Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tiết luyện nói trong chương trình ngữ văn lớp 7...

Tài liệu Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tiết luyện nói trong chương trình ngữ văn lớp 7

.PDF
20
90
107

Mô tả:

MỤC LỤC Mục 1.1 1.2 1.3 1.4 2.1 2.2 2.3 2.4 Nội dung Mục lục 1. Mở đầu Trang 1 2 2 3 4 Lý do chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu 2. Nội dung sáng kiên kinh nghiệm 4 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm 4 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 5 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề 6 - 17 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo 17 - 18 dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường 3. Kết luận, kiến nghị 18 - 19 Tài liệu tham khảo 20 1 1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã đưa ra Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, coi g iáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hô ̣i. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong đó có đổi mới phương pháp dạy - học môn Ngữ văn. Bản thân người học - học sinh phải hiểu môn học Ngữ văn trước hết là môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng tình cảm cho học sinh. Nhà văn hào Nga Mác – xim Gorơ ki nói: “Học văn là học làm người”. Học sinh học tốt môn Ngữ văn sẽ có tác động tốt đến việc học các môn khác, và ngược lại. Học tốt môn Ngữ văn không nhất thiết là đi theo nghề văn. Học tốt môn Ngữ văn sẽ giúp các em rất nhiều trong giao tiếp với đời sống gia đình và bạn bè, với đời sống xã hội. Từ đó chúng ta thấy môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường Trung học cơ sở, góp phần hình thành những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết thương yêu, quý trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật, trước hết trong văn học; có năng lực thực hành và năng lực sử dụng tiếng Việt như công cụ để tư duy và giao tiếp. Đó là những người có ham muốn đem tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở còn có nhiệm vụ hoàn thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong 4 dạng hoạt động, tương ứng với bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Xuất phát từ tình hình thực tế của việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong giờ dạy Ngữ văn nói chung và trong giờ luyện nói của môn Tập làm văn Ngữ văn 7 nói riêng trong nhiều năm trực tiếp giảng dạy và qua nhiều lần dự giờ đồng nghiệp bản thân tôi thấy việc tổ chức dạy - học tiết luyện nói còn nhiều hạn chế. Nghịch lý của giờ luyện nói vẫn thường xuyên xảy ra: giờ luyện nói là điều kiện tốt nhất để học sinh bày tỏ quan điểm, tình cảm, khả năng giao tiếp của mình trước bạn bè nhưng các em lại im phăng phắc, nép mình chờ nghe giáo viên chỉ định. 2 Dường như tính tự tin, hoạt bát thường ngày của các em đã biến mất, giờ học thật nặng nề. Đã có học sinh chân thành phát biểu rằng: “Một điều đáng sợ là phải học giờ luyện nói Tập làm văn!” Không có hứng thú trong giờ luyện nói thì làm sao rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh đây? Thiết nghĩ, đây không chỉ là sự trăn trở của riêng tôi mà là tất cả của giáo viên dạy Ngữ văn hiện nay. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài "Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tiết luyện nói trong chương trình Ngữ văn lớp 7". 1.2. Mục đích nghiên cứu Mục tiêu của dạy học môn Ngữ văn là hình thành những con người có ý thức, có tư tưởng tình cảm cao đẹp, có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mỹ và đặc biệt là có khả năng thích ứng với cuộc sống năng động trong xã hội hiện đại. Quan điểm tích hợp và tích cực luôn chi phối các hoạt động dạy học Ngữ văn, nhất là ở phần dạy các kĩ năng làm Tập làm văn. Một tiết dạy học Ngữ văn đạt hiệu quả trước hết phải tạo nên không khí hứng thú cho mỗi giờ học. Không khí đó chỉ có được khi người dạy biết đa dạng hóa các hình thức, biện pháp dạy học. Mặt khác, với tinh thần quan điểm dạy học mới, sách giáo khoa Ngữ văn không chỉ chú trọng nội dung mà còn chú trọng hình thức nhằm phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học. Để đạt được những mục tiêu trên và thực hiện theo yêu cầu của phương pháp dạy học mới, người dạy cần tổ chức cho học sinh học tập bằng các  biện pháp nhằm rèn cho học sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Trong đó kĩ năng nói là vô cùng quan trọng. Nói sao cho người nghe hiểu là điều không phải ai cũng thực hiện tốt. Người nói khi đã chuẩn bị đầy đủ nội dung trong đầu sẽ tìm cách bộc lộ, truyền đạt thông tin đó chính là “nói”. Muốn hoạt động nói có hiệu quả trong giờ học Ngữ văn, người dạy phải hướng dẫn rèn luyện cho các em, tập cho các em mạnh dạn trước tập thể. Nhiều khi các em có dự kiến trong đầu nhưng lại không nói ra được và người thầy sẽ không nhận xét đánh giá đúng về sự tiếp thu, cảm thụ của các em trong giờ học Ngữ văn. Vậy rèn kĩ năng nói cho học sinh là việc làm thiết thực vừa góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn vừa hình thành phong cách cho học sinh giúp các em mạnh dạn trước tập thể, có kỹ năng giao tiếp trong cuộc sống. Nói tốt là cơ sở quan trọng cho việc tạo lập văn bản tốt. Trong mục tiêu dạy học môn Ngữ văn Trung học cơ sở, chương trình môn Ngữ văn nhấn mạnh trọng tâm của việc rèn luyện kỹ năng Ngữ văn cho học sinh là làm cho học sinh có kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt thành thạo theo các kiểu văn bản và có kỹ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng lực cảm nhận và bình giá văn học. Chính vì thế, sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở đã chú trọng hơn tới việc hình thành và phát triển kỹ năng nói. Đây là một trong những điểm mới về quan điểm dạy học của môn học. Cụ thể là nội dung chương trình sách giáo khoa bố trí một số giờ luyện nói độc lập theo từng kiểu văn bản như sau: Lớp 6: Tiết 29 – Tuần 8 – Bài 7: Luyện nói kể chuyện Tiết 43 – Tuần 11 – Bài 1: Luyện nói kể chuyện 3 Tiết 83, 84 – Tuần 21 – Bài 20: Luyện nói về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả. Tiết 96 – Tuần 24 – Bài 23: Luyện nói về văn miêu tả Lớp 7: Tiết 40 – Tuần 10 – Bài 10: Luyện nói : Văn biểu cảm về sự vật, con người. Tiết 56 – Tuần : 14 – Bài 13: Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học. Tiết 112 – Tuần 28 – Bài 27: Luyện nói: Bài văn giải thích một vấn đề. Lớp 8: Tiết 42 – Tuần 11 – Bài 10: Luyện nói: Kể chuyện theo ngôi kể kết hợp với miêu tả và biểu cảm. Tiết 54 – Tuần 14 – Bài 14: Luyện nói: Thuyết minh một thứ đồ dùng. Lớp 9: Tiết 65 – Tuần 13 – Bài 13: Luyện nói: Tự sự kết hợp với nghị luận và miêu tả nội tâm. Tiết 140 – Tuần 28 – Bài 27: Luyện nói: Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ. Qua đó, ta thấy số lượng bài luyện nói trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở chiếm một tỷ lệ không nhỏ. 1.3. Đối tượng nghiên cứu Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tiết luyện nói trong chương trình Ngữ văn 7 Cụ thể là: häc sinh líp 7A , lớp 7C 1.4.Phương pháp nghiên cứu + Phương pháp quan sát. + Phương pháp điều tra giáo dục. + Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. + Phương pháp thực nghiệm sư phạm. + Xử lý thông tin bằng thống kê và biểu đồ. 2.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm Hiện nay, các nước trên thế giới rất coi trọng dạy học theo quan điểm giao tiếp. Đây là một trong những tư tưởng quan trọng của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông, lấy hoạt động giao tiếp là một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết. Nếu như nghe, đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận thông tin, thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường. Rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh trong giờ dạy học Tập làm văn là tăng tính thực hành ứng dụng đối với học sinh và khắc phục những hạn chế của chương trình cũ là quá chú trọng đến việc đọc viết hơn nghe nói của chương trình và sách giáo khoa cải cách giáo dục. Trọng tâm của việc rèn luyện kỹ năng nói trong giờ Ngữ văn 7 là giúp cho học sinh có được kỹ năng nghe, nói, đọc, viết - thực hành tiếng Việt tương đối 4 thành thạo. Đây cũng là sự cụ thể hoá tư tưởng dạy học theo lý thuyết giao tiếp. Điểm mới mẻ và cần lưu ý là chú trọng hơn tới cách tổ chức cho học sinh hoạt động để phát triển kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn. Luyện nói tốt sẽ giúp học sinh biết bộc lộ tư tưởng, truyền đạt thông tin trong hoàn cảnh giao tiếp khác nhau. Ai cũng biết ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Trong giờ luyện nói hiệu quả lao động của học sinh được cảm nhận trực tiếp qua ngôn ngữ. Giờ luyện nói có thế mạnh của một sinh hoạt giao tiếp tập thể, không như giờ làm văn viết là một hoạt động tĩnh, cá nhân. Không khí giờ làm văn miệng dễ kích thích hứng thú hoạt động của học sinh hơn, nếu giáo viên ý thức được vấn đề này. Về tâm lý, con người trong hoạt động tập thể bao giờ cũng năng động hơn. Có thấy rõ đặc thù của hoạt động luyện nói và đặc điểm tâm lý học sinh thì giáo viên mới tiến hành có hiệu quả giờ học vốn rất sinh động, hấp dẫn và hướng dẫn được những học sinh có tâm lý ngại ngùng phát biểu trước tập thể lớp. Giờ luyện nói là cơ hội tốt nhất để giáo viên hiểu về con người, tư tưởng tình cảm học sinh qua cách nói năng, diễn đạt... Nếu người thầy đóng vai trò chủ đạo hướng dẫn học sinh chủ động khám phá chiếm lĩnh tác phẩm văn chương, thì người học (học sinh) phải tự mình bộc lộ sự hiểu biết, phải biết phát triển tư duy thành lời - ngôn bản. Muốn cho người nghe hiểu cho được thì người nói phải nói cho tốt, nghĩa là nói phải có nội dung nói, đảm bảo mạch lạc, logic, phải tuân thủ các qui tắc hội thoại, phải chú ý đến các cử chỉ, nét mặt, âm lượng, …Vì thế, luyện nói là việc rất quan trọng trong quá trình dạy học văn, là biện pháp góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả của giờ dạy học Ngữ văn. Luyện nói tốt sẽ giúp người học sẽ có được một công cụ giao tiếp hiệu quả trong cuộc sống xã hội.          2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm Qua những năm thực hiện chương trình thay sách giáo khoa, ở bộ môn Ngữ văn, tiết dạy “Luyện nói” mặc dù nhiều giáo viên cũng đã cố gắng hết sức nhưng cũng ít người thành công qua tiết dạy. Bởi vì kinh nghiệm rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh chưa nhiều so với rèn luyện kỹ năng viết. Học sinh không tự tin khi nói trước đám đông. Thời gian luyện nói lại có hạn (45 phút) không tạo được điều kiện cho tất cả học sinh được nói. Và sách giáo viên cũng chưa có hướng dẫn cụ thể cho việc dạy rèn luyện kỹ năng nói. Do vậy mà trong một tiết luyện nói chỉ tập trung vào những em khá, giỏi, chăm còn những học sinh lười sẽ thụ động, không phát huy được. Dù có hoạt động thảo luận nhóm thì những em yếu cũng ngồi im. Kết quả yếu vẫn yếu, lười vẫn lười. Tâm lý chung, giáo viên rất ngại dạy tiết luyện nói, nhất là trình độ học sinh ở vùng sâu, vùng xa. So với yêu cầu của phương pháp dạy mới và những định hướng của sách giáo viên thì tiết dạy “luyện nói” và hoạt động nói của học sinh qua tiết dạy còn nhiều lúng túng chưa đạt yêu cầu như mong muốn.         Nhiều giáo viên có chú ý rèn kĩ năng nói cho học sinh song còn lúng túng trong khâu soạn giảng cũng như qui trình các hoạt động lên lớp. Một phần cũng do sách giáo viên không có hướng dẫn cụ thể. Khi  giáo viên có sự đầu tư cho tiết dạy và hướng dẫn cho học sinh chuẩn bị chu đáo thì việc tổ chức cho học sinh luyện 5 nói trong tiết luyện nói đạt hiệu quả cao. Không khí học tập của học sinh khác hẳn khi giáo viên thuyết giảng. Ở các em lộ rõ sự thích thú, tất cả như có một luồng điện vô hình nào đó được lan truyền cho cả lớp làm nóng lên không khí học tập. Nhiều em giơ tay xin được trình bày kết quả, cảm nhận tổng hợp và thật là thoả mãn với những kiến thức được chắt lọc rút ra từ chính sự hiểu biết của các em. Đó cũng là lúc giáo viên có điều kiện để điều chỉnh và phấn khích các em học tập, thực tế niềm vui đựợc giáo viên quan tâm sẽ cho các em thêm sự tự tin vào khả năng của mình là phải học tập tốt hơn, cố gắng hơn để được phát biểu, nói trước lớp trong lần sau.           Để tạo được động lực niềm tin nhằm kích thích ý thức học tập bộ môn Ngữ văn của các em trước hết người thầy giáo phải là người tìm ra được những biện pháp tối ưu kích thích khả năng nói để học sinh nói ra được những điều mình tư duy, cảm thụ trong giờ học văn bản cũng như trong tiết luyện nói. Đây cũng là kĩ năng vừa giúp các em thể hiện mình, tự bày tỏ những suy nghĩ cảm xúc những điều cảm thụ, phân tích, đánh giá một cách tự tin trước tập thể. Vừa là biện pháp có khả năng khắc phục đựơc những khó khăn, thực trạng mà chúng ta đang quan tâm. Từ đó nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn. BẢNG KHẢO SÁT CH ẤT LƯỢNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN SKKN Năm học Mức độ 2015-2016 Khả năng nói tốt trong tiết luyện nói Khả năng nói chưa tốt trong tiết luyện nói 7C : 42 học sinh 17/42 học sinh bằng 40,5% 25/42 học sinh bằng 59,5% 7A : 42 học sinh 12/42 học sinh bằng 28.6% 30/42 học sinh bằng 71.4% 2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề Với quan điểm dạy học theo phương pháp mới hiện nay đã nhấn mạnh: “Thầy chủ đạo, trò chủ động”, “Học sinh là chủ thể sáng tạo”. Để phát huy tính tích cực của học sinh, thì giáo viên phải làm tốt vai trò của người nhạc trưởng. Cụ thể để dạy được giờ luyện nói, giáo viên cần phải quan tâm đặc biệt đến những khía cạnh sau : 2.3.1. Xác định mục đích yêu cầu của tiết luyện nói Để cho học sinh có thể thực hiện tốt tiết luyện nói, giáo viên cho trước đề tài để các em về nhà soạn, hướng dẫn các em: Giúp các em chuẩn bị tốt nội dung, yêu cầu bài nói. Cách thức giao tiếp (Nói cho thuyết phục người nghe); nói cho có hiệu quả (Phải thu thập, lựa chọn điều cần nói); tạo tâm thế vững vàng khi nói: Tự tin, mạnh dạn; tác phong tự nhiên, giọng rõ ràng quán xuyến người nghe; Yêu cầu tập thể lớp chú ý lắng nghe, theo dõi ghi chép, nhận xét. 2.3.2. Lựa chọn nội dung trong tiết luyện nói 6 - Cần lựa chọn nội dung luyện tập một cách linh hoạt, đạt hiệu quả. - Vừa bám sát vào các bài tập ở sách giáo khoa vừa vận dụng tình hình, đặc điểm cụ thể để có thể thay đổi, thêm bớt bài tập cho phù hợp. 2.3.3. Vai trò của giáo viên và học sinh trong tiết luyện nói - Học sinh : Trong tiết luyện nói, người hoạt động chủ yếu là học sinh. Học sinh phải là những chủ nhân thực sự, chiếm lĩnh hầu hết các hoạt động trong tiết học. Các em tựa như những diễn viên hoàn toàn làm chủ sân khấu với những hình thức phong phú, đa dạng : độc thoại, đối thoại, diễn trò, đóng vai... - Giáo viên: đối với tiết luyện nói, giáo viên nên tránh hai khuynh hướng sau : + Cho rằng giờ luyện nói là của học sinh, dành cho học sinh thực hành là chính; từ đó giáo viên không làm gì cả, khoán trắng, phó mặc cho học sinh muốn nói thế nào cũng được; tất cả đổ cho năng lực của học sinh; dẫn đến tiết học đơn điệu, buồn tẻ, mất tác dụng. + Quá lo sợ rằng học sinh không nói được, không trình bày được vấn đề trước tập thể nên làm thay, nói hộ hết cho học sinh; hoặc tiến hành tiết dạy một cách qua loa, chiếu lệ cho xong. Trong tiết luyện nói, giáo viên hoạt động rất ít để trao quyền ưu tiên cho học sinh hoạt động với thời lượng tối đa có thể được; thậm chí hầu như giáo viên không làm gì cả. Nhưng ở đây, không làm gì cả không có nghĩa là khoán trắng, phó mặc học sinh kiểu như đã nói ở trên; mà giáo viên vẫn là người bao quát, chỉ đạo linh hoạt để đảm bảo cho hoạt động của học sinh đúng hướng và đạt hiệu quả cao. 2.3.4. Một số hình thức tổ chức hoạt động dạy- học trong tiết luyện nói - Giáo viên nên linh hoạt trong việc thiết kế các hoạt động dạy - học. - Sau đây là vài đề xuất để tham khảo, vận dụng . + Hái hoa tìm ý Có thể dùng hình thức này đối với lớp dạy có nhiều HS yếu kém, chưa thành thạo kĩ năng tạo lập kiểu văn bản đang học, chưa quen nói trước tập thể; lại ít có ( hay không có ) nhân tố tích cực ( học sinh khá, giỏi, lanh lợi, hoạt bát) làm nòng cốt. Cách thực hiện a. Khâu chuẩn bị - Lựa chọn một bài tập ( không ôm đồm nhiều về số lượng bài tập ). - Thông báo bài tập đã chọn cho học sinh biết trước để chuẩn bị . - Định hướng cho học sinh bằng một số câu hỏi ( để giải quyết bài tập ). Những câu hỏi này được cung cấp từ trước tiết học để học sinh suy nghĩ, chuẩn bị lời. - Một bảng phụ- mô hình dàn ý phù hợp với bài tập. - Các câu hỏi được viết trên mảnh giấy lớn, chữ to để có thể gắn với mô hình dàn ý (mỗi câu hỏi được trình bày về hình thức tựa như những bông hoa) 7 - Học sinh tự trình bày dàn ý vào vở soạn theo gợi ý từ các câu hỏi cho trước và tập chuẩn bị ngôn ngữ nói trước khi đến lớp. b. Trình tự tiến hành trong tiết học - Phân lớp học thành một số nhóm. - Lần lượt mời từng đối tượng học sinh trong các nhóm lên hái hoa và trình bày trước lớp theo hình thức tiếp sức ( để tạo không khí sôi nổi, kích thích sự mạnh dạn, tự tin… ) - Lớp và giáo viên lần lượt nhận xét ( theo chiều hướng nhắc nhở nhưng vẫn khích lệ, nâng đỡ để tránh cho các em cảm giác xấu hổ, tự ti… )về việc trình bày đối với từng câu hỏi của từng nhóm và cùng trao đổi để gắn hoa vào mô hình dàn ý. - Giáo viên sơ kết, giảng giải ngắn gọn về dàn ý và cách trình bày kiểu văn bản cần tạo lập. - Học sinh khá, giỏi trình bày trước lớp cả bài ( theo dàn ý ) để khắc sâu cách tạo lập kiểu văn bản đang học. - Nếu còn thời gian, tiếp tục tổ chức cho các em trình bày theo dàn ý trước nhóm ( nói từng phần để tạo điều kiện cho nhiều học sinh được trình bày ). + Trò chơi thông thái Hình thức này dành cho đối tượng học sinh nhút nhát, tuy có khả năng viết bài nhưng chưa mạnh dạn, tự tin nói trước tập thể. Khi mục tiêu cụ thể của tiết dạy không đặt nặng kỹ năng làm bài (tạo lập văn bản ) mà còn phải biết tư duy thành lời - ngôn bản thì cần luyện kỹ năng ứng đáp mau lẹ, nói năng rõ ràng, mạch lạc có cử chỉ, nét mặt, âm lượng phù hợp. Giáo viên cho học sinh thi hình thức Trò chơi thông thái sẽ phát huy tác dụng. Cách thực hiện a. Điều kiện: cơ sở vật chất thuận lợi. b. Chuẩn bị - Giáo viên phải chuẩn bị thật công phu. + Nhiều câu hỏi, bài tập ngắn gọn, bổ ích. + Tranh ảnh, vật dụng phong phú, giàu ý nghĩa. + Cách dẫn chương trình hấp dẫn, sáng tạo. - Có thể vận động học sinh cùng chuẩn bị như sưu tầm tranh ảnh, vật dụng, soạn thảo câu hỏi- đáp án… - Có thể chuẩn bị vài phần quà nho nhỏ giúp trò chơi thêm hào hứng. - Học sinh được thông báo giới hạn một số đề tài chính để nghiên cứu, suy nghĩ trước. c. Trình tự thực hiện trong tiết học - Chia cuộc chơi thành 2-3 chặng. Lượng câu hỏi, bài tập được sắp xếp vào từng chặng cho phù hợp. - Sau mỗi chặng, có nhận xét và đổi người tham gia chơi. 8 - Giáo viên trực tiếp làm giám khảo và cho điểm theo một thang điểm đã được thống nhất và công bố; cử học sinh làm thư ký theo dõi và tổng kết điểm ở từng chặng, cả đợt. - Cuối cùng giáo viên tổng kết, củng cố phương pháp tạo lập văn bản . Nhận xét các đội chơi, khen thưởng và trao quà. Khi đã thuần thục với cách làm trên thì lớp có thể “tự biên tự diễn” mà giáo viên chỉ là người định hướng từ xa chứ không cần tham gia trực tiếp vào quá trình hoạt động của học sinh. + Dàn hợp xướng - Đây là một hình thức có thể giúp cho các đối tượng học sinh cùng bổ trợ cho nhau trong quá trình thực hành kỹ năng nói về một vấn đề nào đó. - Tạo cho học sinh khả năng làm việc tập thể, biết phối hợp nhịp nhàng, ăn ý, biết đoàn kết, hợp tác để hoàn thành nhiệm vụ. - Hoạt động diễn ra chủ yếu dựa trên cơ sở đơn vị nhóm. Nhóm trưởng giữ vai trò đặc biệt quan trọng (tựa như người nhạc trưởng một dàn nhạc) trong việc điều hành nhóm. Cách thực hiện a. Chuẩn bị - Phân nhóm, lựa chọn nhóm trưởng. - Thông báo về số lượng nội dung bài tập thực hành; cho các nhóm nhận bài tập cụ thể. - Hướng dẫn các nhóm chuẩn bị bài tập (chủ yếu thông qua nhóm trưởng ) - Các nhóm học sinh lên chương trình tập luyện và chuẩn bị : làm dàn ý, sưu tầm tranh ảnh, vật dụng, phân công việc cụ thể cho các thành viên trong nhóm… b. Trình tự tiến hành trong tiết học - Mỗi nhóm trình bày trước lớp về vấn đề đã chuẩn bị dưới sự điều hành của nhóm trưởng. Có thể theo trình tự sau : + Lời chào và lời tự giới thiệu về nhóm và nội dung sẽ trình bày + Giới thiệu dàn ý + Lần lượt trình bày từng phần theo dàn ý( theo nhiều hình thức sáng tạo khác nhau). + Lời chào kết thúc, lời cảm ơn. - Lớp và giáo viên lần lượt nhận xét về phần trình bày của từng nhóm. - Giáo viên nhấn mạnh lại cách tạo lập của kiểu văn bản đang học. - Học sinh khá, giỏi trình bày trước lớp cả bài để khắc sâu kiểu văn bản và kỹ năng nói về kiểu văn bản ấy. c. Lưu ý Hình thức Dàn hợp xướng có tác dụng rất tốt nhưng khó thực hiện vì nếu chuẩn bị không kỹ hoặc Nhạc trưởng kém năng lực thì chương trình của nhóm dễ bị rời rạc, thậm chí thất bại. Do đó, khâu chuẩn bị phải được đầu tư chu đáo. 9 Nếu học sinh đã chuẩn bị kỹ nhưng khi thực hành vẫn gặp khó khăn thì giáo viên nên nhẹ nhàng gỡ bí và dẫn dắt, giúp các em hoàn thành chương trình của nhóm. Mặt khác cũng không nên yêu cầu quá cao , nhất là khi thực hiện hình thức này lần đầu. + Thi nói hay( Thi hùng biện, thi kể chuyện,…) Hoạt động thực hành này vẫn dựa trên cơ sở gợi ý của sách giáo viên. Nghĩa là học sinh luyện nói ở tổ, nhóm; sau đó nói trước lớp trên cơ sở đã chuẩn bị dàn ý và tập nói ở nhà. Nhưng có thể thay đổi ở chỗ là cơ cấu việc luyện nói ấy thành một cuộc thi để tạo không khí sôi nổi, lôi cuốn học sinh. Nên tổ chức hình thức Thi nói hay đối với những lớp khá, học sinh mạnh dạn, hoạt bát. Mục tiêu cụ thể của tiết dạy khi dùng hình thức này là luyện cho học sinh khả năng nói đúng, nói hay, nói truyền cảm trước tập thể về một vấn đề. Cách thực hiện a. Chuẩn bị - Bảng phụ (tính điểm) - Thông báo số lượng bài tập, nội dung bài tập - Thông báo hình thức hoạt động để học sinh tập luyện . - Các nhóm chuẩn bị dàn ý, phiếu học tập của nhóm - Học sinh chuẩn bị thêm tranh ảnh, vật dụng liên quan( nếu cần ) - Có thể chuẩn bị thêm tranh ảnh, vật dụng… - Chuẩn bị vài mòn quà nho nhỏ . - Có thể chọn học sinh dẫn chương trình. b. Trình tự thực hiện trong tiết học - Giáo viên nêu tiêu chí, yêu cầu, thang điểm - Thi vòng 1: học sinh nói trong nhóm. Nhóm chọn ra người Nói hay để dự thi vòng 2. - Thi vòng 2: Tranh tài Nói hay giữa các nhóm - Sau mỗi phần tranh tài của một nhóm là có phần nhận xét và bình điểm của lớp, giáo viên. - Kết thúc cuộc thi: Công bố điểm, chọn giải nhất, nhì và trao quà. - Tổng kết tiết học, rút kinh nghiệm. + Đóng vai nhập cuộc - Hình thức hoạt động này chủ yếu dựa trên cơ sở của Dàn hợp xướng nhưng có yêu cầu cao hơn nhiều. Học sinh cần có khả năng sáng tạo, kỹ năng tổ chức rất cao để dàn dựng “kịch bản” và tham gia “diễn xuất”. - Giáo viên cần định hướng cho học sinh khâu dựng “kịch bản” và đóng vai trò “đạo diễn” cho sự “diễn xuất” của các em. - Nên áp dụng hình thức này cho những lớp có học sinh khá, giỏi để các em đó làm “đầu tàu” trong quá trình thực hiện. - Nếu tổ chức tốt thì đây là hình thức rất hấp dẫn, lôi cuốn học sinh . 10 - Lưu ý: Cần khéo léo khi sử dụng hình thức này để tránh làm phá vỡ đặc trưng của kiểu văn bản cần tạo lập. Cách thực hiện a. Chuẩn bị - Giáo viên thông báo nội dung bài tập ( sau khi đã trao đổi, thống nhất với học sinh nòng cốt). - Gợi ý, định hướng cho học sinh dựng “ kịch bản”, phối - luyện để diễn xuất. - Giới thiệu tư liệu, chương trình để học sinh tham khảo. - Các tổ, nhóm thực hiện việc chuẩn bị theo sự hướng dẫn của giáo viên . b.Trình tự thực hiện - Tương tự như Dàn hợp xướng chỉ khác ở chỗ các thành viên tham gia đã hoàn toàn đóng vai nhập cuộc để trình bày chứ không cần sự giới thiệu lần lượt của người điều khiển. 2.3.5. Hướng dẫn học sinh soạn bài trước ở nhà Mỗi em đều phải soạn bài vào vở bài tập của mình ở nhà dựa theo yêu cầu đề bài trong tiết luyện nói, giáo viên hướng dẫn thêm. Tới lớp, trước khi tiến hành luyện nói, lớp trưởng kiểm tra việc soạn bài của lớp thông qua tổ trưởng, nhóm trưởng, sau đó báo cáo cho giáo viên. Giáo viên nên kiểm tra lại khoảng từ năm đến mười em. 2.3.6. Tổ chức triển khai thực hiện giờ luyện nói trên lớp a. Bước 1: Kiểm tra khâu chuẩn bị ở nhà của học sinh Bước này giáo viên phải đặc biệt chú ý, không thể bỏ qua hay lơ là được vì đây là cơ sở cho tiết luyện nói. Mặt khác, kiểm tra chặt chẽ khâu chuẩn bị ở nhà sẽ tạo thói quen học tập, tự giác cho học sinh và có biện pháp kịp thời đối với những học sinh yếu hoặc lười học. b. Bước 2: Thống nhất lại dàn bài chung Phần này giáo viên không đi lại từng bước nhỏ như phần chuẩn bị bài vì sẽ mất thời gian. Giáo viên chỉ đưa ra những câu hỏi, những vấn đề có tính chất giải đáp vướng mắc mà các em gặp phải trong phần chuẩn bị bài. Trên cơ sở đó, xây dựng dàn bài chung làm yêu cầu về kiến thức để đánh giá nội dung bài nói của học sinh. c. Bước 3: Yêu cầu chung cho bài nói của học sinh Giáo viên nêu yêu cầu luyện nói chung để học sinh rõ (chỉ áp dụng cho tiết luyện nói đầu tiên của từng khối lớp, những tiết sau, bước này sẽ do học sinh tự nhắc lại trước lớp) - Nội dung: nói phải đúng trọng tâm, yêu cầu đề bài. Dựa vào dàn bài thống nhất để trình bày theo ý cho hệ thống. - Kỹ thuật nói: trình bày rõ ràng, mạch lạc đảm bảo tính liên kết giữa các phần các đoạn. Lời nói có ngữ điệu, diễn tả thái độ, tình cảm tự nhiên, phù hợp. - Tác phong: bình tĩnh, đĩnh đạc, tự tin. Trước khi nói phải có lời thưa gửi, kết thúc phải có lời cảm ơn. d. Bước 4: Bước chuẩn bị của học sinh trước khi nói 11 Giáo viên dành thời gian khoảng 5 phút để học sinh chuẩn bị trình bày bài nói. e. Bước 5: Học sinh trình bày bài nói Để cho học sinh có điều kiện trình bày bài nói của mình một cách tự nhiên, hiệu quả, giáo viên nên lựa chọn nhiều hình thức, nhiều cách trình bày bài nói khác nhau có thể: - Trình bày bài nói theo từng phần: mở bài, thân bài, kết bài đến cả bài (Học sinh đại trà). - Trình bày bài nói theo sự phân công của tổ, nhóm (chọn học sinh khá của tổ nhóm trình bày trước, để học sinh yếu có điều kiện học tập và chuẩn bị). - Học sinh trình bày bài nói theo thứ tự luân phiên, học sinh của nhóm này nói, sau đó học sinh của nhóm khác nói và nhận xét cho nhau. (Đa phần học sinh đều có thể trình bày bài nói). Lưu ý: Học sinh trình bày bài nói theo yêu cầu dựa vào các mức độ đối tượng khác nhau: giỏi, khá, trung bình, yếu. g. Bước 6: Nhận xét, đánh giá Nếu để cho học sinh thay phiên nhau lên trình bày bài nói của mình mà không có sự nhận xét, đánh giá, góp ý của thầy cô, bạn bè thì tiết luyện nói sẽ phản tác dụng. Trong tiết luyện nói, học sinh giữ vai trò chủ động, tích cực thì giáo viên phải thể hiện rõ vai trò của người chủ đạo, hướng dẫn. Trong tiết luyện nói người giáo viên thực sự trở thành một người dẫn chương trình gần gũi và thân mật với học sinh thì sẽ nâng cao hiệu quả tiết học. Hướng dẫn học sinh theo dõi, nhận xét, đánh giá từng phần, từng nội dung cụ thể. Giáo viên tổng hợp ý kiến từ học sinh, chỉ ra ưu, khuyết điểm cũng như mặt mạnh, mặt yếu của từng em để kịp thời phát huy và sủa chữa, uốn nắn. Lời đánh giá của giáo viên phải chính xác, rõ ràng, nhẹ nhàng, tế nhị; luôn tạo không khí thân ái, gần gũi để học sinh trao đổi, trình bày ý kiến của mình được tự nhiên hơn. Giáo viên nên chọn ưu điểm nổi bật của từng học sinh và căn cứ theo từng mức độ: giỏi, khá, trung bình, yếu mà tuyên dương, động viên, khuyến khích. Nhất là sự tiến bộ của học sinh yếu (dù chỉ là sự tiến bộ rất nhỏ). Vì lời khen, chê của giáo viên không chỉ là động lực thúc đẩy sự cố gắng phấn đấu của học sinh mà còn là đòn bẩy, bẩy giờ luyện nói. Tóm lại tuỳ thuộc vào điều kiện, mức độ của từng lớp, hoạt động của giờ luyện nói có thể có những hình thức khác nhau. Hình thức rất phong phú đa dạng. Điều quan trọng là phải nắm vững đặc trưng giờ luyện nói để đảm bảo yêu cầu một giờ học Tập làm văn trong nhà trường Trung học cơ sở. 2.3.7. Giáo án minh họa LUYỆN NÓI VĂN BIỂU CẢM VỀ SỰ VẬT, CON NGƯỜI Ngữ văn 7: Tiết 40: A. Mục tiêu cần đạt 1. Kiến thức: các cách biểu cảm trực tiếp và gián tiếp trong việc trình bày văn nói biểu cảm, những yêu cầu khi trình bày văn nói biểu cảm. 12 2. Kỹ năng: tìm ý, lập dàn ý bài văn biểu cảm về sự vật và con người, biết cách bộc lộ tình cảm về sự vật và con người trước tập thể, diễn đạt mạch lạc, rõ ràng những tình cảm của bản thân về sự vật và con người bằng ngôn ngữ nói. 3. Thái độ: biết cảm nhận về sự vật, con người qua tiết luyện nói. B. Phương pháp - Phương pháp vấn đáp kết hợp thực hành, thảo luận nhóm. - Phương pháp gợi mở, phương pháp nêu vấn đề. - Phương pháp nói diễn cảm. C. Chuẩn bị 1. Giáo viên: giáo án + đề bài về văn biểu cảm, bảng phụ. 2. Học sinh: giấy nháp + vở ghi. D. Tiến trình lên lớp 1. Ổn định lớp 2. Kiểm tra bài cũ: kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh. Giáo viên chốt: Trong chương trình Ngữ văn 7 các em đã được tìm hiểu một số kiến thức về văn biểu cảm. Các em có thể áp dụng những kiến thức đó để viết một bài văn biểu cảm đúng và hay. Nhưng thật tuyệt vời khi các em nói được những lời văn câu văn, đoạn văn, bài văn biểu cảm hay, các em rèn được phong cách tự tin, bình tĩnh diễn đạt lưu loát trước tập thể lớp. Để giúp các em làm được điều đó hôm nay cô cùng các em đi tìm hiểu qua tiết “ Luyện nói: văn biểu cảm về sự vật, con người.” 3. Bài mới Hoạt động của thầy và trò Nội dung kiến thức cần đạt Giáo viên: Trước khi luyện nói cô cùng I. Ôn lí thuyết các em đi ôn lại một số kiến thức trọng tâm giúp các em làm tốt bài văn biểu. Câu hỏi: Nhắc lại khái niệm văn biểu 1. Khái niệm văn biểu cảm cảm? HS trình bày khái niệm Giáo viên chiếu trên máy. Câu hỏi: Bài văn biểu cảm có bố cục 2. Bố cục mấy phần? Nội dung từng phần? Học sinh: Có bố cục 3 phần. - Mở bài: Giới thiệu đối tượng biểu cảm, nêu cảm xúc ban đầu về đối tượng. - Thân bài: Qua miêu tả, tự sự biểu lộ cảm xúc ý nghĩ một cách cụ thể, chi tiết sâu sắc. - Kết bài: Kết đọng cảm xúc, ý nghĩ về đối tượng biểu cảm. xúc ban đầu về đối tượng. - Thân bài: Qua miêu tả, tự sự biểu lộ 13 cảm xúc ý nghĩ một cách cụ thể, chi tiết sâu sắc. - Kết bài: Kết đọng cảm xúc, ý nghĩ về đối tượng biểu cảm. Giáo viên: chiếu phần bố cục lên máy Câu hỏi: Có mấy bước tiến hành một bài văn biểu cảm? Học sinh: Có 4 . - Bước 1: Tìm hiểu đề. - Bước 2:Tìm ý - Bước 3: Lập dàn ý - Bước 4: Viết văn và sửa lỗi Giáo viên chiếu trên máy. Câu hỏi: Các bước đó có tiến hành 3. Các bước tiến hành trong bài luyện nói được không? Giáo viên cần phải thêm bước luyện nói Giáo viên: để giúp các em có bài nói tốt cô cùng các em tìm hiểu sự giống và khác nhau giữa văn nói và văn viết. Học sinh chỉ ra một số điểm giống và khác nhau Giáo viên khái quát trên máy. Giống nhau: - Đều thể hiện cảm xúc với đối tượng cần biểu cảm. - Đều có bố cục 3 phần Khác nhau: + Văn nói; - Sử dụng cử chỉ, điệu bộ, giao tiếp. - Câu văn ngắn gọn - Dùng khẩu ngữ. - Sử dụng những lời thưa gửi, giới thiệu, lời cảm ơn - Lựa chọn những chi tiết quan trọng. + Văn viết: - Có thể dùng câu văn dài. - Từ ngữ chau chuốt. - Trình bày đầy đủ nội dung, không dùng ngôn ngữ văn nói. Giáo viên chuyển ý Như chúng ta đã thống nhất các em về nhà chuẩn bị các đề trong sách giáo II. Thực hành luyện nói khoa. Trong các đề đó cô thấy có 1 đề rất 14 có ý nghĩa phù hợp với chủ điểm tháng 11 theo các em đó là đề nào? Học sinh trả lời. Giáo viên: vậy bây giờ cô cùng các em đi làm đề 1 Giáo viên chiếu trên máy đề 1. Giáo viên kiểm tra khâu chuẩn bị ở nhà của học sinh. Câu hỏi: Đề bài đó thuộc thể loại nào? Câu hỏi: Đối tượng biểu cảm là ai? xác định thể loại, đối tượng biểu cảm Câu hỏi: Với đối tượng biểu cảm là thầy cô giáo thì cảm xúc chính của em là gì? - Cảm xúc chính là kính trọng , biết ơn… Giáo viên chuyển ý Câu hỏi: Với đề bài này em sẽ trình bày những gì trong phần mở bài, thân bài, kết bài? Giáo viên thống nhất lại dàn bài chung. Giáo viên chiếu dàn ý và tranh ảnh . Nhấn mạnh đây là dàn ý mang tính chất tham khảo, định hướng. Giáo viên chuyển ý, Cho học sinh hoạt động nhóm. - Phân công nhiệm vụ cho từng nhóm ( mỗi nhóm trình bày 1 phần) Đối với học sinh yếu – trung bình giáo viên cho học sinh thực hiện nói từng phần ( mở bài, các ý trong phần thân bài hoặc kết bài). Thời gian chuẩn bị là 5 phút. - Sau 5 phút gọi đại diện nhóm trình bày (Yêu cầu chung cho bài nói của học sinh: trước khi học sinh trình bày giáo viên hướng dẫn học sinh trình bày, hướng dẫn học sinh nghe để nhận xét ) - Nội dung: nói phải đúng trọng tâm, yêu cầu đề bài. Dựa vào dàn bài thống nhất để trình bày theo ý cho hệ thống. - Kỹ thuật nói: trình bày rõ ràng, mạch lạc đảm bảo tính liên kết giữa các phần các đoạn. Lời nói có ngữ điệu, diễn tả thái độ, tình cảm tự nhiên, phù hợp. 1. Đề 1: Cảm nghĩ về thầy cô giáo những “Người lái đò” đưa thế hệ trẻ “cập bến tương lai”. Thể loại: biểu cảm về con người. Đối tượng : biểu cảm là thầy cô giáo. Dàn ý: + Mở bài: Giới thiệu về thầy cô giáo đẻ lại ấn tượng sâu sắc nhất. + Thân bài: - Hồi tưởng kỉ ni ệm về thầy cô giáo : nhớ lại kỉ niệm về sự chăm sóc của thầy cô -> nêu cảm xúc . - Cảm xúc được gợi ra từ hình dáng, cử chỉ hành động, việc làm… -Sự kính trọng biết ơn công lao của thầy cô. + Kết bài: Khẳng định lại tình cảm của em với thầy cô. Luyện nói 15 - Tác phong: bình tĩnh, đĩnh đạc, tự tin. Trước khi nói phải có lời thưa gửi, kết thúc phải có lời cảm ơn. Giáo viên gọi đại diện nhóm trình bày Đại diện nhóm trình bày Học sinh nhận xét bài của bạn ở 2 mặt: nội dung và cách trình bày bài nói. Sau khi gọi học sinh nhận xét giáo viên nhận xét chung về ưu nhược điểm, động viên khích lệ học sinh - Gọi 1 học sinh trình bày 1 bài hoàn chỉnh (Học sinh: khá, giỏi). Giáo viên nhận xét động viên khích lệ học sinh Giáo viên chốt, chuyển ý sang đề 2 Giáo viên chiếu đề 2 lên màn chiếu Câu hỏi: Em hãy xác định thể loại và đối tượng biểu cảm trong đề 2 Học sinh xác định đối tượng và thể loại Câu hỏi: Với đối tượng là sách vở thì cảm xúc chính là gì? Học sinh thảo luận theo 5 nhóm Lần lượt 5 nhóm lên trình bày - Học sinh trình bày phần dàn ý - Học sinh nhận xét dàn ý của bạn Giáo viên chuyển ý, cho học sinh trình bày phần dàn ý chuẩn bị ở nhà - Giáo viên chiếu phần dàn ý và tranh ảnh tham khảo. - Giáo viên cho học sinh chơi trò chơi tiếp sức: + Thể lệ: chia lớp thành 5 nhóm mỗi nhóm trình bày 1 ý mở bài, 3 ý phần thân bài, 1 ý kết bài). + Thời gian trao đổi là 2 phút + Sau thời gian chuẩn bị lần lượt các nhóm lên trình bày hết nhóm trình bày phần mở bài đến nhóm trình bày ý thứ nhất phần thân bài đến ý 2, ý 3… cuối cùng kết bài. Giáo viên nhận xét ưu nhược điểm chung, khích lệ học sinh. 2. Đề 2: Cảm nghĩ về sách vở mình đọc và học hàng ngày. Thể loại: biểu cảm về sự vật. Đối tượng: biểu cảm là sách vở. Dàn ý: + Mở bài: Giới thiệu khái quát về sách vở mình học và đọc hàng ngày. + Thân bài: Nêu tác dụng của sách. Những tình cảm yêu thích của mình với sách ý thức giữ gìn bảo vệ sách. + Kết bài : Nhấn mạnh tình cảm của mình với sách Luyện nói Yêu cầu: 16 Câu hỏi: Qua tiết học em rút ra những + Muốn người nghe hiểu, người nói yêu cầu gì của tiết luyện nói văn biểu phải lập ý theo trình tự (dàn ý) cảm? (Học sinh khá) + Nói tự nhiên, rành mạch, rõ ràng, - Giáo viên khái quát bằng máy chiếu. hướng tới người nghe +Phát âm chuẩn, giọng điệu diễn cảm. +Bài nói phải có tính liên kết. 4. Củng cố - Giáo viên nhận xét chung giờ luyện nói, khắc sâu kiến thức văn nói và văn viết, liên hệ giáo dục học sinh trong khi nói và viết. Giáo viên chia sẻ cùng học sinh kinh nghiệm để có 1 bài nói tốt đó là: + Về nội dung cần nhớ 3 chữ “ T”: - Tập trung. - Tường minh. - Thú vị. + Về hình thức: - Trong sáng. - Tự tin. - Truyền cảm. Chúc các em tự tin hứng thú trước mỗi bài nói của mình và nhận được nhiều tràng pháo tay từ người nghe. Đó cũng là bí quyết giúp em thành công trong cuộc sống. 5. Dặn dò: về nhà các em làm hoàn chỉnh cho cô 2 đề văn đó. E. Đánh giá - điều chỉnh 2.4: Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường Sáng kiến kinh nghiệm này đã được áp dụng đối với học sinh lớp 7A, 7C tại Trường Trung học cơ sở Lưu Vệ năm học 2015 -2016, với những cố gắng của tôi trong việc rèn kĩ năng nói cho học sinh đã có những hiệu quả nhất định. Học sinh tham gia phát biểu sôi nổi, có chiều hướng ham thích học môn văn hơn. Học sinh có tinh thần tập thể cao, có tinh thần tự giác, ý thức được việc học tập. Với biện pháp thực hiện trên giúp học sinh mạnh dạn hơn khi nói trước đám đông, có thói quen tốt trong việc học, và cũng giúp cho những em học yếu, lười không còn ỷ lại trông chờ vào những em học khá. Từ em khá đến em yếu đều có thể nói được trước lớp. Khi tiến hành nghiên cứu tôi chia đối tượng học sinh của mình thành 2 nhóm (Nhóm thực nghiệm là đối tượng học sinh lớp 7A, và nhóm đối chứng là các em học sinh lớp 7C), mỗi nhóm gồm 42 em học sinh có trình độ nhận thức tương đương nhau. Với lớp 7A khi áp dụng sáng kiến này thì tình hình khác hẳn so với lớp 7C (không áp dụng) 17 BẢNG KHẢO SÁT CH ẤT LƯỢNG SAU KHI THỰC HIỆN SKKN Năm học Mức độ 2015-2016 Khả năng nói tốt trong tiết luyện nói Khả năng nói chưa tốt trong tiết luyện nói 7C : 42 học sinh 24/42 học sinh bằng 57,1% 18/42 học sinh bằng 42,9% 7A : 42 học sinh 29/42 học sinh bằng 69% 13/42 học sinh bằng 31% Qua kết quả trên cho thấy khi áp dụng sáng kiến có sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực ở nhóm thực nghiệm lớp 7A. Đặc biệt hơn nữa là khi so sánh kết quả của nhóm lớp 7C với nhóm lớp 7A thì chất lượng ở nhóm lớp 7A đã tăng cao hơn nhóm lớp 7C với một khoảng cách khá cách biệt. Điều đó cũng đã khẳng định một phần tác dụng của sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã đưa ra và áp dụng. Trong năm học này tôi đang mở rộng áp dụng sáng kiến trên đây cho tất cả các lớp mà tôi đang giảng dạy, hy vọng sẽ tạo được bước chuyển biến cao hơn về khả năng nói của các em học sinh trong kiểu bài luyên nói ở phân môn Tập làm văn. 3. Kết luận, kiến nghị 3.1 Kết luận: bài học kinh nghiệm mà tôi rút ra được từ quá trình nghiên cứu và vận dụng như sau Về giáo viên: Muốn  thực hiện đạt yêu cầu việc luyện nói cho học sinh giáo viên cần: - Đầu tư vào bài soạn, nghiên cứu kỹ để có câu hỏi thảo luận cho học sinh. - Câu hỏi phải khuyến khích được tất cả học sinh trong lớp suy nghĩ. Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, vừa sức để học sinh có thể trả lời. - Ngay từ đầu, xây dựng cho học sinh phương pháp học tập, những qui định  đối với học sinh về việc học  nói chung, môn văn nói riêng. - Hướng dẫn cho học sinh cách học cũng như cách soạn bài (Nhất là đối với tiết luyện nói). - Có kế hoạch kiểm tra phần chuẩn bị bài của học sinh. - Cần tôn trọng ý kiến học sinh, tạo điều kiện, dẫn dắt học sinh thể hiện quan điểm cá nhân của mình. - Nắm vững qui trình tiết luyện nói và tiến hành các bước một cách linh hoạt, thuần thục. Về học sinh - Đầy đủ dụng cụ học tập, nhất là bảng phụ, chuẩn bị cả về ngôn ngữ để có được hành văn lưu loát, ý tứ phong phú. - Mỗi cá nhân cần phải chuẩn bị bài kĩ trước ở nhà. - Mỗi cá nhân đều phải tích cực và ý thức hoạt động trong nhóm. 18 Tóm lại, dạy văn là một công việc đòi hỏi tính khoa học, nghệ thuật và sáng tạo. Do vậy người dạy văn phải có sự nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng một cách linh hoạt các phương pháp dạy học mới để việc tổ chức các hoạt động dạy học văn bản trở nên phong phú, đa dạng và có chiều sâu. Rèn kĩ năng nói cho học sinh qua tiết luyện nói ở môn Ngữ văn 7 là một hoạt động mang tính chuyên môn của người giáo viên dạy văn trong quá trình thực thi giảng dạy chương trình thay sách. Điều đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học Văn bản nói riêng và cho bộ môn Ngữ văn nói chung. Vấn đề được trình bày trên đây dưới dạng một sáng kiến kinh nghiệm, không có mong muốn gì hơn được bày tỏ những đóng góp nhỏ vào công việc giảng dạy văn và mong được quý thầy cô góp ý. Trong quá trình giảng dạy, tôi sẽ nỗ lực nhiều hơn nữa để làm tốt nhiệm vụ của người giáo viên dạy văn. 3.2 .Kiến nghị Tổ khoa học xã hội đã tổ chức hướng dẫn cách viết sáng kiến kinh nghiệm nhưng cần có thêm các buổi thảo luận viết sáng kiến kinh nghiệm. Nhà trường, Phòng giáo dục nên tổ chức báo cáo sáng kiến kinh nghiệm có tác dụng nâng cao chất lượng giáo dục để các giáo viên có cơ hội học tập kinh nghiệm. Trên thực tế khi thực hiện tiết luyện nói chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn: Thời lượng chỉ có 45 phút cho nên nhiều em vẫn chưa được nói. Tiết luyện nói chưa có tài liệu hướng dẫn cụ thể. Vì vậy tôi mạnh dạn đề xuất lên Sở Giáo dục và Đào tạo cần điều chỉnh, bổ sung để giáo viên đứng lớp có điều kiện dạy tốt hơn tiết luyện nói cho học sinh. Tôi xin chân thành cảm ơn ! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Quảng Xương, ngày 29 tháng 3 năm 2016 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết sáng kiến Nguyễn Thị Dung 19 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1) Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn THCS 2) Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kỳ III (2004 – 2007) 3) Phương pháp giảng dạy văn học trong nhà trường phổ thông. (Đại học từ xa Huế) 4) Báo giáo dục và thời đại 5) Văn học và tuổi trẻ của nhà xuất bản giáo dục. (Tạp chí hàng tháng) 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan