Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý của tòa án theo luậ...

Tài liệu Kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý của tòa án theo luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
220
1
62

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH TRƯƠNG VĂN LỢI KIẾN NGHỊ SỬA CHỮA THIẾU SÓT, VI PHẠM TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CỦA TÒA ÁN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH KIẾN NGHỊ SỬA CHỮA THIẾU SÓT, VI PHẠM TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CỦA TÒA ÁN THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Định hướng ứng dụng Mã số: 8380104 Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Nguyên Thanh Học viên : Trương Văn Lợi Lớp : Cao học luật, An Giang khóa 2 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn “Kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý của Tòa án theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Nguyên Thanh. Các nội dung, thông tin được trình bày trong luận văn là trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình. Thành Phố Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 8 năm 2022 Tác giả Trương Văn Lợi DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Từ, cụm từ được viết tắt Từ, cụm từ viết tắt 1 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) BLHS 2 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 BLTTHS 3 Hội đồng xét xử HĐXX 4 Tố tụng hình sự TTHS 5 Tiến hành tố tụng THTT 6 Viện Kiểm sát VKS TT MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. CĂN CỨ VÀ THỦ TỤC TÒA ÁN KIẾN NGHỊ CƠ QUAN, TỔ CHỨC HỮU QUAN SỬA CHỮA THIẾU SÓT, VI PHẠM TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ......................................................................................................... 6 1.1. Nhận thức và pháp luật tố tụng hình sự về căn cứ và thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý .................................................................................................................... 6 1.1.1. Nhận thức về căn cứ và thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý .................................... 6 1.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về căn cứ và thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý .................................................................................................................. 7 1.2. Thực tiễn Tòa án áp dụng thủ tục kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản ............................................ 10 1.2.1. Tình hình Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý ................................................................... 10 1.2.2. Những hạn chế trong việc áp dụng căn cứ và thủ tục kiến nghị của Tòa án nhằm sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý và nguyên nhân . 10 1.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng căn cứ và thủ tục kiến nghị của Tòa án đối với cơ quan, tổ chức hữu quan về việc sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý ............................................................................. 19 1.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật về căn cứ, thủ tục kiến nghị Tòa án nhằm sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý ................................................................................................................ 19 1.3.2. Giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục về kiến nghị của Tòa án nhằm sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý..................... 21 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................ 22 CHƯƠNG 2. TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN KIẾN NGHỊ CỦA TÒA ÁN VÀ THÔNG BÁO VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP SỬA CHỮA THIẾU SÓT, VI PHẠM TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ............................................................. 23 2.1. Nhận thức và pháp luật tố tụng hình sự về trách nhiệm thực hiện kiến nghị của Tòa án và thông báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý ............................................................................. 23 2.1.1. Nhận thức về trách nhiệm thực hiện kiến nghị của Tòa án và thông báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý .... 23 2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trách nhiệm thực hiện kiến nghị và thông báo việc áp dụng các biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý ........................................................................................ 25 2.2. Thực tiễn thực hiện kiến nghị và thông báo việc áp dụng các biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý ........................................ 27 2.2.1. Những kết quả tích cực của việc thực hiện kiến nghị của Tòa án và thông báo việc áp dụng các biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý ................................................................................................................ 27 2.2.2. Những hạn chế của việc thực hiện kiến nghị của Tòa án và thông báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý và nguyên nhân ........................................................................................................ 28 2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện kiến nghị của Tòa án và thông báo việc áp dụng các biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý .................................................................................................................. 35 2.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật về thực hiện kiến nghị của Tòa án và thông báo việc áp dụng các biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý .......................................................... 35 2.3.2. Giải pháp khác nhằm bảo đảm thực hiện kiến nghị của Tòa án và thông báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý . ............................................................................................................................ 37 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 39 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 40 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực tư pháp ngày càng được đổi mới, cụ thể hóa bằng các nghị quyết, đó là: Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”;… góp phần thể chế hoá đường lối lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”1. Việc kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý của Tòa án đối với cơ quan, tổ chức hữu quan cũng là một trong những hoạt động quan trọng của tư pháp nói chung và hoạt động giải quyết vụ án nói riêng, nhằm đưa bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật thi hành. Đồng thời, đây còn là nhiệm vụ của quá trình giải quyết vụ án, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và công dân, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, bảo vệ công lý, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặc dù pháp luật đã có quy định khá cụ thể, tuy nhiên, việc nhận thức và áp dụng pháp luật trên thực tế về việc kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý của Tòa án đối với cơ quan, tổ chức hữu quan còn nhiều bất cập, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Khó khăn nhất là quy định trong thời hạn (30 ngày) kể từ ngày nhận được kiến nghị của Tòa án, các cơ quan, tổ chức nhận được kiến nghị phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án biết về những biện pháp áp dụng. Thực tế rất khó thực hiện yêu cầu của Tòa án trong thời hạn luật định đối với những lĩnh vực phức tạp như quản lý và sử dụng đất đai đối với các khu dân cư tự phát; lợi dụng chính sách hoàn thuế của Nhà nước để mua bán trái phép hóa đơn thuế giá trị gia tăng… Việc này, thực tế ở An Giang thời gian qua áp dụng rất 1 Điều 106 Hiến pháp 2013. 2 khó khăn, đòi hỏi cần nhiều thời gian. Mặt khác, các văn bản luật chuyên ngành như: Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Xây dựng… thời gian qua chưa có sự đồng bộ, thống nhất, tạo kẻ hở pháp luật bị lợi dụng. Chính vì vậy, vấn đề kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý của Tòa án ở Việt Nam có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Thông qua nghiên cứu đề tài để làm rõ quy định của pháp luật về vấn đề này từ đó có nhận thức và áp dụng pháp luật thống nhất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý cho phù hợp với yêu cầu của công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm mà thực tiễn đặt ra ở các cơ quan, tổ chức hữu quan. Với những lý do trên tôi chọn đề tài “Kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý của Tòa án theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam” để làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua, trong sách báo pháp lý nước ta, vấn đề Tòa án ra kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý theo Điều 264 Bộ Luật Tố tụng Hình sự được nghiên cứu khá ít. Vấn đề nhận thức đối tượng nghiên cứu trong luận văn chủ yếu ở các tài liệu nghiên cứu cơ bản về luật TTHS như giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam và các sách Bình luận khoa học về luật TTHS Việt Nam. Về giáo trình, có thể tham khảo Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, do Nguyễn Thị Kim Oanh (chủ biên) và tập thể tác giả biên soạn (NXB Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam, năm 2019). Tài liệu này cũng đề cập kiến chung về luật TTHS, địa vị pháp lý của Thẩm phán và thi hành bản án của Tòa án. Sách Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, NXB chính trị quốc gia sự thật năm 2018 do GS.TS Nguyễn Ngọc Anh và Luật sư, Tiến sĩ Phan Trung Hoài làm đồng Chủ biên; Sách chuyên khảo Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015, do PGS.TS Nguyễn Hòa Bình làm Chủ biên. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2016. Những tài liệu này cũng cung cấp kiến thức cơ bản về luật TTHS, về bản án và thi hành bản án. Nhìn chung các tài liệu trên không nghiên cứu chuyên sâu về kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý của Tòa án. Các diễn đàn 3 khoa học khác hầu như không nghiên cứu về vấn đề này, vì vậy tài liệu tham khảo để thực hiện luận văn này rất hạn chế. Đó cũng là những khó khăn khi triển khai các nội dung nghiên cứu, đồng thời cũng cho thấy vấn đề nghiên cứu là hoàn toàn mới mẻ. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Việc thực hiện đề tài nhằm làm rõ vấn đề nhận thức, pháp luật và thực tiễn việc kiến nghị của Tòa án đối với các cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện các kiến nghị này góp phần phòng ngừa tội phạm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, quá trình tổ chức thực hiện cần hoàn thành các nhiệm vụ sau: - Tìm hiểu vấn đề nhận thức và phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về căn cứ, thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý và trách nhiệm thực hiện kiến nghị của Tòa án, thông báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý. - Tìm hiểu thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về áp dụng căn cứ, thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý cũng như trách nhiệm thực hiện kiến nghị của Tòa án và thông báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý. - Kiến nghị một số giải pháp bảo đảm thực hiện căn cứ, thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý và trách nhiệm thực hiện kiến nghị của Tòa án, thông báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu là quản điểm lý luận, bản chất pháp lý và thực tiễn áp dụng căn cứ, thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi 4 phạm trong công tác quản lý và trách nhiệm thực hiện kiến nghị của Tòa án, thông báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý. - Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung: vấn đề kiến nghị, sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý của Tòa án theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam tương đối rộng, tuy nhiên luận văn chỉ tập trung nghiên cứu hai vấn đề cơ bản: Một là, căn cứ và thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý; Hai là, trách nhiệm thực hiện kiến nghị của Tòa án và thông báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý. Về không gian: luận văn nghiên cứu số liệu thống kê chung về tình hình kiến nghị khắc phục thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý trong cả nước và một số vụ án cụ thể trên địa bàn tỉnh An Giang. Về thời gian: luận văn nghiên cứu thực tiễn từ năm 2015 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vai trò của Tòa án trong phòng, chống tội phạm hiện nay. - Phương pháp nghiên cứu cụ thể: các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp; các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình. 6. Những đóng góp mới của đề tài - Góp phần nâng cao nhận thức lý luận và pháp luật về kiến nghị của Tòa án đối với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý để phòng ngừa tội phạm. - Phát hiện những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong việc áp dụng các biện pháp của cơ quan, tổ chức hữu quan theo kiến nghị của Toà án. - Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kiến nghị cũng như bảo đảm áp dụng các biện pháp theo kiến nghị của Toà án nhằm sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý. 5 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 7.1. Ý nghĩa lý luận kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần bổ sung lý luận về kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý của Tòa án theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam. 7.2. Ý nghĩa thực tiễn Đề tài được sử dụng làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu tham khảo, giảng dạy và học tập ở các trường có đào tại về luật. Đối với các giải pháp đề xuất trong đề tài này, cơ quan tiến hành tố tụng, người liến hành tố tụng, cơ quan, tổ chức hữu quan, người tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự có thể tham khảo và vận dụng trong thực tiễn cho việc khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ quan, tổ chức theo kiến nghị của Tòa án. 8. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia thành 2 chương, cụ thể: Chương 1: Căn cứ và thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý. Chương 2: Trách nhiệm thực hiện kiến nghị của Tòa án và thông báo việc áp dụng biện pháp sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý. 6 CHƯƠNG 1 CĂN CỨ VÀ THỦ TỤC TÒA ÁN KIẾN NGHỊ CƠ QUAN, TỔ CHỨC HỮU QUAN SỬA CHỮA THIẾU SÓT, VI PHẠM TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ 1.1. Nhận thức và pháp luật tố tụng hình sự về căn cứ và thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý 1.1.1. Nhận thức về căn cứ và thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý Theo Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) định nghĩa: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực, trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. Tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực, tồn tại trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Do vậy, nó có mối quan hệ và tác động qua lại với các hiện tượng quá trình xã hội khác mang tính chất tiêu cực và cả những hiện tượng xã hội tích cực. Nó chịu sự chi phối, quyết định của các hiện tượng, quá trình xã hội. Quá trình giải quyết vụ án hình sự các nguyên nhân, điều kiện phạm tội luôn được nhận thức. Tòa án cũng nhận thức được nguyên nhân, điều kiện phạm tội đối với tội phạm và vụ án do Tòa án xét xử. Cụ thể đó là, những thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý đã dẫn đến tội phạm được thực hiện, bị phát hiện và đưa ra xét xử. Tòa án với chức năng xét xử, không chỉ có nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự, kết tội và quyết định hình phạt, giải quyết vấn đề bồi thường nếu có mà còn có trách nhiệm phát hiện những thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý để kiến nghị cùng với bản án nhằm khắc phục các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, góp phần phòng ngừa tội phạm. 7 Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố nếu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không thực hiện nhiệm vụ kiến nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý hoặc có kiến nghị nhưng chưa được khắc phục và thông báo kết quả thì Tòa án tiếp tục kiến nghị để khắc phục những thiếu sót, vi phạm đó. Có như vậy mới góp phần phòng ngừa tội phạm, ngăn ngừa thiệt hại, đồng thời giải quyết triệt để vụ án hình sự. Việc khắc phục phải dựa vào căn cứ phản ánh những thiếu sót, vi phạm trong quản lý làm phát sinh tội phạm. Kiến nghị của Tòa án cần theo thủ tục như hình thức văn bản, thời hạn, công bố hoặc gửi văn bản… để các cá nhân, tổ chức liên quan có trách nhiệm thi hành. Từ đó cho thấy, từng cơ quan, tổ chức hữu quan phải làm tốt công tác phòng ngừa nhằm làm hạn chế số lượng, tính chất tội phạm phát sinh. Đồng thời, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm phát hiện nguyên nhân và điều kiện tội phạm, yêu cầu kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa cụ thể là vi phạm, thiếu sót trong công tác quản lý. Như vậy, có thể hiểu căn cứ Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý là những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến phạm tội mà Tòa án đã đưa ra xét xử xuất phát từ những thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý của chính cơ quan, tổ chức đó. Việc khắc phục các thiếu sót, vi phạm này góp phần phòng ngừa tội phạm. Thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý là cách thức, quy trình Tòa án ban hành và đề nghị cơ quan thẩm quyền khắc phục những thiếu sót vi phạm trong công tác quản lý của các cơ quan có thẩm quyền được phát hiện qua công tác xét xử nhằm làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm. 1.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về căn cứ và thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý 1.1.2.1. Về căn cứ Công tác kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý của các cơ quan, tổ chức hữu quan khi tiến hành xét xử vụ án hình sự là một trong những hoạt động thực hiện chức năng của Tòa án nhân dân. Chức năng kiến nghị 8 này được quy định tại Khoản 1 Điều 264 Bộ luật TTHS năm 2015, cụ thể: “Cùng với việc ra bản án, Tòa án ra kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp cần thiết để khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ quan, tổ chức đó…”. Như vậy, trong quá trình xét xử vụ án hình sự các cấp, Tòa án không chỉ giải quyết nội dung vụ án mà còn có quyền kiến nghị khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ quan, tổ chức đó. Hiện nay, pháp luật Việt Nam, bao gồm Bộ luật TTHS năm 2015 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, không quy định chi tiết về căn cứ để Tòa án kiến nghị, tuy nhiên có thể xác định các căn cứ này là khi Tòa án xác định các cơ quan, tổ chức hữu quan trong vụ án hình sự được xét xử đang tồn tại những thiếu sót hoặc những vi phạm trong công tác quản lý của họ và những thiết sót, vi phạm đó là những yếu tố làm nảy sinh, thúc đẩy sự phát triển của tội phạm, cụ thể: Thứ nhất, có thiếu sót hoặc vi phạm trong công tác quản lý tại cơ quan, tổ chức hữu quan đến vụ án hình sự. Tòa án cần xác định các cơ quan, tổ chức hữu quan đang có những sơ hở, hạn chế hoặc sai phạm trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của họ. Đối với những vụ án hình sự được xét xử, Tòa án có thể phát hiện nhiều dạng thiếu sót, vi phạm khác nhau. Điển hình như việc qua xét xử, Tòa án phát hiện các cơ quan, tổ chức ban hành những văn bản chỉ đạo, văn bản điều hành, quy chế hoạt động thiếu chặt chẽ, thiếu minh bạch, đa nghĩa, trái với Hiến pháp và pháp luật… Tuy nhiên, nếu vi phạm của cơ quan, tổ chức hữu quan đến mức xử lý hình sự thì Tòa án không kiến nghị sửa chữa mà giao cơ quan có thẩm quyền điều tra theo quy định Bộ luật TTHS nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm. Thứ hai, những thiếu sót hoặc vi phạm trong công tác quản lý đang tồn tại là nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại chính các cơ quan, tổ chức hữu quan đến vụ án hình sự. Căn cứ này thể hiện tính liên quan và mối quan hệ nhân quả giữa những thiếu sót hoặc vi phạm trong công tác quản lý đối với việc hình thành và phát triển của tội phạm. Trường hợp các cơ quan, tổ chức hữu quan tuy có thiếu sót, vi phạm nhưng không liên quan đến nguyên nhân và điều kiện của tội phạm thì không thuộc thẩm quyền của Tòa án. Ngoài ra, Tòa án cũng không tiến hành kiến nghị đối với cơ quan, tổ chức không liên quan đến vụ án hình sự đang được xét xử. 1.1.2.2. Về thủ tục Mặc dù trong nội dung Bộ luật TTHS năm 2015 không có điều luật nào quy định trực tiếp đối với thủ tục kiến nghị sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác 9 quản lý nhưng tại Điều 264 đã chỉ rõ thời điểm phát hành, nội dung, đối tượng tiếp nhận, hình thức công bố và cách thức phản hồi đối với kiến nghị. Thời điểm Tòa án phát hành bản kiến nghị là cùng thời điểm với việc ra bản án. Nội dung của kiến nghị được lập thành văn bản riêng và phải ghi nhận cụ thể biện pháp cần áp dụng để khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tội phạm; đối tượng tiếp nhận kiến nghị là cơ quan, tổ chức hữu quan đối với vụ án đang được xét xử. Tùy theo trường hợp, Tòa án có thể đọc kiến nghị tại phiên tòa hoặc gửi riêng cho cơ quan, tổ chức hữu quan. Bởi vì, kiến nghị của Tòa án có thể ảnh hưởng đến uy tín hoặc liên quan đến bí mật công tác, bí mật Nhà nước, bí mật kinh doanh... của cơ quan, tổ chức được kiến nghị nên nội dung kiến nghị khắc phục nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm có thể không được đọc tại phiên tòa mà gửi riêng cho từng trường hợp đối với những vụ án có liên quan đến an ninh quốc gia, bí mật quân sự, bí mật công tác và trong kinh doanh… Đối với những trường hợp đại diện cơ quan, tổ chức không có mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử quyết định gửi riêng kiến nghị cho cơ quan, tổ chức đó mà không cần công bố công khai tại phiên tòa. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp không ảnh hưởng đến bí mật quốc gia hay bí mật trong công tác, kinh doanh… thì Tòa án đọc kiến nghị tại phiên tòa cũng nhằm mục đích thực hiện công tác giáo dục, cảnh tỉnh, tuyên truyền cho các tổ chức, cá nhân biết và có ý thức chấp hành pháp luật phòng ngừa tội phạm. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày tiếp nhận (bằng cách đọc tại phiên tòa hoặc gửi riêng), cơ quan, tổ chức nhận được kiến nghị phải phản hồi bằng văn bản cho Tòa án biết về những biện pháp được áp dụng. Như vậy, ngoài ý nghĩa góp phần phòng ngừa tội phạm tương tự xảy ra, bằng hoạt động kiến nghị này, Tòa án góp phần nâng cao nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân và cơ quan, tổ chức hữu quan về những thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý của cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan. Qua việc kiến nghị đối với cơ quan hữu quan, góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Cùng với bản án, bản kiến nghị đóng vai trò quan trọng đối với hiệu quả công tác xét xử vụ án hình sự theo chức năng của Tòa án. Tuy nhiên, những quy định hiện hành của Bộ luật TTHS năm 2015 về căn cứ và thủ tục Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác xét 10 xử vụ án hình sự. Nhiều nội dung quy định chưa rõ dẫn đến việc áp dụng ở nhiều địa phương, nhiều cấp xét xử thiếu nhất quán. Vì thế đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu và bổ sung để dễ dàng áp dụng thống nhất trong thực tiễn. 1.2. Thực tiễn Tòa án áp dụng thủ tục kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản 1.2.1. Tình hình Tòa án kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý Trong thời gian qua, ở giai đoạn xét xử đã có những kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý như sau (xem bảng thống kê). 2015 2016 2017 2018 2019 Cấp xét xử ST PT ST PT ST PT ST PT ST PT Số kiến nghị 101 16 77 33 98 27 50 23 54 40 (Thống kê kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của ngành kiểm sát nhân dân các năm 2015, 2016, 2017, 2018, 2019) Những vụ án, đặc biệt là các vụ án kinh tế, tham nhũng, xâm phạm trật tự quản lý hành chính đều ít nhiều có nguyên nhân, điều kiện từ công tác quản lý. Những thiếu sót này có thể được lặp đi, lặp lại cần được sửa chữa khắc phục. Thực tiễn các cơ quan THTT vẫn có những kiến nghị để sửa chữa. Tuy nhiên, qua số liệu trên so với tổng số vụ án hình sự được đưa ra xét xử mỗi năm, cho thấy số kiến nghị của Tòa án rất thấp, phần lớn các kiến nghị được VKS thực hiện trước khi đưa ra xét xử sơ thẩm. Ngoài ra, vẫn còn tình trạng các cơ quan THTT nói chung, Tòa án nói riêng chưa quan tâm thực hiện quyền kiến nghi các cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục, sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý. 1.2.2. Những hạn chế trong việc áp dụng căn cứ và thủ tục kiến nghị của Tòa án nhằm sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý và nguyên nhân Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành cũng như thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng hình sự về việc Tòa án ra kiến nghị cơ quan, tổ chức 11 hữu quan áp dụng biện pháp cần thiết để khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ quan, tổ chức hữu quan vẫn còn bộc lộ một số điểm bất cập, hạn chế, đó là: Thứ nhất, có căn cứ nhưng cơ quan có thẩm quyền tố tụng hình sự không kiến nghị, kể cả Tòa án cũng không kiến nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp cần thiết để khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ quan, tổ chức đó. Trong thực tiễn, các bản án hình sự của Tòa án đã tuyên đa phần là không có kiến nghị đối với các cơ quan, tổ chức hữu quan để có biện pháp áp dụng việc khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm. Ví dụ: Bản án số: 44/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Ngày 26 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 34/2018/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số 61/QĐ-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Phước Lợi sinh ngày 22/6/1983, tại tỉnh Đồng Tháp, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú ấp Mỹ Tây 3, xã Mỹ Quí, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: nhân viên Phòng giao dịch khu vực I tháp Mười. Nội dung vụ án: Phòng giao dịch khu vực I Tháp Mười (gọi tắt là Phòng Giao dịch) thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) Chi nhánh huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp là đơn vị sở hữu vốn 100%; Phòng giao dịch do ông Võ Hoàng Diệu là Phó Giám đốc phụ trách, bà Nguyễn Thị Hạnh Dung Tổ trưởng Tổ kế toán ngân quỹ. Nguyễn Phước Lợi được phân công làm nhiệm vụ thủ quỹ Phòng giao dịch thuộc Ngân hàng Nông nghiệp huyện Tháp Mười, đồng thời là thành viên Ban quản lý kho quỹ, nhiệm vụ chính được phân công cất giữ, bảo quản tiền mặt tại Phòng giao dịch. Vào trước và sau mỗi buổi làm việc ông Diệu, bà Dung mở khóa kho ngoài để Lợi vào kho trong mở cửa kho mang tiền, giấy tờ ra khu vực giao dịch để làm việc và khóa kho lại. Cuối buổi thì ngược lại ông Diệu, bà Dung mở khóa kho ngoài, kiểm kê đối chiếu thu chi tiền mặt đúng đủ, kiểm soát việc Lợi bỏ tiền vào 12 kho trong và khóa lại (nếu số tiền trên 500 triệu đồng thì lãnh đạo Phòng Giao dịch báo cáo lãnh đạo ngân hàng nông nghiệp điều phương tiện chuyển tiền). Ngày 18/5/2018, ông Võ Hoàng Diệu, Phó Giám đốc - do học tập trung lớp trung cấp lý luận chính trị nên ủy quyền lại cho ông Võ Hoàng Phi Long để điều hành Phòng Giao dịch. Quá trình điều tra bị cáo Lợi khai nhận: khoảng trước tháng 6/2017, Lợi bắt đầu tham gia đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá qua mạng internet trên SBOBET. Lợi bị thua nợ số tiền khoảng 02 tỷ đồng nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của Phòng giao dịch để thanh toán nợ. Cuối giờ làm việc buổi sáng ngày 18/6/2018, bị cáo Lợi thấy Phòng giao dịch không thực hiện quy trình không kiểm tra số tiền tồn thực tế cuối giờ giao dịch buổi sáng, trong khi số tiền mặt thu được từ các hoạt động nhiều, tổng cộng khoảng 3.846.380.068 đồng, có mệnh giá lớn dễ cất giấu nên quyết định chiếm đoạt để sử dụng cá nhân. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, Lợi lấy 3.300.000.000 đồng bỏ vào hai bọc nolon màu đen cất giấu vào tủ chứa chứng từ kế toán, lấy 3.300.000 đồng bỏ vào túi quần của Lợi đang mặc trên người, số tiền còn lại 543.080.068 đồng, Lợi bỏ vào kho quỹ, khóa cửa kho theo quy định, Lợi thay áo cùng mọi người ăn cơm tại nhà ăn Phòng giao dịch, tranh thủ ăn trước để vào mở cửa sắt mở tủ chứng từ kế toán lấy hai bọc chứa số tiền 3.300.000.000 đồng, lợi dụng lúc mọi người nghỉ trưa, Lợi lấy lấy hai bọc màu đen chứa 3.300.000.000 đồng để lên xe và điều khiển xe ra khỏi Phòng giao dịch bỏ trốn. Đến 16 giờ 50, ngày 18/6/2018, ông Võ Hoàng Phi Long trình báo sự việc cho cơ quan Công an xác minh làm rõ. Toàn bộ quá trình thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền của Lợi tại Phòng giao dịch được camera an ninh của ngân hàng ghi lại, trích xuất giao nộp cho cơ quan điều tra. Đến ngày 22/6/2018, Nguyễn Phước Lợi ra đầu thú, thu giữ số tiền 1.900.000.000 Ngày 23/6/2018, Trần Anh Thư (vợ bị cáo Lợi) đã nộp số tiền 1.353.000.000 đồng vào Ngân hàng Nông nghiệp Tháp Mười bồi thường thay cho bị cáo Lợi. Như vậy, số tiền 3.303.300.000 đồng bị cáo Lợi đã chiếm đoạt của Ngân hàng Agribank Việt Nam đã được bồi thường xong. Tại phiên tòa, Nguyễn Phước Lợi đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình là lợi dụng nhiệm vụ được giao để thực hiện hành vi chiếm đoạt số tiền 3.303.300.000 13 đồng do bị cáo trực tiếp quản lý rồi bỏ trốn. Số tiền chiếm đoạt được, bị cáo sử dụng trả nợ thua độ bóng đá và tiêu xài cá nhân. Bản án chỉ tuyên hình phạt đối với bị cáo mà không có kiến nghị gì để khắc phục thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý của Phòng giao dịch. Rõ ràng vụ việc có căn cứ về những thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý dẫn đến tội phạm nhưng các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án, trong đó có Tòa án chưa quan tâm thực hiện nhiệm vụ kiến nghị khắc phục để phòng ngừa tội phạm. Nguyên nhân để xảy ra tội phạm là do chủ quan, đơn giản trong công tác quản lý của lãnh đạo, nhân viên Phòng giao dịch, của cán bộ ngân hàng, không kiểm tra số tiền tồn thực tế theo quy định tại phòng giao dịch khu vực I Tháp Mười. Từ những sơ hở này đã tạo điều kiện làm phát sinh tội phạm, nhưng Hội đồng xét xử cũng như Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp không có kiến nghị, cũng không có văn bản riêng gửi cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam hoặc Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh tỉnh Đồng Tháp để có biện pháp khắc phục, sửa chữa thiếu sót, vi phạm trong công tác quản lý theo thẩm quyền được quy định tại Điều 264 Bộ luật TTHS năm 2015. Thông qua bản án còn cho thấy bất cập là cho đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn rõ ràng, chi tiết về trách nhiệm của Tòa án thực hiện kiến nghị khi vụ án có căn cứ kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội. Đây là điều bất cập cần được sớm khắc phục trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án, góp phần phòng ngừa, khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ quan, tổ chức. Thứ hai, Tòa án có kiến nghị nhưng nội dung kiến nghị sơ sài, không rõ; kiến nghị chung trong bản án, không có văn bản kiến nghị riêng; thẩm quyền không thống nhất là Chánh án Tòa án hay Hội đồng xét xử kiến nghị; Tòa án cũng không quy định thời hạn (30 ngày) cho các cơ quan, tổ chức hữu quan khi nhận được kiến nghị phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án biết về những biện pháp được áp dụng. Đây cũng là điều bất cập trong quá trình Tòa án thực hiện thủ tục kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp cần thiết theo thẩm quyền để khắc phục nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm theo Điều luật quy định. Ví dụ: Bản án số 25/2018/HS/ST ngày 04/4/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang. 14 Từ ngày 15/3/2018 - ngày 04/4/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2018/HSST ngày 06/02/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2018/QĐXXST-HS ngày 26/02/2018 đối với các bị cáo: Phạm Thanh Dũng, sinh năm 1969, nơi cư trú: Ấp An Khánh, xã Khánh An, huyện An Phú, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Giám đốc Công ty Tân Thành Lợi và đồng phạm (26 bị cáo khác có liên quan trong vụ án). Theo nội dung vụ án: ngày 19/11/2013, Tổng cục thuế - Bộ Tài chính có Công văn số 3919/TCT-TTr về việc chuyển hồ sơ thanh tra thuế cho Tổng cục An ninh II, Bộ Công an (Nay là Tổng cục An ninh). Theo đó, qua công tác thanh tra việc chấp hành pháp luật thuế tại Công ty TNHH Tân Thành Lợi (Công ty Tân Thành Lợi), địa chỉ: ấp An Khánh, xã Khánh An, huyện An Phú, tỉnh An Giang do Phạm Thanh Dũng làm giám đốc, đại diện theo pháp luật có hành vi vi phạm về nguồn tiền thanh toán qua tài khoản vãng lai của người nước ngoài mở tại Ngân hàng thương mại Việt Nam không hợp pháp, vừa liên quan đến việc chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT), vừa liên quan đến vấn đề an ninh tiền tệ tại các khu vực biên giới. Kết quả điều tra, đã xác định được: Phạm Thanh Dũng thành lập và sử dụng pháp nhân của Công ty Tân Thành Lợi, Công ty TNHH MTV Tân Thành Lợi An Phú (Công ty Tân Thành Lợi An Phú) và Công ty TNHH MTV TM Tân Lợi Kim (Công ty Tân Lợi Kim), liên hệ, thỏa thuận mua các hóa đơn GTGT khống đầu vào của nhiều công ty, doanh nghiệp trong nước. Sau đó, Phạm Thanh Dũng và đồng phạm móc nối, liên hệ với một số lãnh đạo, cán bộ Hải quan cửa khẩu Khánh Bình, Bắc Đai và Cục thuế tỉnh An Giang, Chi cục thuế huyện An Phú, tỉnh An Giang, nhằm tạo dựng hồ sơ xuất khẩu có số lượng hàng khống, làm thủ tục hoàn thuế GTGT, chiếm đoạt một số lượng lớn tiền ngân sách Nhà nước. Nhận định của Tòa án: với các tình tiết của vụ án đã được chứng minh tại phiên tòa có đủ cơ sở để kết luận Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tối cao truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật. Đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến hoạt động quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu của Nhà nước và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hợp pháp, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Các bị cáo đã lợi dụng chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với doanh nghiệp trong việc hoàn thuế GTGT, dùng thủ đoạn gian dối lập các hợp đồng mua hóa đơn đầu vào “khống”, thực hiện các hợp đồng xuất khẩu để
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan