Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân tỉnh hà tĩnh, ...

Tài liệu Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân tỉnh hà tĩnh, một số vấn đề lý luận và thực tiễn

.PDF
101
139
137

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ MINH NGỌC KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH, MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ MINH NGỌC KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH, MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số: 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. GVC Trịnh Quốc Toản Hà Nội - 2011 MỤC LỤC Mở đầu Chương 1. Những vấn đề chung về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.1.1 Khái niệm và đặc điểm kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.1.2. Vai trò kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.2. Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.2.1. Thẩm quyền và thời hạn kháng nghị phúc thẩm hình sự 1.2.2. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự 1.2.3. Hậu quả của việc kháng nghị phúc thẩm hình sự 1.2.4. Thủ tục bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị phúc thẩm hình sự Chương 2. Thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh 2.1. Tình hình giải quyết các vụ án hình sự có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh 2.2. Những kết quả đạt được trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh 2.3. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế 2.3.1. Những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh 2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh Chương 3. Những giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng, hiệu quả kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm Trang sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh 3.1. Sự cần thiết tiếp tục hoàn thiện các quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 3.2. Những giải pháp hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm về kháng nghị phúc thẩm 3.2.1. Quy định cụ thể các căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự trong Bộ luật tố tụng hình sự 3.2.2. Quy định cụ thể việc gửi bản sao bản án sơ thẩm của Toà án cấp sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên trong Bộ luật tố tụng hình sự 3.2.3. Quy định cụ thể việc bổ sung, thay đổi, rút kháng nghị trong Bộ luật tố tụng hình sự 3.3. Những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới 3.3.1. Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật 3.3.2. Tăng cường và đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra của Lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp về công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh 3.3.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành kiểm sát 3.3.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong việc giải quyết kháng nghị phúc thẩm hình sự 3.3.5. Tăng cường công tác tổ chức cán bộ, nâng cao ý thức chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên 3.4. Một số kiến nghị cụ thể Kết luận Danh mục công trình khoa học của tác giả Danh mục tài liệu tham khảo MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của đề tài Đấu tranh phòng và chống tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội là vấn đề hết sức quan trọng trong xã hội, đồng thời cũng là mục đích của tố tụng hình sự. Viện kiểm sát được Đảng và Nhà nước giao giữ một vị trí quan trọng trong hoạt động tư pháp. Từ khi được thành lập cho đến nay, ngành Kiểm sát nhân dân ngày càng lớn mạnh và có những tiến bộ rõ rệt trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời; việc truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát bảo đảm cho pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong rất nhiều hoạt động của ngành kiểm sát, kháng nghị là một hoạt động quan trọng nhằm thực hiện chức năng của ngành. Điều 19 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: “Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật...” [23, 18]. Đặc biệt, kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng riêng biệt của Viện kiểm sát. Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định: “Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án nhân dân”. Đây là một quyền năng pháp lý quan trọng nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định của Toà án có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. 1 Kháng nghị phúc thẩm hình sự chính là một biện pháp để kiểm tra lại tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án. Thông qua việc xét xử phúc thẩm, Toà án cấp trên sửa chữa những sai lầm trong việc áp dụng pháp luật của Toà án cấp sơ thẩm; hướng dẫn Toà án cấp sơ thẩm khắc phục những thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật. Trong những năm qua, thực tiễn hoạt động kháng nghị phúc thẩm của ngành Kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh đã có những chuyển biến nhất định. Chất lượng kháng nghị đã từng bước được nâng lên, nhìn chung đã đảm bảo về hình thức, nội dung có căn cứ pháp lý, tỷ lệ kháng nghị được Viện kiểm sát cấp phúc thẩm bảo vệ và Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận được tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp ở tỉnh Hà tĩnh còn có những bất cập, hạn chế, chưa phát huy hết chức năng, vai trò của mình, nhiều vụ án Viện kiểm sát cấp trên phải rút kháng nghị, tỷ lệ kháng nghị được Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận còn thấp, số lượng kháng nghị phúc thẩm có chiều hướng giảm trong khi số án sơ thẩm phải cải sửa, huỷ án thông qua kháng cáo chiếm tỷ lệ không nhỏ, một số đơn vị Viện kiểm sát nhiều năm liền không có kháng nghị phúc thẩm hình sự, v.v.. Những tồn tại, thiếu sót nêu trên có nhiều nguyên nhân, từ nguyên nhân chủ quan đến nguyên nhân khách quan. Một mặt năng lực và trách nhiệm của cán bộ, Kiểm sát viên còn hạn chế, lãnh đạo một số đơn vị chưa thật sự quan tâm tới công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát các cấp về công tác kháng nghị phúc thẩm chưa cao. Mặt khác BLTTHS hiện hành chưa có quy định cụ thể về căn cứ kháng nghị phúc thẩm, thời hạn kháng nghị trên một cấp còn ngắn, việc sao gửi bản án sơ thẩm của Toà án cấp sơ thẩm cho Viện kiểm sát cấp trên chưa được quy định, trang thiết bị hỗ trợ cho công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử chưa 2 đáp ứng yêu cầu, v.v.. Những nguyên nhân trên làm cho chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm bị ảnh hưởng không nhỏ. Trong khi đó, chưa có một công trình nào nghiên cứu về vấn đề này thông qua thực tiễn công tác kháng nghị phúc thẩm ở Viện kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh. Từ những lý do nêu trên tác giả chọn đề tài “Kháng nghị phúc thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, một số vấn đề lý luận và thực tiễn” làm luận văn thạc sĩ luật học. Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự và thực tiễn của công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hà Tĩnh trong những năm gần đây, tìm ra nguyên nhân của hạn chế và tồn tại, đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự theo tinh thần Chỉ thị 03 ngày 19-6-2008 về “Tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự” của Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao (VKSNDTC), qua đó thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của ngành Kiểm sát, đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02-01-2002 và Nghị quyết số 49 ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 2. Tình hình nghiên cứu đến đề tài Kháng nghị phúc thẩm là một quyền năng pháp lý quan trọng của Viện kiểm sát trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thông qua kháng nghị phúc thẩm hình sự, Viện kiểm sát đảm bảo cho mọi hoạt động tư pháp được tiến hành đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, khắc phục được tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra với công tác đổi mới tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát theo quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp trên tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị thì việc nâng cao chất lượng 3 kháng nghị phúc thẩm hình sự là một vấn đề cần thiết. Vì vậy, công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự nói riêng, việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử đã được chú trọng hơn trong những năm gần đây thông qua việc tổ chức hội thảo, hội nghị, tổng kết rút kinh nghiệm, v.v... Chính vì vậy, chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự đã được một số tác giả, công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau: - Bình luận khoa học BLTTHS, tác giả PGS.TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên), Nxb. Công an nhân dân năm 2004. - Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa luật đại học Quốc gia Hà Nội năm 1994. - Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân năm 2005. - Tranh luận tại phiên toà phúc thẩm, tác giả Dương Thanh Biểu (chủ biên), Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2008. - Thủ tục xét xử các vụ án hình sự, tác giả Đinh Văn Quế, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh. - Một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử phúc thẩm hình sự, tác giả Nguyễn Huy Tiến, Tạp chí Kiểm sát số 17 (tháng 9/2009). - Một số đề xuất nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công tác kháng nghị phúc thẩm án hình sự, tác giả Lê Doãn Tiết, Tạp chí Kiểm sát số 17 (tháng 9/2009). - Nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự, Chuyên đề của Tạp chí Kiểm sát, số 16 (tháng 8/2010). - Bàn thêm về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm vụ án hình sự, tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí kiểm sát số 15 (tháng 8/2007), số 17 (tháng 9/2007). 4 - Kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, tác giả Chu Thị Thanh Tú, Luận văn Thạc sỹ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007, v.v.. Tuy nhiên các nghiên cứu, bài viết và chuyên đề nêu trên đề cập đến những khía cạnh nhất định hoặc những vấn đề chung nhất. Mỗi bài viết, công trình nghiên cứu chỉ tập trung giải quyết một hoặc vài nội dung cụ thể liên quan đến chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự, chưa có bài viết hay công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết dưới góc độ lý luận, thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Hà Tĩnh, lý giải các yếu tố ảnh hưởng, đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục và nâng cao hơn nữa chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát; - Phân tích, đánh giá toàn diện về thực tiễn pháp luật và thực tiễn thực hiện công tác kháng nghị của VKSND tỉnh Hà Tĩnh từ khi có BLTTHS năm 2003, rút ra những hạn chế, tồn tại và những nguyên nhân của nó; - Đề xuất những kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của ngành Kiểm sát nói chung và Viện kiểm sát tỉnh Hà Tĩnh nói riêng trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: Một là, làm rõ cơ sở lý luận của kháng nghị phúc thẩm hình sự: khái niệm, đặc điểm, vai trò, trình tự, thủ tục kháng nghị phúc thẩm hình sự. 5 Hai là, phân tích sâu sắc các quy định của BLTTHS năm 2003 về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của Viện kiểm sát. Ba là, đánh giá toàn diện thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự ở Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian từ năm 2003 đến 2010, từ đó rút ra những mặt tích cực và hạn chế về công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự cũng như việc áp dụng quy định này trên thực tế xét xử ở Hà Tĩnh hiện nay. Bốn là, đề xuất các giải pháp, kiến nghị khả thi nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của VKSND trong thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi và thời gian nghiên cứu * Về đối tượng nghiên cứu: Quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát các cấp. * Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát hai cấp ở tỉnh Hà Tĩnh. * Về thời gian nghiên cứu: Luận văn xác định nghiên cứu trong khoảng thời gian từ 2003 đến 2010. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn nghiên cứu dựa trên nền tảng cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, lịch sử, thống kê, so sánh, v.v.. 6. Những đóng góp mới - Luận văn hệ thống, làm rõ cơ sở lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. 6 - Luận văn nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Hà Tĩnh, những mặt được và chưa được, tìm ra những nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại. - Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã nghiên cứu, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nói chung và Viện kiểm sát hai cấp ở Hà Tĩnh nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân Chương 2: Thực trạng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh Chương 3: Những giải pháp và kiến nghị nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân Tố tụng hình sự là một trình tự tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng cũng như các cơ quan, tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo cho việc phát hiện, xác định tội phạm và người phạm tội được chính xác, xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nhà nước, tổ chức, đòi hỏi quá trình giải quyết một vụ án hình sự phải diễn ra qua nhiều giai đoạn khác nhau, từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án. Mỗi một giai đoạn tố tụng hình sự gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của một cơ quan tiến hành tố tụng, tuy độc lập nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ngoài việc quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, BLTTHS còn quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh và triệt để tuân thủ các quy định của BLTTHS, bởi lẽ mọi hành vi vi phạm pháp luật hoặc việc áp 8 dụng pháp luật không đầy đủ có thể dẫn đến việc xử lý oan, sai, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, gây tổn hại đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật và làm giảm lòng tin của nhân dân vào hiệu lực và sự công minh của pháp luật. VKSND là một trong những cơ quan tư pháp tiến hành các hoạt động tố tụng xuyên suốt ngay từ khi khởi tố vụ án đến khi bản án, quyết định được thi hành. Thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, VKSND bảo đảm cho mọi hoạt động của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, thống nhất theo quy định của pháp luật. Nghiên cứu lịch sử các cơ quan tư pháp ở nước ta cho thấy, cùng với Tòa án các cấp, cơ quan công tố cũng dần dần được hình thành trong bộ máy nhà nước để cùng với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác đấu tranh chống các hành vi tội phạm, nhằm bảo vệ những thành quả cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân dân cũng như lợi ích của nhân dân. Theo các Sắc lệnh số 13/SL ngày 24-01-1946, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17-4-1946 và Sắc lệnh số 131/SL ngày 20-7-1946, hệ thống cơ quan công tố nằm trong cơ cấu tổ chức của Toà án, do Bộ Tư pháp quản lý. Hệ thống Toà án được tổ chức ở cả ba cấp: Toà án sơ cấp (ở các quận, huyện), Toà án đệ nhị cấp (ở các tỉnh, thành phố) và Toà thượng thẩm (ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ). Ở Toà án sơ cấp, Thẩm phán làm cả việc xét xử và công tố. Ở Toà án đệ nhị cấp, Thẩm phán được chia ra làm hai chức vị: Thẩm phán xử án và Thẩm phán buộc tội (Công tố Viện). Ở Toà thượng thẩm có Công tố viện do ông Chưởng lý đứng đầu, gồm các công chức làm công tác công tố chuyên trách Công tố viện hoạt động dưới sự quản lý, chỉ đạo, điều hành của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Nhưng Bộ trưởng Bộ Tư 9 pháp không có quyền trực tiếp làm nhiệm vụ công tố. Các công tố viện có thẩm quyền tư pháp cảnh sát (điều tra hình sự), thực hành quyền công tố, điều khiển công việc và giám sát công tác điều tra của tư pháp cảnh sát [14, 15]. Về sau, trên cơ sở Nghị quyết ngày 29-4-1958 của Quốc hội khoá I (kỳ họp thứ 8) và các Nghị định số 256/TTg ngày 01-71959, Nghị định số 321/TTg ngày 02-7-1959 của Chính phủ, Viện Công tố với tư cách là một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập được thành lập tách khỏi Toà án [14, 16]. Đến năm 1960, trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, và Luật Tổ chức VKSND năm 1960, hệ thống VKSND được thành lập, đặt dưới sự giám sát trực tiếp của cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước là Quốc hội, VKSND ngoài chức năng công tố còn thực hiện chức năng thứ hai là kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Kể từ khi Viện công tố được thành lập tách khỏi Chính phủ và sau này VKSND được thành lập cho đến nay, trên thực tế hệ thống cơ quan VKSND luôn luôn tồn tại như một bộ phận hợp thành của nhánh quyền lực tư pháp [14, 16]. Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 tuy có sửa đổi một số quy định về tổ chức và hoạt động của VKSND nhưng chức năng công tố tiếp tục giao cho VKSND đảm nhiệm. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức VKSND năm 2002 thì VKSND có hai chức năng: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” khẳng định: “Trước mắt, VKSND giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp” [2, 5]. Trên cơ sở chỉ đạo của Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược 10 cải cách tư pháp đến năm 2020, ngày 28-7-2010 Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Kết luận số 79-KL/TW về đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra. Theo đó, Ban chấp hành Trung ương đã khẳng định: “VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay” [5, 3]. Như vậy, chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát không thay đổi và vẫn giữ nguyên như quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung và Điều 1 Luật Tổ chức VKSND. Kết luận số 79-KL/TW cũng định hướng: Tổ chức hệ thống VKSND thành 4 cấp, phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án nhân dân. Giữ cụm từ “nhân dân” trong tên gọi của Viện kiểm sát. Cụ thể là: VKSND khu vực (số lượng và địa hạt tư pháp tương ứng với số lượng và địa hạt tư pháp của Toà án nhân dân sơ thẩm khu vực), được thành lập trên cơ sở một hoặc một số Viện kiểm sát cấp huyện trong phạm vi địa hạt tư pháp của Tòa án sơ thẩm khu vực [5, 3] Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát khu vực, trước mắt, cần xác định như Viện kiểm sát cấp huyện hiện nay. Căn cứ vào tình hình cụ thể trong quá trình xây dựng, phát triển các cơ quan tư pháp cũng như tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, dần dần có thể tăng thẩm quyền cho Viện kiểm sát khu vực theo một lộ trình cụ thể, hợp lý. VKSND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được tổ chức tương đương với Tòa án phúc thẩm (cấp tỉnh), thành lập chủ yếu trên cơ sở VKSND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi địa hạt tư pháp của Tòa án phúc thẩm. Viện kiểm sát tỉnh có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc giải quyết các vụ án hình sự, vụ án 11 hành chính, các vụ việc dân sự và các việc khác theo quy định của pháp luật do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Tòa án phúc thẩm thụ lý, giải quyết. VKSND cấp cao (số lượng và địa hạt tư pháp tương ứng với số lượng và địa hạt tư pháp của Toà án nhân dân cấp cao), được tổ chức theo khu vực tương đương với các Tòa thượng thẩm. Viện kiểm sát cấp cao chỉ có chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm. VKSNDTC được tổ chức tương đương với Toà án nhân dân tối cao (TANDTC). Về cơ bản, VKSNDTC có chức năng, nhiệm vụ như hiện nay, trừ thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm. Các Nghị quyết của Đảng nhấn mạnh phải tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra. Như vậy, hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát không chỉ phải phù hợp với hệ thống tổ chức 4 cấp của Tòa án mà còn phải phù hợp với hệ thống tổ chức của Cơ quan điều tra. Số lượng Viện kiểm sát khu vực không những phải tương đương với số lượng Tòa án sơ thẩm khu vực trên địa hạt tư pháp mà còn phải cân nhắc cho phù hợp với hệ thống tổ chức của Cơ quan điều tra, bảo đảm khả năng tăng cường công tố trong hoạt động điều tra, gắn kết chặt chẽ, liên tục hoạt động công tố với hoạt động điều tra. Như vậy, chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát chính là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của Viện kiểm sát, thực hiện nhiệm vụ giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng hình sự được 12 thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Phạm vi chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp hình sự cũng bắt đầu từ khi vụ án hình sự được khởi tố và kết thúc khi người phạm tội đã thi hành xong bản án. Với chức năng trên, vai trò của VKSND trong suốt quá trình tố tụng rất quan trọng, sự xuất hiện của VKSND trong quá trình tố tụng nhằm đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý kịp thời, đảm bảo cho việc truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội đồng thời không để lọt tội phạm và người phạm tội. Trong giai đoạn xét xử, VKSND thực hành quyền công tố, bảo vệ quan điểm truy tố theo cáo trạng, bảo đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo. Ngoài ra, VKSND còn thực hiện chức năng giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Nếu việc xét xử của Tòa án vi phạm nghiêm trọng các quy định luật hình sự hoặc tố tụng hình sự, hoặc sau phiên tòa xét xử sơ thẩm mà phát hiện thấy quá trình tố tụng từ khi khởi tố vụ án hình sự đến truy tố, xét xử vì lý do chủ quan hay khách quan có vi phạm pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự thì Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp sử dụng quyền năng pháp lý đặc biệt để yêu cầu Tòa án cấp trên tiến hành xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm, đó chính là quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự. Đây là quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước chỉ giao cho ngành Kiểm sát thực hiện. Quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực hiện ở cả hai cấp là cùng cấp và cấp trên trực tiếp. Sở dĩ quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực hiện ở cả hai cấp là để Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử vụ án hình sự và bảo đảm cho mọi vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm đều được 13 phát hiện và giải quyết tại cấp xét xử thứ hai, đồng thời đây là một trong những cơ sở đảm bảo đúng nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử” theo quy định tại Điều 20 BLTTHS. Hiện nay, BLTTHS hiện hành cũng như các văn bản pháp lý chưa có một khái niệm thống nhất về kháng nghị phúc thẩm hình sự. Theo tác giả Đinh Văn Quế thì "Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hình sự là một văn bản do Viện kiểm sát ban hành yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án mà Toà án cấp sơ thẩm cùng cấp hoặc cấp dưới trực tiếp đã xét xử, nhưng xét thấy không đúng pháp luật" [16, 235]. Nếu hiểu kháng nghị phúc thẩm hình sự như trên thì chưa phản ánh đúng bản chất của kháng nghị phúc thẩm là một quyền năng pháp lý riêng biệt mà Nhà nước chỉ giao cho ngành Kiểm sát, thứ hai việc cho rằng Viện kiểm sát ban hành văn bản kháng nghị phúc thẩm yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử nhưng xét thấy không đúng pháp luật là một quan niệm rất chung chung, ở đây phải đánh giá là để khắc phục các vi phạm nghiêm trọng đối với bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Theo tác giả Nguyễn Thị Thanh Tú thì "Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng pháp lý đặc thù của Viện kiểm sát nhân dân, do người có thẩm quyền thực hiện thông qua một văn bản pháp lý nêu rõ lý do của việc kháng nghị và yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án; hoặc xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án sơ thẩm, nhưng xét thấy không đúng pháp luật nhằm khắc phục các vi phạm hoặc sai lầm trong bản án và quyết định đó". [12, 13]. Quan điểm trên khá rõ, tuy nhiên tác giả cho rằng Viện kiểm sát yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án; hoặc xét lại bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu hiệu lực pháp luật khì khá rườm rà, vì thực chất đây là việc xét xử lại vụ án ở cấp xét xử thứ hai, ngoài ra việc dùng từ xét lại bản án, quyết định gây hiểu nhầm như việc xét lại bản án ở thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. 14 Do vậy, để có quan niệm thống nhất về khái niệm kháng nghị phúc thẩm hình sự, cần phải làm sáng tỏ khái niệm “Kháng nghị” và “Phúc thẩm”. Theo Từ điển Tiếng Việt thuật ngữ “Kháng nghị” được hiểu là sự bày tỏ bằng văn bản chính thức ý kiến chống đối [18, 474]; còn “Phúc thẩm” là việc Tòa án cấp trên xét xử lại một vụ án do cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mà có chống án [18, 763]. “Kháng nghị” là quyền mà pháp luật quy định cho Viện kiểm sát và những người có thẩm quyền ra văn bản kháng nghị, làm ngưng hiệu lực phán quyết của Toà án trong bản án hoặc quyết định đã tuyên để xét xử lại theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nhằm cho vụ án được xét xử chính xác, khách quan, đúng pháp luật [34, 404]. “Phúc thẩm” là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bị kháng cáo hoặc kháng nghị nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm, sửa những sai lầm và vi phạm của Toà án sơ thẩm, bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật (Điều 204 BLTTHS). Bản án và quyết định của Toà án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên [34, 378]. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm được thực hiện ở Viện kiểm sát cùng cấp, cùng lãnh thổ với Tòa án đã ra bản án, quyết định sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp của Viện kiểm sát này. Trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam, ngay từ những văn bản pháp lý đầu tiên khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, quyền kháng nghị của VKSND được quy định tại Điều thứ 34 Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng giêng năm 1946 của Chủ tịch nước “Tòa đại hình sơ thẩm, ông Biện lý có quyền chống án lên Tòa thượng thẩm” [9]. Tại điểm c Điều 1 mục II Thông tư số 141-HCTP ngày 5- 12-1957 15 của Bộ Tư pháp quy định “Ông Công tố ủy viên, dưới sự lãnh đạo của Bộ tư pháp có nhiệm vụ kháng nghị đối với bản án hoặc nghị quyết của Tòa án xét không đúng pháp luật” [6]. Kháng nghị phúc thẩm hình sự được ghi nhận một cách chính thức tại Điều 17 Luật tổ chức VKSND năm 1960 “VKSND tối cao và các VKSND địa phương có quyền: kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của TAND cùng cấp và dưới một cấp”. Điều 13 luật Tổ chức VKSND năm 1981 quy định: “Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử, các VKSND có quyền:…Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm các bản án và quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân (TAND) cùng cấp và dưới một cấp, khi thấy có vi phạm pháp luật” [22]. Qua từng giai đoạn lịch sử, các quy định về kháng nghị phúc thẩm hình sự được thay đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn trong hoạt động thực hiện chức năng của ngành Kiểm sát. Chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự được sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho phù hợp với tình hình thực tế của mỗi thời kỳ cách mạng Việt Nam. Khi chưa có BLTTHS năm 1988, chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự được thực hiện theo “Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 19/TATC ngày 2- 10-1974 của TANDTC”. Tiếp đến, chế định kháng nghị phúc thẩm hình sự được quy định tại Phần thứ tư, chương XXII, tại các Điều 206, 207, 208, 210, 211, 212, 213 của BLTTHS năm 1988. Đến khi có BLTTHS năm 2003, chế định này được quy định tại Phần thứ tư, chương XXIII ở các Điều 230, 232, 233, 234, 236, 237 238, 239. Có thể khẳng định, kể từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho đến nay, pháp luật tố tụng hình sự quy định chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền kháng nghị phúc thẩm hình sự. Đây là quyền năng pháp lý mà Nhà nước chỉ trao cho Viện kiểm sát và chỉ có Viện kiểm sát mới có quyền này. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan