Khoa học dùng người trong hoạt động lãnh đạo và phép dùng người
trong TT HCM.
A, MỞ ĐẦU
Trong lịch sử nhân loại, từ khi có nhà nước thì việc dùng người luôn
luôn được đặt ra, nó quyết định sự thành bại của mọi chế độ chính trị, quyết
định sự nghiệp của từng nhà chính trị, tướng lĩnh...Trong hệ thống tư tưởng
chính trị và văn hoá Hồ Chí Minh, phép dùng người là một bộ phận đặc sắc
và quan trọng. Cách dùng người của chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện thái độ
trọng thị, tầm nhìn minh triết, lòng nhân ái bao la và tư tưởng đại đoàn kết cao
cả.Trong giai đoạn hiện nay, những bài học của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
dùng người, phép dùng người và trọng dụng nhân tài vẫn còn nguyên giá trị.
B, NỘI DUNG
1, Khoa học dùng người trong tư tưởng và hoạt động lãnh đạo của Hồ
Chí Minh
1.1 Dùng người vì chính lợi ích của mọi người
Động cơ thôi thúc Hồ Chí Minh là tiến hành sự nghiệp vĩ đại: giải
phóng dân tộc, xã hội, con người, trong đó độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh
phúc cho đồng bào; làm cho mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được học hành. Chính động cơ ấy đã trở thành triết lý nhân sinh, thành sợi chỉ
đỏ xuyên suốt toàn bộ chính sách dùng người của Hồ Chí Minh. Động cơ
mang tính lý tưởng, khắc đậm chủ nghĩa nhân văn Hồ Chi Minh đã gặp gỡ
những mong mỏi và lợi ích đời thường của mọi người lao khổ. Ý chí của
Lãnh tụ với mong mỏi của đại đa số quần chúng trở nên đồng thuận một cách
tự nhiên. Mọi người tập hợp dưới ngọn cờ của Lãnh tụ, phấn khởi tự hào được
là “lính Cụ Hồ”, tuân theo sự điều khiển của Lãnh tụ: “Bác bảo đi là đi”, bởi
họ tin rằng: “Bác bảo thắng là thắng”.
Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã gửi thư tới UBND các cấp phê phán thói kiêu ngạo, tưởng
mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi, coi khinh dân gian, cử chỉ
lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng” lên; không biết rằng, thái độ kiêu
ngạo đó sẽ làm mất lòng tin cậy của dân, sẽ hại đến uy tín của Chính phủ.
Người căn dặn cán bộ, công chức các cấp: việc gì hại đến dân, ta phải hết sức
tránh. Chúng ta yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta. Hồ Chí Minh là
ngọn cờ tập hợp mọi tầng lớp nhân dân; Người không những có sức cảm hoá,
thu phục được những người cùng chí hướng, những tầng lớp, giai cấp cách
mạng và những người có cảm tình với cách mạng mà còn cả những người
không cùng chính kiến, quan điểm, thậm chí cả kẻ thù của mình. Sở dĩ như
vậy là bởi vì, ở Người luôn toát lên sự thẳng thắn, trung thực, tôn trọng lẽ
phải, tôn trọng con người và luôn ứng xử với ''lý lẽ phân minh, nghĩa tình đầy
đủ'', luôn luôn giải quyết công việc ''có lý, có tình'', xuất phát từ đời sống hiện
thực.
1.2 Hiểu mình và hiểu người
Xưa nay các vĩ nhân làm nên sự nghiệp lớn đều có chung một tư tưởng:
“biết mình, biết người”, “biết địch, biết ta”. Biết - chính là bí quyết của sự
thành công. Hồ Chí Minh đã chỉ ra một số căn bệnh cơ bản làm cho người cán
bộ không tự biết được mình. Đó là, cậy thế kiêu ngạo, ưa người phỉnh nịnh
mình,tư túi, kinh nghiệm chủ nghĩa, máy móc, giáo điều. Người cán bộ lãnh
đạo, quản lý mắc những bệnh tật ấy, thì không hiểu được chính cái mạnh, cái
yếu của mình do vậy không thể hiểu được người khác, tựa như mắt đã mang
kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái mình trông.
Muốn biết rõ cán bộ, muốn đối đãi một cách đúng đắn các hạng người, trước
hết phải sửa những khuyết điểm của mình. Mình càng ít khuyết điểm thì cách
xem xét cán bộ càng đúng Trên cơ sở tự hiểu mình, cần phải có phương pháp
xem xét để hiểu cán bộ một cách thấu đáo, “không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ
xét một lúc, một việc” mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ”.
Theo Hồ Chí Minh, muốn dùng cán bộ đúng thì người cán bộ lãnh đạo
cần phải:
Một là, mình phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một
cách chí công vô tư, không có thành kiến, khiến cho cán bộ không bị bỏ rơi.
Hai là, phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gũi những người mình
không ưa.
Ba là, phải có tính chịu khó dạy bảo, mới có thể nâng đỡ những đồng
chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ.
Bốn là, phải sáng suốt, mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán
bộ tốt.
Năm là, phải có thái độ vui vẻ thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần
gũi mình. Khéo dùng cán bộ xuất phát từ việc tập hợp được sức lực và tài
năng của mọi người vào việc hoàn thành nhiệm vụ chung. Nếu dùng cán bộ
mà để họ hoang mang, sợ hãi, buồn rầu, uất ức hoặc cộng tác không hợp, chắc
không thành công được. Vì vậy, muốn cán bộ làm được việc, phải khiến cho
họ yên tâm làm việc, vui thú làm việc, phải thực hành những việc sau: làm
cho người cán bộ mạnh dạn dám nghĩ, dám nói, dám đề xuất ý kiến; làm cho
cán bộ có tinh thần chủ động, dám phụ trách (làm chủ) trong công việc. Phải
mạnh dạn cất nhắc cán bộ.
1.3 Đào tạo cán bộ, thường xuyên đổi mới và đan xen các thế hệ cán bộ
Muốn có cán bộ tốt, thì cơ quan lãnh đạo, quản lý phải nuôi dạy cán bộ
như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Muốn dùng người thì
phải quan tâm săn sóc, giúp đỡ, nghĩa là phải “nâng cao'' người cán bộ, cả về
đời sống vật chất và đời sống tinh thần, làm cho người cán bộ ngày càng “lớn
lên” cùng với sự nghiệp cách mạng. Phải thường xuyên huấn luyện cán bộ để
bất cứ cán bộ nào cũng đều “vững về chính trị, giỏi về chuyên môn”.
Mỗi thế hệ cán bộ sinh ra và trưởng thành trong những hoàn cảnh cụ
thể khác nhau, mỗi người đều có những sở trường và sở đoản, cái mạnh và cái
yếu nhất định, tuyệt nhiên không ai giống ai. Hồ Chí Minh nhắc nhở: phải
thấy cái giới hạn khắc nghiệt của thời gian để tạo nguồn thay thế, bổ sung cho
tổ chức những lớp người mới, đủ sức lực và tài năng đảm đương nhiệm vụ
theo những yêu cầu mới. Theo Người, cần cán bộ già, đồng thời rất cần nhiều
cán bộ trẻ; công việc ngày càng nhiều, càng mới. Một mặt, Đảng phải đào tạo,
dìu dắt đồng chí trẻ, mặt khác, đảng viên già phải cố gắng mà học. Việc đổi
mới cán bộ phải rất khách quan, công minh, cần lấy việc hoàn thành nhiệm vụ
làm căn cứ; phải tổng kết từ phong trào thực tiễn, phát hiện những nhân tố
mới, những cán bộ trẻ có đức, có tài để trao nhiệm vụ cho họ. Mặt khác cũng
cần tạo điều kiện cho số cán bộ lớn tuổi, đã công tác quá lâu trong các văn
phòng có điều kiện thâm nhập thực tế để khỏi lạc hậu với thực tế Vấn đề luân
chuyển cán bộ hiện nay là một chủ trương đúng phù hợp với tư tưởng Hồ Chí
Minh.
2, Đổi mới phong cách lãnh đạo và đánh giá cán bộ
2.1 Đổi mới phong cách lãnh đạo
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chăm lo đến công tác bồi dưỡng,
đào tạo cho Đảng một đội ngũ cán bộ thực sự vững mạnh, có đủ đức, đủ tài để
đưa con thuyền cách mạng đến bến bờ vinh quang. Người cho rằng: “công
việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” và "Đảng phải nuôi
dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu” [3, tr.273].
Người cũng luôn căn dặn cán bộ các cấp, nhất là lãnh đạo phải tỉnh táo
lựa chọn người để bố trí công viê êc cho đúng. Làm lãnh đạo mà không biết
dùng người, hoặc dùng người một cách thiên lệch, thiếu đúng đắn thì không
xứng với cương vị được giao. Cho nên, Người yêu cầu khi đánh giá, sử dụng
cán bộ phải đúng và khéo, đảm bảo cả khoa học lẫn nghê ê thuật.
Muốn sử dụng đúng và khéo, trước hết phải hiểu và đánh giá đúng cán
bộ. Đánh giá cán bộ phải toàn diện, khách quan, công tâm. Muốn hiểu cán bộ,
trước hết phải tự biết mình, biết đúng sự phải trái của mình thì mới biết đúng
sự phải trái của người khác. Nếu không biết sự phải trái của mình thì chắc
không nhận rõ người tốt hay xấu. Hồ Chí Minh cũng phê phán những chứng
bệnh mà người lãnh đạo hay mắc phải là: tự cao, tự đại, ưa nịnh, chán, ghét
những người chính trực; đem lòng yêu, ghét mà đối với người, dùng những
người tính tình hợp với mình mà tránh những người không hợp với mình. Kết
quả là họ làm sai mà mình vẫn bao che, bảo hộ, khiến cho họ ngày càng thoái
hóa, biến chất. Còn đối với những người chính trực thì “bới lông tìm vết”.
Như thế, không chỉ làm hại tới uy tín của Đảng mà còn làm hỏng cả người
lãnh đạo. Người lãnh đạo phạm một trong những bệnh đó thì cũng như mắt đã
mang kính màu, không bao giờ thấy rõ cái sự thật những cái gì mình thấy.
Do đó, khi lựa chọn cán bộ phải dựa trên những tiêu chuẩn nhất định
và phải biết cách dùng cán bộ cho đúng. Theo Hồ Chí Minh, người lãnh đạo
phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí công vô tư,
khiến cho cán bộ không bị bỏ rơi. Phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần
gũi những người mình không ưa; phải biết giúp đỡ những đồng chí còn kém,
giúp họ tiến bộ; phải sáng suốt, tỉnh táo mới khỏi bị “bọn vu vơ bao vây mà
xa cách cán bộ tốt”; phải có thái độ vui vẻ, thân mật, các đồng chí ấy mới gần
gũi mình. Để cán bộ yên tâm làm việc, theo Người, lãnh đạo phải có gan cất
nhắc cán bộ. Cất nhắc cán bộ, phải vì công việc, như thế công việc nhất định
“chạy”. Trước khi cất nhắc phải nhận xét rõ ràng, thấy được những mặt tích
cực, những điểm hạn chế trong từng người cụ thể để có hướng sử dụng đúng.
Nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục mà
gây nên “mối lôi thôi” trong Đảng. Khi cất nhắc cán bộ phải vì tập thể, tránh
động cơ cá nhân, áp đặt vô nguyên tắc, thiếu dân chủ, cần vì sự ổn định và
phát triển của cơ quan, đơn vị chứ không phải vì ai ngồi vào vị trí này, ai ngồi
vào vị trí kia.
Phải biết khiến cho cán bộ có gan nói, có gan đề ra ý kiến đóng góp ưu,
khuyết điểm của lãnh đạo. Như thế chẳng những không phạm gì đến uy tín
của người lãnh đạo mà lại thực hành tốt dân chủ rộng rãi trong Đảng; khiến
cho cán bộ có gan phụ trách, có gan làm việc. Có nhiều việc hay, việc dở một
phần do cán bộ có đủ năng lực hay không, nhưng một phần cũng do cách lãnh
đạo có đúng hay không. Năng lực của con người không phải hoàn toàn do tự
nhiên mà có, phần lớn được tích lũy từ kinh nghiệm thực tiễn công tác. Lãnh
đạo khéo, tài nhỏ có thể hóa ra tài to. Lãnh đạo không khéo, tài to cũng hóa ra
tài nhỏ.
Cũng theo Bác, trước khi giao công tác cho cán bộ, phải bàn kỹ với họ.
Nếu họ gánh không nổi, chớ miễn cưỡng giao việc đó cho họ. Khi đã giao cho
họ thì cần phải chỉ đạo rõ ràng, sắp xếp đầy đủ, vạch rõ những điểm chính và
những điểm khó khăn có thể xảy ra. Một khi đã quyết định rồi thì “thả” cho
họ làm, khuyên họ cứ cả gan mà làm và phải hoàn toàn tin họ. Cũng như
trong quân đội, khi chiến lược chiến thuật và nhiệm vụ đã quyết định rồi, vị
Tổng tư lệnh không cần tham gia vào những vấn đề nhỏ nhặt. Phải để cho các
cấp chỉ huy có quyền “tùy cơ ứng biến”, có như thế mới phát triển tài năng
của họ được. Nếu không tin cán bộ, sợ họ làm không được, rồi thì việc gì cấp
trên cũng nhúng tay vào, kết quả thành chứng bao biện mà công việc cũng
không xong. Cán bộ sinh ra nản chí, ỷ lại, mất hết sáng kiến.
Đối với cán bộ mắc sai lầm, theo Người, lãnh đạo phải giúp đỡ họ một
cách chí tình, làm cho họ tự giác thấy được nguyên nhân của sai lầm và tác
hại của nó, để có biện pháp khắc phục, sửa chữa một cách tích cực và hiệu
quả. Không phải khi cán bộ có sai lầm mà đã vội cho họ là “động cơ gì”,
“mục đích gì”… Những cách nghĩ như thế đều không đúng. Sửa chữa sai lầm
một phần là trách nhiệm của người lãnh đạo. Sửa chữa sai lầm bằng giải
thích, thuyết phục, cảm hóa, dạy bảo là điều nên làm, nhắc nhở nhẹ nhàng
nhưng sâu sắc, nhưng không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Vấn đề là
phân tích rõ ràng mức độ sai lầm nặng hay nhẹ một cách thấu tình, đạt lý mà
dùng hình thức xử phạt cho đúng, khi xem xét các vấn đề phải dựa trên cương
lĩnh, Điều lệ Đảng, đường lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng; đây là yếu tố
cần trong lãnh đạo, chỉ huy và cũng là tính nhân văn trong quan hệ cấp trên,
cấp dưới, giữa cá nhân và tổ chức.
Cách đối xử với cán bộ cũng là một điểm trọng yếu trong tổ chức công
việc; đối xử khéo, đúng thì mới thực hiện được nguyên tắc “vấn đề cán bộ
quyết định mọi việc”. Phê bình, xử phạt đúng chẳng những không làm mất thể
diện và uy tín của cán bộ, của Đảng, trái lại còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ
hơn, thiết thực hơn, uy tín thể hiện càng tăng.
Sức mạnh của đội ngũ cán bộ nói chung và của từng cán bộ nói riêng
chỉ được phát huy, phát triển khi được đánh giá, sử dụng đúng với tài năng
của họ. Nếu đánh giá cán bộ không đúng, hoặc là quá cao, hoặc là quá thấp sẽ
dẫn tới sử dụng “không đúng người, đúng việc”, “như vậy là có hại cho dân,
cho Đảng”. Theo Bác, đánh giá cán bộ không những để sử dụng mà qua đó
còn nâng đỡ họ, tạo điều kiện cho họ phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế,
khuyết điểm; có thái độ khách quan, khoa học, không thổi phồng, tô son,
không bôi đen, bóp méo. Phải đứng trên quan điểm, lập trường chủ nghĩa
Mác-Lênin để xem xét, đánh giá, không định kiến, hẹp hòi, “cách xem xét cán
bộ, quyết không nên chấp nhất”. Không nên chỉ nhìn vào những hạn chế,
khuyết điểm không thuộc về bản chất mà phải thấy được mặt tích cực, khả
năng phát triển để có hướng sử dụng cho phù hợp với từng loại cán bộ trên
từng lĩnh vực công tác.
Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, để có cơ sở
đánh giá đúng về cán bộ phải đặt họ vào trong hoàn cảnh cụ thể, nghiên cứu
họ qua hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, do yêu cầu từng cương vị, chức trách
và khả năng vận dụng cụ thể của từng người có khác nhau nên kết quả hoạt
động thực tiễn không thể như nhau. Do đó, khi đánh giá về cán bộ “không nên
chỉ xét mặt ngoài, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả toàn bộ công
việc của cán bộ”. Một người cán bộ, khi trước có sai lầm nhưng không phải vì
thế mà người ta sai lầm mãi. Vì như vậy, sẽ không thấy được sự vận động,
phát triển và tiến bộ của cán bộ, chẳng khác nào “đem một cái khuôn khổ nhất
định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau”.
2.2 Đánh giá cán bộ
Đánh giá cán bộ là một khâu trong công tác cán bộ, phải tuân thủ
nguyên tắc tổ chức. Tuy nhiên, trong thực tế, đánh giá cán bộ không thể
không chịu ảnh hưởng và thông qua lăng kính chủ quan. Bởi vậy, để khắc
phục những hạn chế chủ quan, đòi hỏi người lãnh đạo khi xem xét, đánh giá
cán bộ phải thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trí tuệ
tập thể, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của cơ quan tham mưu để có kết luận về
cán bộ một cách chính xác. Phẩm chất và năng lực của cán bộ có thể không
phản ánh trung thực trước cấp trên, song không thể che đậy được trước sự
nhìn nhận của mọi người trong cơ quan, đơn vị, do đó "phải nghe, phải hỏi ý
kiến của cấp dưới. Nếu ý kiến các đồng chí cấp dưới đúng, ta phải theo…” [3,
tr.281].
Để có được kết quả đánh giá chính xác về cán bộ phụ thuộc rất lớn vào
vai trò người lãnh đạo. Phẩm chất và năng lực của người cán bộ chỉ được
phản ánh một cách trung thực khi người lãnh đạo có tư cách, có quan điểm và
phương pháp đánh giá đúng, thực sự có cái tâm trong sáng. Bác rất quan tâm
đến nhân cách của người lãnh đạo và yêu cầu trước khi xem xét, đánh giá cán
bộ thì người lãnh đạo phải xem xét lại chính mình. "Nếu không biết sự phải
trái ở mình, thì chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu”. Bên cạnh
những yêu cầu về trình độ lý luận chính trị, đạo đức, lối sống còn đòi hỏi cán
bộ lãnh đạo về trình độ năng lực tổ chức thực tiễn, trình độ chuyên môn, am
hiểu công tác lãnh đạo, hiểu biết về con người và tâm lý con người, các
phương pháp làm việc với mọi người… Từ đó, xây dựng một tập thể hoạt
động có mục tiêu rõ ràng và tiềm lực sáng tạo cao, biết phát huy sức mạnh tập
thể, sử dụng các cơ quan tham mưu và cán bộ dưới quyền có hiệu quả. Vì vậy,
năng lực tổ chức thực tiễn là yêu cầu tối quan trọng đối với người lãnh đạo ở
mọi cấp.
Thực tế, trong thời gian vừa qua công tác cán bộ có những lúc, những
nơi chưa đáp ứng kịp yêu cầu, nhiệm vụ, còn có những bất cập trong xem xét
đánh giá. Tệ kéo bè kéo cánh, ai hợp với mình thì người chưa tốt cũng cho là
tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau; ai không hợp với mình thì
người tốt cũng cho là chưa tốt, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách dèm pha,
nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm
những điều không đúng, cục bộ... làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào
Đảng, Nhà nước. Trong vấn đề dùng cán bộ, Bác cũng đề cập việc kết hợp
cán bộ tại chỗ với cán bộ do cấp trên điều về, nhưng tốt nhất là tạo nguồn cán
bộ tại chỗ, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, sử dụng cán bộ tại chỗ; nếu không có
và thiếu, mới điều cán bộ nơi khác về.
3, Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo quản lý
Phong cách làm việc là bộ mặt của tâm hồn là trang phục của tư tưởng,
là sự thể hiện bản chất và tính cách, của con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
phong cách làm việc thể hiện tư tưởng, đạo đức, nhân cách vĩ đại của Người.
Sau đây là những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phong cách
làm việc cần thiết của người cán bộ lãnh đạo, quản lý.
3.1 Kết hợp tính nguyên tắc cứng rắn với biện pháp thực hiện linh hoạt,
mềm dẻo
Yêu cầu đầu tiên trong phong cách làm việc của người lãnh đạo, quản
lý là phải có sự thống nhất giữa tính Đảng, tính nguyên tắc cao với tính năng
động, sáng tạo, sự nhạy cảm với cái mới.
“Trung với Đảng”, “Trung với nước, hiếu với dân” là phẩm chất cơ bản
xuyên suốt mọi hoạt động của người lãnh đạo, quản lý. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định rõ điều chủ chốt trong phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo,
quản lý là phải:
Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt
đường lối chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao
động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục
vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi
công việc.
Trong mọi công tác, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, người lãnh đạo, quản lý
có thể sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau để hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, ở đây cần có sự vững vàng, không thay
đổi trong những vấn đề thuộc về nguyên tắc. Những vấn đề có tính Cương
lĩnh, quan điểm cơ bản của Đảng, mục tiêu, chính sách, pháp luật của Nhà
nước là bất biến, phải giữ vững như sắt đá.
Để thực thực hiện những điều bất biến đó, các hình thức, phương pháp,
biện pháp, bước đi phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt mới có thể đạt kết quả.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn những người lãnh đạo quản lý phải có
bản lĩnh Dĩ bất biến ứng vạn biến.
3.2 Kết hợp tính cách mạng với tính khoa học
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: Muốn lên sự nghiệp lớn, tinh
thần càng phải cao. Vì có nhiệt tình cách mạng, người cán bộ lãnh đạo, quản
lý mới say mê, tận tuỵ với công việc để tìm tòi, sáng tạo, đề ra những phương
án tối ưu nhằm thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao. Song, nhiệt tình cách
mạng của người cán bộ lãnh đạo chỉ đem lại hiệu qủa thiết thực cho cuộc sống
của nhân dân khi nó kết hợp chặt chẽ với tri thức khoa học, tôn trọng và tuân
theo quy luật khách quan.
Nhiệt tình cách mạng sẽ trở thành duy tâm, duy ý chí nếu thiếu tính
khoa học. Nhiệt tình cách mạng của người cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ có
hiệu quả cao khi họ thực sự am hiểu công việc, tinh thông nghiệp vụ theo
cương vị mình phụ trách. Có nhiệt tình mà thiếu tri thức khoa học sẽ dẫn tới
làm sai đường lối, chính sách, hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến phá
hoại một cách vô ý thức.
3.3 Kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách và quyết đoán
Hồ Chí Minh chỉ rõ: Một người dù tài giỏi đến đâu cũng không thể nắm
được hết mọi mặt của một vấn đề phức tạp, cũng như không thể biết hết được
mọi việc trong đơn vị cũng như đời sống xã hội. Cho nên, cần phải có cách
làm việc tập thể để phát huy được trí tuệ của tập thể, của đông đảo quần
chúng nhân dân nhằm hoàn thành sự nghiệp của một tập thể, một đơn vị hay
địa phương mà riêng một mình cán bộ lãnh đạo, quản lý không làm nổi. Tập
thể lãnh đạo là dân chủ. Lãnh đạo, quản lý không phát huy trí tuệ tập thể, thì
sẽ dẫn đến tệ bao biện, độc đoán, chủ quan, chuyên quyền.
Tuy nhiên, có ý thức tập thể cao, biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến tập
thể, phát huy trí tuệ tập thể, nhưng lại không có tính quyết đoán, không dám
chịu trách nhiệm cá nhân trước tập thể, thì không thể có những quyết định kịp
thời đáp ứng yêu cầu cuộc sống đòi hỏi và công việc cũng không thể tiến triển
được.
3.4 Phong cách làm việc quần chúng
Chủ tịch Hồ Chí Minh khuyên cán bộ, đảng viên nói chung và các cán
bộ lãnh đạo, quản lý trong mọi công tác của Đảng, của Chính phủ, Đoàn thể,
phong cách làm việc tốt nhất là phải: Từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần
chúng. Nghĩa là gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân
tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem
nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng và làm nó thành ý kiến của quần
chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó. Đồng thời
nhân lúc quần chúng thực hành, ta xem xét lại, coi ý kiến đó có đúng hay
không. Rồi lại tập trung ý kiến của quần chúng, phát triển những ưu điểm, sửa
chữa những khuyết điểm, tuyên truyền, giải thích, làm cho quần chúng giữ
vững và thực hành. Cứ như thế mãi thì lần sau chắc đúng mực hơn, hoạt bát
hơn, đầy đủ hơn lần trước. Đó là cách lãnh đạo cực kỳ tốt.
Các cán bộ lãnh đạo, quản lý do không biết gom góp ý kiến của quần
chúng, kinh nghiệm của quần chúng, cho nên ý kiến của họ thành ra lý thuyết
suông, không hợp với thực tế. Vì vậy, ngay trong công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, trong cải cách bộ máy Nhà nước và nhiều công việc khác, cần phải
thực hành cách liên hợp sự lãnh đạo với quần chúng và liên hợp chính sách
chung với sự chỉ đạo riêng. Phải dùng cách “Từ trong quần chúng ra, trở lại
với quần chúng”. Biết làm như vậy mới thật là biết lãnh đạo, quản lý.
3.5 Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư
Chữ Cần theo cách hiểu truyền thốnglà siêng năng, chăm chỉ. Song,
nếu chỉ hiểu chữ cần như thế. Hơn nữa “Nếu chỉ 1 ngày cần mà 10 ngày
không cần, thì cũng vô ích”, thì dân tộc ta khó thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
Học và làm theo tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh, nhân dân ta, mà trước hết
là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thực hiện chữ Cần với nhiều nghĩa mới, hiện
đại do Người mang lại và gương mẫu thực hiện. Cần không phải là làm xổi.
Cần còn có nghĩa là phải cố gắng hết sức mình trong công tác, học tập trong
suốt cả năm, trong cả đời mỗi người; có chí tiến thủ, không sợ việc gì là khó.
“Cần thì việc gì dù khó khăn mấy cũng làm được”. Hơn nữa, “Cần, tức là
tăng năng suất trong công tác, bất kỳ công tác gì”
Trong phong cách làm việc truyền thống, người Việt Nam còn thiếu sức
bền, tính tổ chức và kế hoạch. Cho nên, là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải rèn
luyện phong cách làm việc có sức bền, có kế hoạch, biết phân công, đặc biệt
là biết dùng nguời, nhất là người có tài.
Đi đôi với Cần là Kiệm. Hồ Chí Minh cho rằng tiết kiệm không phải là
keo kiệt, bủn xỉn, coi đồng tiền bằng cái trống. Tiết kiệm là biết chi tiêu một
cách khoa học, có hiệu quả nhất. Việc không đáng tiêu, thì một xu cũng không
tiêu. Còn khi có việc đáng làm vì lợi ích cho đồng bào, Tổ quốc thì dù tốn bao
công của cũng vui lòng.
Đi đôi với thực hành tiết kiệm là chống lãng phí. Người lãnh đạo, quản
lý càng phải có phong cách khiêm tốn, giản dị, chống lãng phí, xa xỉ. Chống
lãng phí sức lao động, chống lãng phí thời giờ, chống lãng phí tiền của của
nhân dân, của cơ quan, xí nghiệp, đơn vị sản xuất thì năng suất lao động mới
cao, kinh doanh sản xuất mới phát triển.
Cán bộ lãnh đạo quản lý phải liêm khiết, không được tham ô của Nhà
nước và của nhân dân. Tâm trạng của quần chúng nhân dân ta hiện nay đối
với cán bộ lãnh đạo, quản lý, có thể nói có phần nào đó giống như người xưa
từng nhận định: Lại không sợ ta nghiêm mà sợ ta Liêm; dân không phục ta tài
mà phục ta Công; Công thì sáng, Liêm thì uy.
Hồ Chí Minh phân tích: Liêm là trong sạch, không tham lam. Tất cả
mọi công dân đều phải liêm. Song, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thực hành
chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân. Đồng thời, phải tuyên truyền giáo
dục cho nhân dân có hiểu biết, không chịu đút lót, thì dù cán bộ không liêm
cũng phải hoá ra liêm. Dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết kiểm soát
cán bộ, để giúp cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện chữ liêm.
Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có phong cách quang minh chính đại,
thấy việc phải thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ cũng tránh. Chủ tịch
Hồ Chí Minh phân tích: Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Người cán bộ
lãnh đạo, quản lý đã Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người có
khí tiết cao thượng, xứng đáng là người dẫn dắt, điều khiển hành động của
quần chúng nhân dân. Người liêm chính không sợ hãi trước nhưng uy lực tăm
tối, dám dũng cảm gạt bỏ những việc làm trái với đạo lý, không để cho chúng
làm bận tâm. Học và làm theo khí tiết cần kiêm liêm chính Hồ Chí Minh, một
khi hình thành khí tiết cao thượng, thì bất cứ những thứ danh tiếng, tiền tài,
địa vị, sắc đẹp, lợi lộc không chính đáng nào cũng không thể khiến người lãnh
đạo, quản lý dao động, ngả nghiêng, hoặc thoái hóa biến chất.
4, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc sử dụng, đánh giá con
người và xây dựng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý nước ta hiện nay
4.1 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc sử dụng, đánh giá con
người
Hơn nửa thế kỷ qua nhưng những yêu cầu cơ bản đối với người lãnh
đạo khi đánh giá cán bộ mà Người chỉ dẫn vẫn giữ nguyên giá trị, tiếp tục
định hướng, soi đường để chúng ta quán triệt và thực hiện tốt chiến lược cũng
như công tác cán bộ của Đảng trong thời kỳ mới. Ngày nay, trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đội ngũ cán bộ vẫn
là nhân tố cơ bản, quyết định sự thành bại của sự nghiệp đổi mới. Quán triệt
tinh thần Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, để đẩy mạnh khâu làm theo trong đánh giá cán bộ hiện nay, cần thực
hiện tốt một số biê ên pháp cơ bản sau:
Một là, cấp ủy các cấp, đứng đầu là người lãnh đạo, cần quán triệt,
nâng cao nhận thức hơn nữa về vị trí, tầm quan trọng và nguyên tắc đảng
trong đánh giá cán bộ, có chính sách sử dụng cán bộ đúng. Đây là công việc
được tiến hành thường xuyên, thận trọng đúng với ý nghĩa là khâu khởi đầu
trong công tác cán bộ. Đánh giá chính xác những ưu điểm, khuyết điểm của
cán bộ là cơ sở để bồi dưỡng, đào tạo cán bộ gắn liền với sử dụng, cất nhắc
cán bộ, đáp ứng sự vận động và phát triển của sự nghiệp cách mạng. Sử dụng
cán bộ tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Vì vậy, trong chính sách sử dụng cán bộ
phải rất coi trọng đúng lúc, đúng người, đúng việc, không phải vì thân tìnhệ.
Tránh tình trạng “thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành
thử hai người đều lúng túng”.
Hai là, cấp ủy phải có tầm nhìn chiến lược trong quy hoạch cán bộ. Bởi
quy hoạch cán bộ sẽ làm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, vừa
giải quyết nhiệm vụ trước mắl, vừa giải quyết nhiê êm vụ lâu dài. Để quy
hoạch cán bộ được tốt, trước hết, phải đánh giá đúng thực trạng cán bộ, tìm rõ
nguyên nhân mạnh, yếu của đội ngũ cán bộ. Trên cơ sở đó và xuất phát từ
nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ tổ chức mà dự kiến, đề xuất công tác cán bộ
trong thời gian tới, chú ý tạo được nguồn cán bộ. Quy hoạch nên gắn với độ
tuổi để trẻ hóa, có kế cận hợp lý, tránh hẫng hụt cán bộ. Khi đã quy hoạch rồi
nên quan tâm, chăm lo bồi dưỡng với nội dung cụ thể, thiết thực, phù hợp với
từng loại cán bộ.
Ba là, khi đánh giá cán bộ phải toàn diện, khách quan, biện chứng,
không định kiến hẹp hòi, không bảo thủ, vị kỷ cá nhân, căn cứ vào kết quả
hoàn thành nhiệm vụ ở từng cương vị, chức trách làm cơ sở để đánh giá; kết
hợp chặt chẽ giữa đánh giá cán bộ với đánh giá đảng viên. Các cấp ủy khi
xem xét cán bộ phải quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng: “Đánh giá và sử
dụng đúng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiê êu quả công tác thực tế và sự
tín nhiệm của nhân dân làm thước đo chủ yếu; có phương pháp khoa học,
khách quan, công tâm theo quy trình chặt chẽ, phát huy dân chủ, dựa vào tập
thể và nhân dân để lựa chọn cán bộ” [1, tr.141].
Bốn là, đổi mới phương pháp đánh giá cán bộ trên cơ sở cụ thể hóa tiêu
chuẩn cán bộ ở từng cương vị, chức trách. Tiêu chuẩn cán bộ khác với điều
kiện cần có ở người cán bộ. Điều kiện là những yếu tố cần thiết như bằng cấp,
độ tuổi, giới tính… Những yếu tố đó là điều kiện cần thiết để phát huy tốt vai
trò cán bộ, nhưng chưa đủ nói lên chất lượng cán bộ. Điều kiện chỉ cần đề ra
tối thiểu, còn tiêu chuẩn thì đòi hỏi phải đề ra tối đa. Vì vậy, không nên đánh
đồng, lẫn lộn tiêu chuẩn với điều kiện trong công tác xây dựng đội ngũ cán
bộ. Ngoài tiêu chuẩn chung đối với cán bộ, ở những vị trí cụ thể chúng ta
cũng phải xác định rõ những tiêu chuẩn phù hợp, không nên dập khuôn máy
móc, đem một khuôn mẫu bất biến, khô cứng của loại cán bộ này để định hình
và xem xét với mọi loại cán bộ khác.
Năm là, khi đánh giá, xem xét cán bộ cần bảo đảm tính toàn diện cả về
trình độ đào tạo với năng lực thực tiễn. Quá trình xem xét, đánh giá không
nên xem nhẹ một yếu tố nào, bởi không khéo sẽ rơi vào “chủ nghĩa kinh
nghiệm” hoặc “lý thuyết suông”. Sự chính xác và hiệu quả phụ thuộc rất lớn
vào năng lực quản lý và đánh giá của cấp ủy, chỉ huy ở từng cơ quan, đơn vị.
Chúng ta cũng phảỉ xác định rõ: Nâng cao trình độ học vấn là một nhu cầu
thực sự để bảo đảm cho bản thân người cán bộ đủ điều kiện hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải ai cũng cố gắng có
được trình độ học vấn cao để công tác tốt hơn. Thực tiễn cho thấy, đã có
không ít trường hơp cán bộ do bổ nhiệm “nhầm” không những không thúc
đẩy được cơ quan, đơn vị phát triển mà còn để lại gánh nặng. Căn bệnh quan
liêu, độc đoán, hẹp hòi, ích kỷ, mất dân chủ... phần nào cũng có nguyên nhân
bắt nguồn từ những cán bộ có năng lực hạn chế đang nắm giữ những vị trí
quan trọng trong bộ máy công quyền. Nâng cao trình độ học vấn trong xã hội
văn minh hiện nay là điều cần thiết nhưng phải kết hợp chặt chẽ giữa trình độ
đào tạo với năng lực thực tiễn, đây là một trong những yêu cầu về tiêu chuẩn
của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay.
4.2 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng phong cách làm
việc của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta hiện nay
Để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây dựng phong cách làm
việc của Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta hiện nay, xin được khuyến
nghị một số phương hướng và giải pháp sau đây.
Thứ nhất, đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ
Chí Minh về phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong toàn
Đảng toàn dân ta.
Thứ hai, làm theo tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh đổi mới phong
cách làm việc của cán bộ, Đảng viên trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng hiện nay.
Thứ ba, đổi mới phong cách làm việc của cán bộ lãnh đạo, quản lý
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo Tư
tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta.
Thứ tư, tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng, Nhà nước
và nhân dân đối với việc xây dựng phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý.
Thứ năm, liên quyết đấu tranh chống nạn tham nhũng, tệ quan liêu,
lãng phí và các tiêu cực trong bộ máy Đảng, Nhà nước ta.
Xây dựng một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có bản lĩnh chính trị
vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có tư duy, phong cách làm việc phù
hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
C, KẾT LUẬN
Với Hồ Chí Minh, nhân dân, con người không bao giờ là phương tiện
của các nhà chính trị mà ngược lại nhà chính trị, đảng chính trị… phải nhất
quán trong nhận thức và hành động rằng nhân dân là người chủ sở hữu của
quyền lực chính trị, con người vừa là mục đích vừa là động lực và sức mạnh
của mọi sự nghiệp chính trị. Những lời căn dặn của Người về dùng người,
phép dùng người, trọng dụng nhân tài vẫn còn nguyên giá trị đối với chúng ta.
Thực hiện những điều vô cùng quý giá này là hành động thiết thực của chúng
ta học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người
Thủ tướng Phạm Văn Đồng có viết: “Bác Hồ dành muôn vàn yêu
thương đối với đồng chí, đồng bào. Trong tình yêu đó, có chỗ cho mọi người,
không quên sót một ai và sắp xếp cho mọi người vị trí chiến đấu, cũng như lo
lắng chu đáo cho mỗi người việc làm, đời sống và học tập, vừa nghiêm khắc
đòi hỏi, vừa thương yêu dìu dắt... Đối với kẻ lầm đường lạc lối, lòng Hồ Chủ
tịch còn rộng hơn biển cả. Người dạy phải khoan hồng, vui mừng đón rước
những đứa con vì cảnh ngộ mà lạc bầy; Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nói những
lời, làm những việc mà mỗi người lao động chờ mong, cảm hóa được nhân sĩ,
trí thức, thuyết phục được người do dự, phân vân, trân trọng từ các cháu thanh
niên và nhi đồng, chan hòa gần gũi với những người giúp việc quanh mình,
nâng niu từng nhân cách”.
D, DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cô nê g sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ
IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
2. Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, tập 3, 1995.
3. Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, tâ pê 5, 1995.
4. Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, tâ pê 6, 1996.
5. Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, tâ pê 8, 2000.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996.
- Xem thêm -