Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự việt nam luận văn ths. luật...

Tài liệu Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự việt nam luận văn ths. luật

.PDF
96
530
132

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HƯƠNG KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HƯƠNG KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Võ Khánh Vinh HÀ NỘI - 2009 Mục lục Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Mở đầu 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 8 1.1. Khái quát về khiếu nại, tố cáo 8 1.1.1. Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân 8 1.1.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam 9 1.1.3. Khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới 17 1.1.3.1. Quy định về quyền khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự Cộng hòa Liên bang Đức 17 1.1.3.2. Khiếu nại trong Bộ luật Tố tụng hình sự Canada 1994 20 1.1.3.3. Khiếu nại trong Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga 21 1.2. Khái niệm, đặc điểm của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự 24 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của khiếu nại 24 1.2.2. Khái niệm, đặc điểm của tố cáo 27 1.2.3. Tính đặc thù của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự 30 1.2.4. Phân biệt khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với khiếu nại bản án có hiệu lực pháp luật; tố cáo với tố giác tội phạm; phân biệt với Luật Khiếu nại, tố cáo; khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực đất đai và các lĩnh vực khác 32 1.2.4.1. Phân biệt khiếu nại quyết định tố tụng, hành vi tố tụng với 32 khiếu nại bản án có hiệu lực pháp luật 1.2.4.2. Phân biệt tố cáo trong tố tụng hình sự với tố giác tội phạm 34 1.2.4.3. Phân biệt khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với Luật Khiếu nại, tố cáo 36 1.2.4.4. Khiếu nại trong lĩnh vực đất đai 37 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆTNAM 40 2.1. Chủ thể khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự 40 2.1.1. Chủ thể khiếu nại trong tố tụng hình sự 40 2.1.1.1. Chủ thể có quyền khiếu nại trong tố tụng hình sự 40 2.1.1.2. Chủ thể bị khiếu nại trong tố tụng hình sự 46 Chủ thể tố cáo trong tố tụng hình sự 48 2.1.2.1. Chủ thể có quyền tố cáo trong tố tụng hình sự 48 2.1.2.2. Chủ thể bị tố cáo trong tố tụng hình sự 50 2.1.2. 2.1.3. "Chủ thể" giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự 51 2.1.3.1. Chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại 52 2.1.3.2. Đối với hành vi bị tố cáo, chủ thể giải quyết tố cáo cũng tương tự. Điều này có nghĩa chủ thể có thẩm quyền giải quyết tố cáo phải là người không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật bị tố cáo đó 52 2.1.4. Mối quan hệ giữa các chủ thể trong khiếu nại, tố cáo 52 2.2. Đối tượng của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự 53 2.2.1. Đối tượng của khiếu nại trong tố tụng hình sự 53 2.2.2. Đối tượng của tố cáo trong tố tụng hình sự 55 2.3. Quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự 56 2.3.1. Quá trình giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự 56 2.3.1.1. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự 56 2.3.1.2. Thủ tục và thời hạn giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự 61 2.3.2. Quá trình giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự 63 2.3.2.1. Thẩm quyền giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự 63 2.3.2.2. Thủ tục và thời hạn giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự 64 So sánh quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 với các quy định trước đây 67 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 69 3.1. Thực trạng và kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam 69 3.3.1. Thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam 69 3.1.2. Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo 70 3.2. Tồn tại và những nguyên nhân của tồn tại trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam 72 3.2.1. Những tồn tại của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam 72 3.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam 74 3.3. Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam 75 3.3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về chủ thể khiếu nại, tố cáo 75 3.3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về đối tượng khiếu nại, tố cáo 76 3.3.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm đối với chủ thể của khiếu nại, tố cáo 76 3.3.4. Hoàn thiện các quy định pháp luật về quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo 78 3.4. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao nhận thức của người dân, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong 79 2.3.3. việc thực hiện quyền, nghĩa vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo KẾT LUẬN 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định. Việc nghiên cứu sâu sắc và cụ thể các quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự sẽ góp phần vào việc nhận thức đúng, thực hiện đúng các quy định về khiếu nại, tố cáo phát huy dân chủ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Mặc dù khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự rất quan trọng, song, hiện nay, vấn đề này vẫn chưa được quan tâm, nghiên cứu một cách xác đáng và toàn diện, còn nhiều nội dung chưa được thống nhất, rõ ràng cụ thể trên cả phương diện lý luận và thực tiễn như: khái quát các quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự qua các giai đoạn lịch sử; phân biệt khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với khiếu nại, tố cáo theo Luật Khiếu nại, tố cáo và khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực khác; xem xét tính đặc thù của khiếu nại, tố cáo; thực tiễn áp dụng khiếu nại, tố cáo trong giải quyết vụ việc; kết quả của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự… Chính vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự là cần thiết. Kết quả của việc nghiên cứu này giúp chúng ta nắm bắt được những hạn chế trong các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện hơn nữa các quy định này. Đây chính là lý do dẫn tôi đến việc chọn "Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự là một trong những nội dung quan trọng thể hiện quyền cơ bản của công dân, có quan hệ mật thiết với Luật 1 Khiếu nại, tố cáo và các quy định về khiếu nại, tố cáo trong các lĩnh vực khác. Do vậy, dưới những góc độ nhất định, quy định này đã được một số các nhà khoa học, các luật gia nghiên cứu. Cụ thể: Bài nghiên cứu chuyên đề: Tố cáo và giải quyết tố cáo trong Luật tố tụng hình sự: Những vấn đề lý luận - thực tiễn và hoàn thiện pháp luật, của TSKH.Lê Cảm - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, đăng trên Tạp chí Khoa học (chuyên san Kinh tế - Luật), Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2007. Bài viết đề cập những vấn đề lý luận về tố cáo trong tố tụng hình sự, qua đó phân tích thực trạng tố cáo và giải quyết tố cáo, nêu ra những kẽ hở của pháp luật trong lĩnh vực này, đồng thời đưa ra mô hình lý luận của những kiến giải lập pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật tương ứng. "Khiếu nại, tố cáo theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003", của PGS.TS Phạm Hồng Hải, Tạp chí Luật học, số 6/2004, trong bài viết này, tác giả phân tích và lý giải những vấn đề cơ bản các quy định khiếu nại, tố cáo trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 như điều kiện, cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo. "Về người khiếu nại, tố cáo và người bị khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự" của đồng tác giả TSKH. Lê Cảm và ThS. Minh Phượng, Tạp chí Kiểm sát, số 10/2004, bài viết này đề cập đến việc nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan đến việc khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự theo hệ thống như sau: Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại, quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, quyền và nghĩa vụ của người bị tố cáo. "Về đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam", tác giả Nguyễn Trọng Phúc - Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2007, trong bài viết này, tác giả đã khái quát quyền khiếu nại, tố cáo trong lịch sử, đồng thời đưa ra những khái niệm cơ bản về khiếu nại, tố cáo, phân biệt khiếu nại, tố cáo với tố giác, tin báo về vi phạm pháp luật và vi phạm các quyền đó. Ngoài ra, nghiên cứu về khiếu nại, tố cáo còn được thể hiện trong "Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự" năm 2003, Nxb Công an nhân dân, do PGS.TS Võ 2 Khánh Vinh làm chủ biên; trong các sách giáo khoa chuyên ngành luật tố tụng hình sự; các tập bài giảng của giảng viên... Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên của các tác giả thường dưới dạng bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành, hoặc một phần trong các bài giảng của giáo trình giảng dạy hoặc một phần trong sách chuyên khảo... mà chưa cho công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ thống và toàn diện về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, như khái niệm, đặc điểm, chủ thể, đối tượng, quy trình giải quyết của khiếu nại, tố cáo và thực tiễn áp dụng các quy định của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. Qua đó, phân định rõ ràng, có hệ thống những nội dung cơ bản của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, so sánh với các quy định liên quan khác. Mặt khác, phân tích những tồn tại còn bất cập và đưa ra các giải pháp về mặt lý luận và hoàn thiện các quy định trong thực tiễn áp dụng, đồng thời nâng cao hiệu quả trong quá trình thực hiện của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng cũng như khuyến khích người dân tham gia giám sát phát hiện những sai sót trong quá trình này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích trên, chúng tôi tự đặt cho mình những nhiệm vụ sau: Về mặt lý luận: Xem xét có hệ thống sự phát triển của các quy định khiếu nại, tố cáo của luật tố tụng hình sự qua các giai đoạn lịch sử, phân tích khái niệm, đưa ra nội hàm và các đặc trưng về bản chất của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, điều kiện áp dụng và quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, mối liên hệ giữa khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự với Luật Khiếu 3 nại, tố cáo và các lĩnh vực liên quan khác, kết quả thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, từ đó làm rõ bản chất của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Đánh giá, so sánh kết quả áp dụng thực tiễn của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, đồng thời phân tích những nguyên nhân khách quan, chủ quan đối của những tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tế cũng như hoàn thiện các quy định trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về khiếu nại, tố cáo. 3.3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận của khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, thực tiễn áp dụng khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự hiện hành; xác định tồn tại, nguyên nhân của tồn tại và hướng giải pháp hoàn thiện pháp luật. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về nội dung: Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những nội dung cơ bản của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự hiện hành, bên cạnh đó có so sánh, đối chiếu với Luật Khiếu nại, tố cáo và các quy định khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực khác nhằm cho việc xác định bản chất và hướng hoàn thiện của các quy định khiếu nại, tố cáo trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Phạm vi về thời gian: - Các vấn đề lý luận nghiên cứu trong giai đoạn từ 1988 (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988) đến nay. - Về thực tiễn: nghiên cứu các kết quả áp dụng của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự từ năm 2003 đến nay. 4 4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như đảm bảo cơ chế hoạt động đúng, đầy đủ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, cũng như đảm bảo về các quyền của công dân được khiếu nại, tố cáo khi thấy người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng có những hành vi, quyết định tố tụng trái pháp luật, gây ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, luận văn còn áp dụng các thành tựu về khoa học của chuyên ngành pháp lý, các nhà chuyên môn, các luận điểm nghiên cứu của các nhà khoa học, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết chuyên ngành pháp lý được đăng trên các tạp chí. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp cơ bản sau để làm rõ bản chất của đối tượng nghiên cứu: - Phương pháp so sánh: Luận văn sử dụng phương pháp so sánh đặc trưng để phân biệt về mặt lý luận cũng như thực tiễn của khiếu nại, tố cáo qua các giai đoạn được quy định trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, thể hiện của phương pháp này là các đối chiếu về cơ chế, các điều kiện áp dụng của các quy định này. Ngoài ra, phương pháp so sánh cũng được thể hiện trong luận văn khi đề cập giữa các quy định khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự và Luật Khiếu nại, tố cáo cũng như các quy định khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực khác. - Phương pháp phân tích: phương pháp này thể hiện trong luận văn là những lý giải về cơ chế đặc thù của khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, đặc trưng, bản chất và các điều kiện áp dụng, cũng như lý giải về những nguyên nhân và các giải pháp hoàn thiện các quy định về khiếu nại, tố cáo. - Phương pháp thống kê xã hội học: được thể hiện là những tài liệu được tổng hợp qua thực tiễn áp dụng như tổng hợp các kết quả giải quyết 5 khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, tổng hợp các vụ việc trong đó có khiếu nại, tố cáo để làm cơ sở phân tích về nguyên nhân và giải pháp. Bên cạnh đó phương pháp này còn thể hiện về các số liệu, tài liệu nghiên cứu trên mạng Internet cũng như tổng hợp các tri thức khoa học tương ứng của đề tài. - Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp tiếp cận khác như: phương pháp lịch sử, tổng hợp… đồng thời đề tài còn sử dụng các nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước, những vụ việc của Tòa án, tài liệu của Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong quá trình thực hiện các giai đoạn tố tụng có liên quan đến khiếu nại, tố cáo. 5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Đây là đề tài nghiên cứu các quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đề tài giải quyết được các nội dung sau: - Phân tích và tổng hợp một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự: khái niệm khiếu nại; khái niệm tố cáo; các đặc điểm pháp lý của khiếu nại, tố cáo; cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam; phân biệt khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực hình sự với các lĩnh vực khác, mối quan hệ giữa chúng. - Tổng kết, đánh giá các quy định về khiếu nại, tố cáo qua các giai đoạn phát triển, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá rút kinh nghiệm, và hướng khắc phục. - Phân tích, so sách các quy định khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự theo hướng loại trừ để xác định sự cần thiết của khiếu nại, tố cáo trong các giai đoạn tố tụng của luật tố tụng hình sự Việt Nam. - Tổng hợp và phân tích các nguyên nhân của tồn tại trong quá trình thực hiện và giải quyết các vấn đề về khiếu nại, tố cáo, đánh giá tác động của các hệ quả này đối với thực tiễn áp dụng. 6 - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, góp phần nâng cao nhận thức của người dân về quyền khiếu nại, tố cáo, cũng như hạn chế những sai sót đối với người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Đề tài có những đóng góp nhất định về mặt lý luận về pháp luật khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự như đưa ra những khái niệm pháp lý và các đặc trưng liên quan trong tố tụng hình sự. Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn cũng như làm rõ bản chất của khiếu nại, tố cáo, phân tích những nguyên nhân của tồn tại và đưa ra những giáp pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện các quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, luận văn còn ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các học sinh, sinh viên và những ai quan tâm đến vấn đề này cũng như nâng cao hiểu biết pháp luật đối với người dân những người có quyền khiếu nại, tố cáo trong các giai đoạn của tố tụng hình sự. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Chương 2: Quy định của pháp luật và quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam. Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. KHÁI QUÁT VỀ KHIẾU NẠI, TỐ CÁO 1.1.1. Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân Trong giai đoạn hiện nay, khi xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, một trong những nguyên tắc, yêu cầu cơ bản nhất là đảm bảo, bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật và các biện pháp xã hội. Quy định và bảo vệ quyền con người là nguyên tắc xuyên suốt toàn bộ hệ thống chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta. Điều 50, Hiến pháp năm 1992 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và pháp luật" [47]. Trong các quyền cơ bản của công dân được thể hiện theo các nhóm quyền như: nhóm quyền công dân về dân sự, chính trị, các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, thì một trong những quyền đặc biệt là quyền được khiếu nại, tố cáo của công dân. Bản chất của quyền được khiếu nại, tố cáo chính là đảm bảo cơ chế giám sát một cách thực thi nhất đối với các hoạt động của Nhà nước. Khi thực hiện chức năng quản lý xã hội các hoạt động quản lý này có thể vì một lý do nào đó không thực hiện đúng, đủ hoặc trái luật, xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Chính vì vậy, khiếu nại, tố cáo một mặt là đảm bảo các hoạt động này đúng pháp luật, mặt khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình đồng thời là phương thức hạn chế sự lạm quyền trong chức năng quản lý xã hội của Nhà nước. 8 Mặc dù quyền khiếu nại, tố cáo của công dân chỉ được ghi nhận từ bản Hiến pháp năm 1946, trong quá trình phát triển của xã hội, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân ngày càng được quy định cụ thể qua các bản Hiến pháp và pháp luật đủ thấy tầm quan trọng của nhóm quyền này trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. 1.1.2. Sự hình thành và phát triển của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam Việc quy định và thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của luật tố tụng hình sự qua các giai đoạn lịch sử, chúng ta cần phải xem xét, đánh giá các quyền này thông qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992. Bởi lẽ, khiếu nại, tố cáo được coi là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy định bằng một văn bản pháp luật có giá trị cao nhất đó là Hiến pháp. Từ các quyền này, sau khi được hiến định sẽ được quy định cụ thể bằng các văn bản luật trong đó có pháp luật tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, tìm hiểu các ưu điểm và nhược điểm của pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở các giai đoạn và xu hướng vận động tiến bộ của nó. Khiếu nại, tố cáo nói chung và khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự nói riêng được xuất phát điểm từ tư tưởng "dân chủ, nhân quyền" của chủ tịch Hồ Chí Minh và thể hiện rất đậm nét ngay từ những ngày đầu lập nước. Trong Điều 2 Sắc lệnh số 64/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 quy định về thành lập Ban thanh tra đặc biệt, với các nhiệm vụ như: "Nhận đơn khiếu nại của nhân dân; điều tra hội chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của Ủy ban nhân dân hoặc các cơ quan cần thiết cho việc giám sát" [16]. Ngày 11 tháng 11 năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được Quốc hội thông qua, lần đầu tiên trong lịch sử, các quyền tự do của công dân đã được ghi nhận trong văn bản pháp luật có hiệu lực cao nhất, cùng với một cơ chế, bộ máy nhà nước kiểu mới. Mặc dù Hiến pháp năm 1946 chưa có những điều khoản cụ thể quy định quyền khiếu 9 nại, tố cáo của công dân nhưng chế độ dân chủ được Hiến pháp ghi nhận là cơ sở bảo đảm cho sự hình thành, phát triển của pháp luật về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân sau này. Trên cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký các văn bản cụ thể hóa tư tưởng về bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân như: Sắc lệnh số 09 ngày 29 tháng 01 năm 1947 ấn định lại thủ tục truy tố các nhân viên cao cấp trong Chính phủ cùng các cơ quan hành pháp và tư pháp. Sắc lệnh số 261/SL, ngày 28 tháng 03 năm 1956, thành lập Ủy ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ (năm 1959 Ủy ban này đổi tên thành Ủy ban Thanh tra của Chính phủ), có nhiệm vụ giải quyết kịp thời các đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân. Hiến pháp năm 1959 tiến bộ hơn Hiến pháp năm 1946 về mặt lập pháp, Điều 29 Hiến pháp năm 1959 đã quy định cụ thể quyền khiếu nại, tố cáo của công dân: "Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm vi phạm pháp luật của cán bộ và nhân viên cơ quan nhà nước. Người bị thiệt hại do những việc làm trái pháp luật gây ra có quyền được bồi thường" [43]. Điểm mới ở đây là Hiến pháp năm 1959 đã quy định mọi việc làm vi phạm pháp luật của cán bộ và nhân viên cơ quan nhà nước đều là đối tượng của quyền khiếu nại, tố cáo. Mặc dù nội dung chưa đầy đủ, nhưng Hiến pháp năm 1959 có bước tiến quan trọng, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trước những thiệt hại gây ra bởi việc làm trái pháp luật của công chức Nhà nước khi khẳng định: Người bị thiệt hại do những việc làm trái pháp luật gây ra có quyền được bồi thường. Nội dung quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được mở rộng trong Hiến pháp năm 1980. Điều 73 quy định: Công dân có quyền khiếu nại và tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà 10 nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức đó. Các khiếu nại và tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng [44]. Hiến pháp năm 1980 đã chỉ ra đối tượng rộng hơn, cụ thể hơn, không những chỉ là: "Hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước mà còn cả những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc cơ quan, tổ chức và đơn vị đó" [44]. Ngoài sự rõ ràng và tương đối đầy đủ về đối tượng khiếu nại, tố cáo, Điều 73 Hiến pháp 1980 còn quy định những bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo, như: "Mọi hành động xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh... Nghiêm cấm trả thù người khiếu nại, tố cáo" [44]. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân còn được khẳng định ở Điều 94 và Điều 119: "Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ xem xét và giúp giải quyết những điều khiếu nại, tố cáo của nhân dân" [44]. Điều 123 cũng quy định: "Ủy ban nhân dân các cấp có nhiệm vụ xét và giải quyết các điều khiếu nại, tố cáo của nhân dân" [44]. Khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tố tụng hình sự giai đoạn từ khi ra đời bản Hiến pháp đầu tiên cho đến trước năm 1988 không được thể hiện rõ nét. Do đặc điểm về tình hình kinh tế xã hội, cũng như điều kiện về trình độ phát triển nên khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự giai đoạn này còn chưa được quy định cụ thể. Tuy nhiên, bên cạnh đó, tiếp thu tinh thần của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung, đặc biệt Pháp lệnh năm 1981 về việc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và các văn bản khác cụ thể hóa, hướng dẫn thi hành. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 có quy định về quyền khiếu nại của tám loại người tham gia tố tụng vì quyền, lợi ích hợp pháp (Điều 34 - 42) nhưng không quy định quyền đó cho người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến 11 vụ án (Điều 42). Mặc dù, có quy định về quyền khiếu nại của tám người trong tổng số chín người tham gia tố tụng vì quyền, lợi ích hợp pháp, nhưng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 chưa đề cập đến quyền tố cáo của họ. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986), tình hình kinh tế-xã hội, chính trị nước ta có những thay đổi, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân có nhiều diễn biến phức tạp, như: khiếu nại vượt cấp, khiếu nại tập thể xảy ra ở nhiều nơi, tồn đọng đơn, thư khiếu nại kéo dài không được giải quyết, vi phạm nghiêm trọng quyền khiếu nại, tố cáo ở một số nơi. Nhưng Pháp lệnh năm 1981 có những mặt hạn chế không đáp ứng được với tình hình thực tiễn. Để khắc phục vấn đề này, Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân được Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 02/05/1991 đánh dấu bước tiến mới về kỹ thuật lập pháp, khi: a) tách khiếu nại và tố cáo thành hai phần riêng biệt (Điều 1); b) Công dân có quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm trái luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; c) Xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo; d) Áp dụng các biện pháp cần thiết ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra, bảo đảm cho quyết định giải quyết được thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình; đ) Quy định các cơ quan thanh tra Nhà nước là một cấp giải quyết khiếu nại, tố cáo, đồng thời, quy định các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, lần tiếp theo và lần cuối cùng với mục đích tạo điểm dừng của quyết định khiếu nại; thời hiệu giải quyết khiếu nại và lần đầu tiên xác lập: "Quyền khiếu nại của công dân đối với quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, dân sự, trọng tài kinh tế do pháp luật tố tụng hình sự, dân sự, trọng tài kinh tế quy định" [35]. Hiến pháp năm 1992 tiếp tục khẳng định và hoàn thiện hơn so với các Hiến pháp trước đó về các quy phạm đối với quyền khiếu nại, tố cáo của công dân khi ghi nhận "Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước 12 có thẩm quyền" (Điều 74). Trên cơ sở đó, Chính phủ và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hóa các quy định của Pháp lệnh năm 1998 và Hiến pháp năm 1992, như: Nghị định số 38/HĐBT ngày 28/1/1992 về hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân; Chỉ thị số 64/TTg ngày 25/1/1995 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân nhằm khắc phục những tồn tại, thiếu sót của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, kịp thời giải quyết khiếu nại, tố cáo có hiệu quả... Trên cơ sở tổng kết thực tiễn giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo của công dân, ngày 01/12/1998 Quốc hội đã thông qua Luật Khiếu nại, tố cáo. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có tính pháp điển cao nhất từ trước tới thời điểm này về quyền khiếu nại, tố cáo. Ngày 18/9/2003 Tòa án nhân dân tối cáo ban hành Công văn số 120 về giải quyết khiếu nại, tố cáo, trong đó xác định: Có lúc, có Tòa án hoặc đơn vị cá nhân do những nguyên nhân khách quan, chủ quan mà chưa giải quyết tốt đơn, thư khiếu nại, tố cáo nói chung. Việc giải quyết khiếu nại, kháng cáo đối với các bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật có nơi còn để quá chậm, thậm chí có trường hợp còn để quá thời hạn do luật định... Trường hợp cá biệt khi phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có sai lầm thì đã quá thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc. Trong thời gian gần đây, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân diễn biến phức tạp, gia tăng về số lượng. Bên cạnh những trường hợp khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, thì cũng có không ít trường hợp khiếu nại, tố cáo không đúng pháp luật [64]. Để giải quyết tình hình trên, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao giao trách nhiệm giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo cho các thủ trưởng đơn vị 13 trực tiếp đối với cán bộ công chức ngành Tòa án và đưa ra phương pháp giải quyết đơn một cách hợp lý và khoa học. Trên nền tảng của tất cả các văn bản pháp luật trước đó, lần đầu tiên với một chương XXXV độc lập, riêng biệt về "khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự", bằng các quy phạm (từ Điều 325 - 333), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 mới điều chỉnh các nội dung chính, như: a) Quyền khiếu nại một cách đầy đủ và mở rộng quyền này cho mọi cá nhân tức bao gồm cả công dân Việt Nam, người nước ngoài và người không quốc tịch sinh sống trên đất nước Việt Nam; b) Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự (Điều 339); c) Thẩm quyền, thủ tục giải quyết khiếu nại được tiến hành ở Viện kiểm sát ngang cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là giới hạn quyết định cuối cùng (Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004 đã thay đổi một số vấn đề quan trọng như: a) Xóa bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với giải quyết khiếu nại, tố cáo (Điều 12); b) Quy định thêm về trình tự, thủ tục, quyền hạn của Tổng thanh tra đối với yêu cầu, kiến nghị xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng (Điều 23-26). Nhưng, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự năm 2003 vẫn còn nguyên giá trị bởi không bị văn bản nào hủy bỏ đồng thời không áp dụng quy trình yêu cầu, kiến nghị xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng như Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004 có quy định đối với khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực hành chính. Để hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT ngày 10/8/2005 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về khiếu nại, tố cáo quy định: 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan