi vào tâm hồn Việt như là một tất yếu không thể nào
khác được. Bởi lẽ giưa thơ Exenhin và tâm hồn người Việt có một nét chung nào
đó. Đấy phải chăng chính là sự “đồng điệu giữa tình yêu thiên nhiên,yêu quê
hương bất tận ở Exenhin và cái căn tính hướng về làng quê nơi nguồn cội trong
tâm linh người Việt” như Nguyễn Hồng Lương đã nói.
Nhà thơ Bằng Việt đã nhận thấy quá trình chuyển biến âm thầm mà
khốc liệt của hôn thơ Exenhin: Từ “ Tình yêu say đắm thiên nhiên và đời sống
nông thôn Nga”, “ Thấp thoáng một nỗi buồn nhớ về quá khú lo lắng cho lối
sống nông thôn thuần khiết đang mất dần sau những biến động xã hội” trong
những bài thơ đầu đến “ tâm trạng buồn chán thất vọng” khi cách mạng tháng
mười đến, rồi chan chứa tình yêu tổ quốc” trong những năm 1922 - 1925 rồi
“đong lại một nỗi thật trầm” trong những phút cuối đời. Lúc này tâm trạng của
nhà thơ Nga thật phức tạp, nó “thể hiện sự nhạy cảm quá mức, không kiểm soát
được, không giữ được cân bằng trong thế giới nội tâm, đồng thời cũng thể hiện
sự ngơ ngác chưa thực sự nhâp cuộc với những biến đổi lớn lao của đời sống …
[
]
Thúy Toàn người đầu tiên giới thiệu Exenhin sang tiếng Việt đã chi ra
mối quan hệ giữa thơ và đời, giữa thơ và thời đại lịch sử: “ toàn bộ thơ trữ tình
Exenhin là một câu chuyện do chính nhà thơ kể về mình. Đây là số phận một
con người bi kịch, đầy những mâu thuẫn của một thời đại đầy biến động. Đây là
một trái tim con người đập mạnh trần trụi phô ra trước mọi người và qua đó ta
cũng thấy được cả cuộc sống của xã hội Nga vào thời đại giông bão đầu thế kỉ
XX…” [
]
Nguyễn Hải Hà người có công đầu tiên đưa Exenhin vào giảng dạy ở
nhà trường Việt Nam đã bắt đầu đi sâu vào khám phá thế giới nghệ thuật thơ của
thi sĩ. Với các bài: “Quê hương trong Exenhin”, hình ảnh bà mẹ trong thơ
Exenhin , “giá trị bài thơ thư gửi mẹ của Exenhin” ông đã chỉ ra hai phương
diện quan trong nhất của cái tôi trữ tình Exenhin la: cái tôi trữ tình phong cảnh
làng quê Nga và sự biểu hiện những khủng hoảng tinh thần trong cuộc đời nhà
thơ. Bà nhận xét: “Những trăn trở trong thơ Exenhin cho thấy quá trình chuyển
mình từ “người thi sĩ cuối cùng của làng quê Nga” để trở thành thi si cuối cùng
của nước Nga - Xô Viết” thật không đơn giản. Nhà thơ đã bộc bạch một cách
trung thực và dũng cảm những mâu thuẫn phức tạp trong con người mình.
Exenhin phải trải qua một cuộc đấu tranh vật lộn dữ dội với chính bản thân mình
để vượt lên chính mình” [
]
Đoàn Minh Tuấn trong bài giảng phỏng vấn: “những dòng thơ như là số
phận” đã hơn một lần thừa nhận sức ám ảnh cửa Exenhin là do sự chân thành
của thi sĩ: “trong thơ Exenhin có sự chân thành đén kỳ lạ”, “một sự chân thành
đến kỳ lạ”, “ một sự chân thành đến xót xa”… Với sự tri âm đó, dịch giả đã đem
đến cho bạn đọc “một số nét còn ít được biết đến của nhà thơ” khiến bạn đọc “
hiểu hơn, yêu hơn những gì mà nhà thơ trải qua trong cuộc đời ngắn ngủi và bi
thảm của ông” [
]
Trong cuốn “Nét đẹp Nga trong thơ văn va ngôn ngữ Nga” Trần Vĩnh
Phúc đã đi sâu hơn nữa vào thế giới nghệ thuật thơ Exenhin và phát triển ra sự
phức tạp trong việc bộc lộ cảm xúc và thể hiện thế giới hinh ảnh thơ, nhưng ông
mới chỉ nhận thấy khía cạnh bi quan chán nản của nhà thơ mà không thấy được
chiều sâu của dòng cảm xúc trong thơ Exenhin là tình yêu vô tận với đất nước
và con người Nga.Tác giả này cũng rất có lý khi cho rằng: “Exenhin với sức
mạnh nghệ thuật phi thường đã thể hiện trong thơ mình những tình cảm nổi loạn
và những tâm trạng mâu thuẫn của quần chúng nhân dân ở thời đại lớn, phức tạp
của những biến đổi cách mạng lịch sử”. [ 24, 36 ]
Hồng Thanh Quang trong bài “ không sống thì không thể chết” khi đi
vào lí giải căn nguyên của những mâu thuẫn không thể hóa giải của thi nhân đã
mơ hồ nhận thấy, cái cốt yếu trong thơ Exenhin không chỉ có nội dung phản ứng
lại thời cuộc mà sâu săc hơn ở tình yêu quê hương đất nước: “sinh thời Exenhin
chênh vênh giữa hai trạng thái ham sống tột cùng và cũng chán sống tột cùng.
Nhà thơ được ví như cây đại phong cầm của nước Nga, làm rung lên những giai
điệu thuần khiết nhất của dân tộc Nga là tư tưởng vĩ đại đã phải mang trong
mình một tâm hồn luôn náo động, vì quá ham sự thanh khiết nên bị vướng vào
vòng tục lụy”
Đỗ Lai Thúy thì tiếp cận Exenhin từ góc độ triết học và cũng đã có một
vài phát hiện quan trọng về nhà thơ < Bài “Exenhin nhìn từ phía đông – thơ trữ
tình triết học”
Gần đây, thơ Exenhin trở thành đối tượng nghiên cứu say mê của sinh
viên khoa văn trường đại học sư phạm Hà Nội. Luận văn thạc sĩ của Đào Anh Lê
nói về “ thơ trữ tình phong cảnh” của Exenhin khóa luận tốt nghiệp của Vũ Thi
Thư nói đến “nỗi buồn trong thơ X. A. Exenhin”.
Bài tập niên luận Vũ Thùy Dung nói về “cái tôi tự thú trong thơ
Exenhin”. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Hồng Lương nói về “ tính tự thú trong
thơ Exenhin từ 1947 - 1925”. Các tác giả này đều đề cập đến con người cá nhân
của thi sĩ trong cuộc chuyển mình dữ dội của lịch sử. Tác giả Nguyễn Hồng
Lương đã tra cứu mục: “s. Exenhin” trên mạng internet và tìm được 265.000 kết
quả có liên quan tới nhà thơ. Điều đó đã khẳng định chắc chắn về vị trí của
Exenhin trong nền văn học Nga va văn học thế giới. Không còn nghi ngờ gì nữa,
Exenhin là một nhà thơ lớn, thơ ông có sức ảnh hưởng rộng. Đã có nhiêu người
nghiên cứu Exenhin nhưng đó mới chỉ là nhưng bài viết lẻ tẻ, không thống nhất
trong cách nhìn và cách đánh giá nhà thơ. Một số tác giả đã nghiên cứu Exenhin
theo vấn đề nhưng nhìn chung chưa có độ sâu và chưa có sức bao quát. Hầu hết
các tác giả nói trên đều quan tâm đến khía cạnh Exenhin chứng nhận của một
giai đoạn lịch sử đầy biến động và chỉ ra bi kịch tinh thần của nhà thơ khi ông
đang “trăn trở day dứt, vật lộn với chính bản thân mình để hòa nhận với cuộc
đời” ít người trong số họ nhắc tới những vần thơ trong sáng thể hiện sự thanh
khiết của một tâm hồn, sự tinh tế trong việc cảm nhận thế giới ngoại cảnh của
thi sĩ.
Tác giả Đoàn Hương, khi đi tìm những nét đặc sắc trong thế giới nghệ
thuật thơ Nguyễn Bính đã có liên hệ tới Exenhin. Bà khẳng định: “xét về vị trí
của hai nhà thơ trong nền văn hóa dân tộc thì có những nét gần gũi nhau, giống
nhau và lí giải nguồn gốc của sự tương đồng: cả hai người đều tìm đến văn hóa
dân gian để trở thành những nhà thơ chân quê [ 579, 25 ]. Điều đó đã gợi mở
những điều hết sức mới mẻ về nhà thơ Nguyễn Bính đồng thời giúp chúng ta co
một cách nhìn và cách đánh giá thơ Exenhin trên một góc đọ khác. Với đề tài
X. A Exenhin và Nguyễn Bính nhìn từ góc độ so sánh loại hình, nhười viết sẽ
chỉ ra những nét đặc sắc về thế giới nghệ thuật thơ Exenhin trong tương quan
với thế giới nghệ thuât thơ Nguyễn Bính. Từ đó làm rõ đặc trưng của văn hóa
truyền thông mà mỗi nhà thơ trên tiếp nhận. Có thể thấy đây là một hướng đi
mới trong việc nghiên cứu một nhà thơ Nga vĩ đại trên cơ sở những lời nhận
định những bài viết trên làm định hướng, người viết hi vọng sẽ góp một tiếng
nói nhỏ vào việc thẩm định văn chương và khơi mở những gì còn chìm sâu trong
bí mật về Exenhin.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, người viết đề ra cho mình những nhiệm vụ sau:
Góp phần khẳng định thêm giá trị của thơ Exenhin và thơ Nguyễn Bính
trong nền văn học thế giới đồng thời chỉ ra sự gặp gỡ ngẫu nhiên mà kỳ lạ giữa
hai nhà thơ vốn có sự cách biệt về không gian và thời gian văn học. Từ đó chỉ ra
những nét đặc sắc riêng của mỗi người trong dòng chảy lịch sử văn học dân tộc
và văn học thế giới.
Trên cơ sở so sánh với thơ Nguyễn Bính để khám phá những giá trị thẩm
mĩ còn chưa được hiểu hết trong thơ Exenhin, khám phá chiều sâu tư tưởng
trong thế giới nghệ thuật thơ của Exenhin cũng như nhận diện rõ hơn một số đặc
điểm phong cách nghệ thuật của nhà thơ này.
3. Phạm vi đề tài và đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi
Thật khó có thể nhìn nhận một cách thấu đáo và toàn diện về sự gặp gỡ
giữa Exenhin và Nguyễn Bính trong dòng chảy của nền văn học thế giới nếu
không có một vài hiểu biết về đời thơ và cuộc đời thực của tác giả. Ở đây người
viết không nghiên cứu thơ họ từ góc nhìn “dánh giá” để chỉ ra sự hơn thua về tài
năng nghệ thuật mà đi từ góc nhìn của một người say mê văn học, để chỉ ra sự
độc đáo trong mỗi hồn thơ.
Sự nghiệp sáng tác của Exenhin và Nguyênc Bính đều rất đồ sộ, sẽ là quá
sức nếu đi vào toàn bộ sự nghiệp sáng tác ấy, vì vậy, để cho đề tài mang tính tập
trung và có sức thuyết phục, người viết sẽ chỉ khảo sát một số bài thơ viết về quê
hương, về mẹ, và một số bài thơ trữ tình khác. Phạm vi nghiên cứu cụ thể là hai
tập thơ: “thơ Exenhin - Thúy Toàn chủ biên - nhà xuất bản văn hóa” và : Nguyễn
Bính - thơ và đời – NXB văn hóa.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Những nét tương đồng và khác biệt về hồn thơ và thế giới nghệ thuật thơ
của Exenhin và Nguyễn Bính từ góc nhìn của so sánh loại hình.
4.Phương pháp nghiên cứu:
Thực hiện đề tài này người viết sử dụng những phương pháp sau:
- Phương pháp tổng hợp phân tích
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp nghiên cứu tiểu sử
- Phương pháp so sánh
5.Cấu trúc:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận được triển khai trong hai chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về lí luận so sánh.
Chương 2: X.A.Exenhin và Nguyễn Bính nhìn từ góc độ so sánh loại hình.
NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề chung về lí luận so sánh.
1.1.
Khái quát về văn học so sánh.
1.1.1. Khái niệm:
Theo Lại Nguyên Ân thì “văn học so sánh” là một chuyên ngành văn
học sử nghiên cứu sự giống và khác nhau, tương quan và tương tác, liên hệ và
ảnh hưởng của các nền văn học khác nhau trên thế giới [
].
Sự xuất hiện của văn học so sánh đã không được chào đón nồng nhiệt,
thậm chí có người đã phản đối nó, bởi họ không thấy được rằng “ mọi nền văn
học định kỳ đều cảm thấy nhu cầu quay nhìn ra nước ngoài” (Goethe) .Khi mà
văn học so sánh không còn tồn tại thì người ta lại nhận ra những yêu cầu bức
thiết cần có nó. Đó là cái vòng luẩn quẩn nhưng là biện pháp hữu hiệu để đi tìm
những giá trị vĩnh hằng của đời sống. Sự giẫm đạp của các bước đi sẽ ít nhiều
kinh nghiệm cho các nhà nghiên cứu văn học.
Thế kỷ XXI, văn học so sánh được chú ý nhiều hơn bởi sự giao thoa văn
hóa ngày càng rộng, nhu cầu tìm hiểu mối liên hệ giữa các nền văn học càng
lớn. Từ đây nhiều người đã quay nhìn lại những chặng đường mà văn hóco sánh
đã đi qua để trầm trồ và thán phục.
1.1.2. Lịch sử ra đời.
Thuật ngữ “ văn học so sánh” sinh ra trên đất Pháp, sau đó lan sang các
nước Châu Âu khác, là một thuật ngữ ít được nhiều người biết đến. Mãi sau này
khi nhu cầu nghiên cứu sự giao thoa ảnh hưởng giữa các nền văn hóa văn học
lớn trên thế giới trở thành bức thiết thì thuật ngữ này mới được nói đến nhiều
hơn.
Trong “tuyên ngôn của Đảng cộng sản”(1847), Mác và Angel đã chỉ ra
xu thế vận động của nền văn học thế giới. Đó là xu thế thoát khỏi trạng thái
“khép kín” “giữ mình” của các dân tộc để hòa mình vào sự phát triển chung của
nhân loại. Và hai ông đã đưa ra một kết luận xác đáng: “ Tính phiến diện và tính
hạn chếcủa dân tộc cũng ngày càng trở nên khó tồn tại và thế là từ nền văn học
của các dân tộc và địa phương đã hình thành một nền văn học toàn thế giới”. Kết
luận của Mác – Angel đã có tính chất định hướng cho các nhà nghiên cứu sau
này.
Nhiều người trong khi nhấn mạnh tính dân tộc của các nền văn học đã
nhầm lẫn khi cho rằng : Văn học thế giới chỉ là số cộng của các nền văn học.
Thực chất văn học thế giới là những cái chung và cái tốt đẹp của loài người rút
ra từ các nền văn học dân tộc khác nhau. Điều này đã được nhiều người kiểm
nghiệm và chứng minh qua lịch sử nghiên cứu văn học.Bưu Nam đã khẳng định:
“Nền văn học thế giới ấy không giản đơn là tổng cộng của các nền văn học tách
biệt,cũng không phải là sự hòa tan các nền văn học dân tộc vào cái gọi là văn
học thế giới vô bản sắc mà là một tổng thể văn học các dân tộc đa dạng, có bản
sắc riêng, nhưng có chung những mối liên hệ thời đại địa phương và xu thế phát
triển.(…………………….).
Không chỉ ngẫu nhiên mà từ năm1827, nhà văn lãng mạn Đức Gocthe đã
chủ trương phát triển văn học thế giới: ” …Nếu người Đức chúng ta không nhìn
vượt ra ngoài các khung biên giới hạn hẹp của chúng ta, thì không có gì dễ bằng
việc chúng ta rơi vào căn bệnh tự phụ thông thái rởm”, tuy nhiên ông cũng cực
đoan khi cho rằng : “Ở thời đại chúng ta, văn học dân tộc không còn có ý nghĩa
gì nhiều, bây giờ là thời đại của văn học thế giới và mỗi chúng ta cần phải góp
phần làm cho thời đại đó hình thành càng sớm càng tốt” (sách?trang?….)
Đây là cơ sở đầu tiên cho sự ra đời của bộ môn văn học so sánh. Sau này
phương pháp so sánh cũng được nhiều ngành khoa học áp dụng hơn đặc biệt là
ngôn ngữ học so sánh và folclo so sánh.
Như vậy, bộ môn văn học so sánh đã có một cơ sở vững chắc để tồn tại
và khẳng định mình. Không có lí do gì để người ta có thể phủ nhận sự tồn tại
của nó. Và chúng ta có thể hình dung quá trình phát triển của bộ môn văn học so
sánh qua các chặng đường lịch sử như sau:
Nửa cuối thế kỉ XIX: là giai đoạn hình thành và khẳng định. Ở giai đoạn
này có công lao của các nhà sử gia văn học Anh, Pháp, Đức, Thụy sỹ, Italia.
Nửa cuối thế kỷ XX: là giai đoạn chủ yếu của sự ảnh hưởng vay mượn.
Ở giai đoạn này nổi bật lên một số trường phái thực chứng lịch sử của một nhóm
các nhà nghiên cứu so sánh người Pháp, đại diện
của nó là Fernaud, Paul van, Tieghem… Đây là giai đoạn mà văn hóco sánh rơi
vào khủng hoảng vì có những ngộ nhận giữa so sánh văn học và văn học so
sánh.
Nửa sau thế kỷ XX, chúng ta lại chứng kiến một sự phục hồi và phát
triển mãnh mẽ của văn học so sánh trên thế giới. Và ngày nay ngành họ này đã
mang tính toàn cầu và toàn diện hóa, dù rằng vẫn chưa hết những khó khăn song
dường như con đường đi ngày càng rõ, càng thoáng, càng mở ra những triển
vọng mới. Đây được coi là giai đoạn hoàn chỉnh bộ môn văn học so sánh bằng
cách mở rộng đối tượng nghiên cứu của nó sang lĩnh vực các hiện tượng tương
đồng.Ở đây phải kể đến công lao chủ yếu của V.zhir munki và R.E’tiemble. Đặc
biệt Zhimunsxki đã nhắc đến thuật ngữ “loại hình”. Ông nói khi nghiên cứu các
trào lưu tiến hóa văn học quốc tế ,chúng ta cần phân biệt những điểm tương
đồng về loại hình với những sự du nhập văn học hoặc sự ảnh hưởng” ( theo
Nguyễn Văn Dân).
Trong quá trình phát triển văn học so sánh cũng đã hình thành các trường
phái so sánh khác nhau:
Trường phái Pháp: nghiên cứu sự ảnh hưởng, đại diện tiêu biểu là
P.V.Tieghen, J.M.carre’, M.F.Guyard.
Trường phái Hoa Kỳ: Nghiên cứu song song .Đại diện tiêu biểu là
J.Wellec, H.Levin
Trường phái Nga - Xô: Chú ý đến sự tương đồng và sự phát triển của
lịch sử nhân loại, là tiền đề cơ bản cho việc nghiên cứu so sánh các nền văn học
dân tộc.
Giữa thế kỷ XX, hiệp hội văn học so sánh quốc tế được thành lập tại đại
học Oxford (1954) và đại hội lần thứ 1 của hiệp hội họp vào hạ tuần tháng 9 1955 ở Veniríe (Italia). Đó là một thành công lớn của bộ môn văn học so sánh
nói riêng và nền văn học so sánh nói chung.
1.1.3.Văn học so sánh ở VIệt Nam.
So sánh văn học là một hiện tượng chung của tất cả các nền văn học trên
thế giới. Ở Việt Nam bộ môn văn học so sánh cũng đạt được những thành tựu
đáng kể.
Một thực tế cho thấy nền văn học Việt Nam ta từ xưa cho tới nay chưa
bao giờ là một nền văn học cô lập, biệt lập với ảnh hưởng và tác động từ bên
ngoài. Sớm khẳng định bản sắc của mình hàng nghìn năm trước, văn học Việt
Nam đã biết giao lưu và hội nhập quốc tế. Điều đó được thể hiện trong tất cả các
giai đoạn văn học.Từ thời cổ đại, dấu vết giao lưu được thể hiện rất rõ ràng
trong các câu tục ngữ dân ca, đến các thiên truyền thuyết cổ tích. Thời trung đại
dấu vết giao lưu đậm hơn, thậm chí có thể nói từ sự giao lưu và hội nhập văn
học với văn học phương đông đặc biệt là Ấn độ à các dân tộc khác mà đã hình
thành phát triển văn học Trung Đại Việt Nam.Chúng ta không có gì phải mặc
cảm khi thừa nhận truyền thống cổ điển Trung Hoa - Ấn Độ trong văn hóa văn
học Việt Nam, giống như truyền thống Hy Lạp – La Mã đối với văn hóa văn học
phương Tây. Điều đáng quí là sự tiếp biến các giá trị bên ngoài không làm biến
chất các bản sắc tự thân mà lại bổ sung tăng cường cho nội lực, nội sinh của văn
học dân tộc. Sang thời kỳ cận đại và hiện đại cũng vậy “ Phương Tây đã vào chỗ
sâu nhất trong tâm hồn Việt Nam”(Hoài Thanh) song điều đó đã làm cho Việt
Nam càng Việt Nam hơn. Và Trần Thanh Đạm đã khẳng định: “Nền văn học
hiện đại Việt Nam đã ra đời và phát triển từ sự giao lưu, hội nhập gian nan, đầy
mâu thuẫn, nghịch lý với văn hóa Pháp và Phương Tây, và sau này cả văn học
thế giới”.
Có thể thấy văn học so sánh ở Việt Nam mang tính quá trình. Ban đầu nó
chỉ những hiện tượng đơn lẻ nhằm khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc trong sự
giao lưu hội nhập với nền văn hóa thế giới. Sau này, nó được mở rộng và trở
thành một chuyên ngành không thể thiếu trong nghiên cứu văn học. Điều này có
thể lý giải bằng dòng chảy lịch sử. Cụ thể là, trong hàng nghìn năm Bắc thuộc,
bên cạnh việc vay mượn học hỏi văn hóa của người Hán, người Việt cũng luôn
có ý thức giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Sự tiếp nhận, ảnh hưởng
và sự tự khẳng định bản sắc văn hóa đã làm cho người Việt luôn tồn tại ý thức so
sánh.
Thật thế, trong suốt thời trung đại, thơ ca người Việt luôn mang âm
hưởng Đường thi, thậm chí dùng những điển cổ, điển tích của văn học Trung
Quốc để làm chất liệu văn học. Mặt khác chúng ta cũng ý thức được rằng chúng
ta học hỏi được ở họ những gì và sáng tạo thêm những gì. Từ thế kỉ XVIII, Lê
quí đôn đã viết :” nước Việt Nam ta mở mang nền văn minh vốn không kém
Trung Hoa…”. Trong bài tựa “ Quốc âm từ điệu” Phạm Đình Toác đã cho rằng
cần phải phân tích thể thơ lục bát để thấy cái hay của ngôn ngữ thơ ca Việt nam,
thấy khả năng tranh đua của nó với thơ ca Trung Quốc (dẫn theo Nguyễn Văn
Dân).
Ý thức so sánh nói trên tồn tại xuyên suốt trong quá trình văn hóa lịch
sử Việt Nam. Ở đây các học giả cổ điển Việt Nam đã so sánh bằng cách phân
tích các đặc điểm đặc thù của hai hiện tượng văn hóa văn học quốc tế được đem
so sánh. Đây cũng chính là tiền đề tư tưởng rất quan trọng cho văn học so sánh
của nước ta sau này.
Đầu thế kỉ XX, vị trí chữ quốc ngữ được khẳng định ý thức so sánh được
chuyển từ so sánh Việt Hoa sang so sánh giữa Phương Đông với Phương Tây
nói chung và người Việt Nam với Phương Tây nói riêng.
Trong bài “Một thời đại trong thi ca” ( thi nhân Việt Nam) lần đầu tiên
Hòai Thanh đã tiến hành so sánh một cách có hệ thống phong trào thơ mới với
thơ ca phương Tây. Ông đã cho thấy sự ảnh hưởng của thơ pháp với thơ mới là
một nguồn ảnh hưởng quan trọng bên cạnh nguồn ảnh hưởng của thơ ca truyền
thống dân tộc, tức là chú ý đến tính chủ động sáng tạo của nhân tố tiếp nhận.
Ông nói :”… mỗi nhà thơ Việt hình như mang nặng trên đầu dăm bẩy nhà thơ
pháp…” nhưng rồi ông khẳng định : “ Thơ văn Pháp không làm mất bản sắc
Việt Nam”. [ 21,38 ].
Trong cuốn “nhà văn hiện đại Việt Nam” - Vũ Ngọc Phan đã phê bình
quan điểm so sánh luận của Hoài Nam như sau: “Đặt thi sĩ Việt Nam dưới sự
ảnh hưởng những văn hóa Âu - Mĩ, tức gần như đặt họ theo theo khuynh hướng
của mình. Sự thật ảnh hưởng của thơ văn không phải dễ dàng như thế. Nhiều khi
chính những thi sỹ Việt Nam ấy cũng không biết mình đã chịu ảnh hưởng của
Samain, của Gide hay của Valery là những người chưa chắc họ đã đọc … Tư
tưởng của nhân loại rải rác khắp trên mặt địa cầu, nhiều khi có những chỗ giống
nhau mà không cứ phải là tư tưởng vĩ nhân. Vậy nên ta đặt thi nhân Việt Nam
vào hoàn cảnh Việt Nam mà xét thơ ca của họ, có lẽ thú vị hơn và đúng sự thật
hơn”. [ 22,141 ].
“ Một điều thú vị hơn ở đây là Vũ Ngọc Phan đã đi trước các nhà so sánh
luận thế giới về quan điểm so sánh tương đồng. Ông đã khuyến cáo trước rằng
nhà so sánh luận cần xác định rõ đâu là ảnh hưởng thực sự, đâu là sự giống nhau
đơn thuần (Nguyễn Văn Dân).
Từ quan điểm của Vũ Ngọc Phan đã có rất nhiều công trình khác nói về
các xu hướng của văn học so sánh. Tuy nhiên đó mới chỉ là những ý kiến lẻ tẻ
tập trung trong một bài viết ngắn. Sau này đã có rất nhiều công trình tiến hành
so sánh các hiện tượng văn học có sự ảnh hưởng lẫn nhau một cách có hệ thống
hơn. Chu Văn Sơn trong khi tiến hành Hoa ác của Baudelaire thì không có Hàn
Mạc Tử…
Nguyễn Thị Bích Hải trong khi phác thảo những nét tương đồng và dị
biết của ba thể thơ: tuyệt cú, hai kư và lục bát đã phát hiện ra sự giao thoa giữa
các nền văn hóa Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam đã có từ rất lâu…
Văn học so sánh ở Việt Nam cũng nằm trong xu thế chung của nền văn
học thế giới – tức là các bước đi của nó không tuần tự và có khi rơi vào khủng
hoảng. Có rấ nhiều người đã nhầm lẫn ngộ nhận khi muốn khẳng định sức mạnh
của văn hóa dân tộc đã phủ nhận những ảnh hưởng từ bên ngoài. Tất nhiên sự
khủng hoảng của văn học so sánh ở Việt Nam nói riêng và trong nền văn học thế
giới nói chung chỉ là một bước tự hoàn thiện mình của văn học so sánh bởi bất
cứ sự đi lên nào cũng cần có một bước đi tuần tự. Từ sự ra đời cho đến khi nó
đạt được một vài thành tựu nào đấy là cả một quá trình đau xót giống như tác
phẩm văn chương tự mài mòn qua thời gian khắc nghiệt để tự khẳng định giá trị.
Cho đến nay, văn học so sánh đã có một vai trò rất lớn trong lịch sử
nghiên cứu văn chương. Nhà nghiên cứu Bửu Nam khẳng định: “Thế kỉ XXI
được xem như thế kỉ đăng quang của ngành văn học so sánh, một lĩnh vực đầy
sức sống và triển vọng nhất trong khoa nghiên cứu văn học và khoa học nhân
văn. Sự đăng quang này phù hợp với tinh thần thời đại: một tinh thần thế giới
hóa, toàn cầu hóa, quốc tế hóa, một thời đại nhấn mạnh đến giao lưu quan hệ đa
phương đa chiều, hợp tác và hội nhập để phát triển như một xu thế chung của
các nước trên thế giứi. (T29 - văn học so sánh - nghiên cứu và triển vọng).
Những thành tựu mà văn học so sánh đạt được có sự đóng góp của so
sánh loại hình - một phương pháp nghiên cứu độ đáo được các nhà nghiên cứu
Nga Xô chỉ ra vào thế kỉ XX.
1.2.So sánh loại hình với một lối đi riêng.
1.2.1.Khái niệm: Trước tiên cần phải hiể thế nào là so sánh loại hình. So sánh
loại hình là một phương pháp nhằm chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt
giữa các nền văn học cách xa nhau về không gian và thời hian văn học.
1.2.2.Quá trình hình thành.
Thuật ngữ “so sánh loại hình” có một thời kì thai nghén khá lâu dài, từ
thời cổ đại qua plutak trải qua thế kỉ 18 đến những năm 60, phương pháp loại
hình mới chính thức được nhập vào văn học so sánh nhờ công lao của các nhà so
sánh luận Xô Viết.
Từ khi ra đời cho đến khi nó đạt được những thành tựunhất định thì cũng
có không ít những gian nan, Khrapchencô nhầm lẫn khi tách phương pháp loại
hình ra khỏ văn học so sánh. Phương Lựu không đồng tình với khrapchencô
nhưng chỉ gọi phương pháp này là khuynh hướng. Trần Văn Dân khẳng định
phương pháp loại hình không phải là con đẻ của văn học so sánh, nó có lối đi
riêng của nó. Quan điểm của Trần Văn Dân đã được khẳng định gián tiếp qua
nhiều bài báocủa nhà nghiên cứu khác. Bửu Nam trong bài :” Đặc trưng của văn
học so sánh” (tr30) viết: “Tính loại hình và tính khác biệt được xem như hai
thành tố cơ bản của văn học so sánh” . Quan niệm văn học thế giới như một giàn
hợp xướng khổng lồ của những khác biệt (altérité) của các nền văn học mỗi
quốc gia mà mỗi nền văn học như một nhạc cụ có âm sắc riêng trong dàn nhạc
văn học của khu vực hòa âm thành các giai điệu đặc sắc gắn với tổng thể chung.
Văn học so sánh vừa tìm cái chung cái tương đồng của thực tại văn học có tính
phổ quát, với phương pháp loại hình ( typologie) vừa tìm đến cái độc sáng, cái
bản sắc, cái đa dạng, cái khác biệt chung đó với phương pháp khu liệt. Có thể
nói văn học so sánh vừa hướng tới cái thống nhất, cái đơn nhất trong sự đa dạng
của những khác biệt để tìm đến khái quát các chuỗi (rériter) của cái chung. Sự
biện chứng giữa tính loại hình và tính khác biệt chính là sự biến chứng giữa cái
chung và cái riêng, cái phổ quát và cái độc đáo. Như vậy Bửu Nam trong khi
chia tách tính loại hình và tính khác biệt đã một lần nữa khẳng định con đường
riêng của so sánh loại hình.
Thế kỉ XVIII ở Châu Âu những người mở đường cho văn học so sánh đã
bắt đầu nghiên cứu những ảnh hưởng trong văn học từ đó họ tìm ra nguồn gốc
vay mượn để đánh giá nguồn gốc của ngừoi cho vay Vantieghem đã khẳng
định :”…Thuật ngữ “so sánh” cần phải trút bỏ mọi giá trị thẩm mĩ và nhận lấy
một giá trị lịch sử, còn việc tìm ra những điểm giống nhau giữa hai hay nhiều
tác phẩm chỉ là điểm xuất phát cần thiết cho phép chúng ta phát hiện một sự ảnh
hưởng, một sự vay mượn và từ đó có thể phần nào giải thích một tác phẩm thông
qua một tác phẩm khác ?(theo Nguyễn Văn Dân).
Có rất nhiều nhà nghiên cứu đã phê phán quan điểm của vantieghem và
chỉ ra những hạn chế của ông nhưng vẫn thừa nhận phương pháp lịch sử của
ông. Thực tế là văn học so sánh chỉ có thể thoát khỏi sự khủng hoảng bằng cách
tự phát triển, tự vượt lên những định kiến cũ và hạn chế để tìm đến những chân
trời mới và nó đã tìm đến một đối tượng khác, rất phong phú có ích cho nghiên
cứu văn học : nghiên cứu những điểm tương đồng ngoài quan hệ trực tiếp. Từ đó
việc tiếp cận văn học theo phương pháp so sánh loại hình ra đời ngẫu nhiên
nhưng là tất yếu đối với lịch sử văn học.
Lối đi riêng của văn học so sánh được thể hiện rất rõ trong hướng nghiên
cứu. Nếu như phướng pháp thực chúng đi tìm sự giống nhau giữa các hiện tượng
văn học quốc tế để từ đó rút ra mức độ ảnh hưởng và vay mượn trong văn học
còn phương pháp loại hình là nghiên cứu sự tương đồng lịch sử ( bao gồm tương
đồng cùng thời và tương đồng kế tiếp) và tương phi lịch sử.
Như vậy, việc nghiên cứu văn học theo phương pháp so sánh loại hình đã
mở ra những chân trời rộng rãi hơn so với việc nghiên cứu các mối quan hệ trực
tiếp. Nó góp phần lí giải tại sao, từ rất xa xưa có rất nhiều tác phẩm văn học vốn
không có mối quan hệ gì với nhau nhưng lại có những quan điểm tương đồng
đến kì lạ. Truyện Tấm Cám ở Việt Nam và một số truyện giân gian của người
Indonexia là như vậy, những sáng tác của Nam Cao so với những sáng tác của
Trekhôp cũng là như vậy…Nhiều người đã lí giải sở dỉ những tác phẩm văn
họcvà những hiện tượng văn học ấy có những điểm tương đồng vì tác giả này đã
chịu ảnh hưởng từ tác giả kia , tư tưởng quan điểm nghệ thuật thậm chí ảnh
hưởng cả cách viết và việc sử dụngngôn từ. Thực ra giải thích như vậy là có
phần không thỏa đáng bởi vì có những tác giả không hề đọc tác phẩm của mhau
mà những tác phẩm của họ vẫn có sự gặp gỡ. Trường hợp Nguyễn Bính và
Exenhin là như vậy. Ở đây chỉ có thể đặt sáng tác của hai nhà thơ, hai nhà văn
trong hoàn cảnh lịch sử xã hội mà xét - Phương pháp này cho phép chúng ta
vượt qua sự giống nhau “bề ngoài” đi vào sự giống nhau “bên trong” - sự giống
nhau bản chất trong sáng tác của họ. Từ đó mới có thể lí giải một cách đầy đủ và
thuyết phục sự tương đồng kì lạ và những nét khác biệt độc đáo của bất kì một
hiện tượng văn học nào.
Theo quan điểm như vậy, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu đi tìm mức độ
ảnh hưởng của nền văn học các nước khác vào nền văn học dân tộc.
Đào Tuấn Ảnh khi đặt Nam Cao và Trekhov bên cạnh nhau đã nhìn thấy
cả một điều kì diệu: Trekhov giống như một lăng kính lớn qua đó thấy rõ hơn
các góc cạnh sáng tác của Nam Cao, đồng thời cũng chỉ ra sự chuyển tiếp của
chủ Nghĩa hiện thực kiểu cổ điển sang một giai đoạn mới như là một qui luật
phổ cập trong văn học thế giới.
Phong Lê trng bài “Trekhov và nam Cao” - Nhìn từ hai nền văn học” đã
tìm ra một hành trình độc đáo Trekhov(1860-1940) - Lỗ Tấn(1881 - 1936) Nam
Cao(1917 - 1951) cho ta sự hình dung gắn nối Đông Tây, khu vự và nhân loại đã
có thể diễn ra trong bối cảnh mới của thời đại như thế nào để đến cùng một đỉnh
cao và điểm nối…
So sánh loại hình có một lịch sử riêng như vậy và những gì mà nó đem
lạicũng thật lớn lao. Nghiên cứu Exenhin và Nguyễn Bính theo hướng này
chúng ta phải đặt hai ông vào bối cảnh chung của thời đại lịch sử.
1.3.Sự tiếp xúc giữa văn học Nga và văn học Việt Nam.
Nền văn học Nga thật đồ sộ và có sức lôi quốn kỳ diệu. Sức mạnh nghệ
thuật của nó đã vượt qua biên giới hạn hẹp của một quốc gia và đến với nhiều
nước trên thế giới. Với văn học Việt Nam, văn học Nga cũng có những ảnh
hưởng nhất định. Để có thể khẳng định đó là sự ảnh hưởng trực tiếphay gián
tiếp, chúng ta phải đặt những tác phẩm văn học đó theo hệ thống, đồng thời đi
tìm sự thật lịch sử và sự thật cuộc đời đằng sau những tác phẩm đó. Chắc chắn
rằng giữa người Việt và người Nga không hề có những mối giao lưu văn hóa
trực tiếp nhưng từ rất lâu truyền thống và vẻ đẹp dân tộc Nga được người Việt
biết đến và một lòng ngưỡng mộ. Trong thời kì lịch sử đầy những biến cố dữ dội
thì sức mạnh của người Nga, tinh thần Nga có tác dụng cổ vũ rất lớn trong cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc của người Việt. Vậy thì thơ ca Nga đến với Việt
Nam bằng cách nào ? Phạm Tiến Duật đã nói đến con đường kì diệu thơ ca Nga
- đến với đát nước chúng ta là con đường đi qua các ca khúc Nga. Hàng loạt các
bài thơ đã để lại dấu ấn đậm trong lòng người Việt bằng giai điệu trữ tình ngọt
ngào của các khúc ca, bài thơ “ mình tôi đi trên đường”- của nhà thơ lermontop nhạc sĩ Trelop, bài thơ Cachiusa - (M.Isakovski) - do M.blanter phổ nhạc…
Không chỉ thế, thơ ca Nga còn đến với Việt Nambằng con đường nghien cứu và
dịch thuật. Có những bài thơ Nga khi được dịch ra tiếng Việt đã có sức hấp dẫn
lớn hơn nhiều so với nguyên tác ( bài thơ “đợi anh về” - Ximônốp - do Tố Hữu
dịch), theo Phạm Tiến Duật thì thơ ca Nga ảnh hưởng trực tiếp đến thơ Việt
Nam, biểu hiện trước hết ở hình thức thơ ,mà Maiacôpxki là đại diện tiêu biểu.
- Xem thêm -