Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hợp đồng dich vụ pháp lý ở viêt nam...

Tài liệu Hợp đồng dich vụ pháp lý ở viêt nam

.PDF
14
65
114

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ VỊNH HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 62.38.50.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 Công trình được hoàn thành tại: Học viện khoa học Xã hội Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM HỮU NGHỊ Phản biện 1: ………………………………………………. Phản biện 2: ………………………………………………. Phản biện 3: ………………………………………………. Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học Viện họp tại Học Viện Khoa Học Xã hội Vào hồi …….giờ…….phút, ngày ….. tháng……..năm ……… Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện : - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Học viện Khoa học xã hội cầu HNKTQT; ii) Pháp luật về HĐDVPL phải đảm bảo tính thống nhất, minh bạch và đồng bộ; iii) Hoàn thiện pháp luật về HĐDVPL cần được đặt trong giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật kinh tế cho tương lai. - Từ những quan điểm và định hướng đó, luận án đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về HĐDVPL, tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau: i) Xây dựng một hệ thống văn bản pháp luật thống nhất, đồng bộ về HĐDVPL; ii) Nội luật hóa các Điều ước quốc tế, tiếp thu các nguyên tắc, chế định pháp lý được thừa nhận chung của pháp luật và tập quán quốc tế về HĐDVPL. - Tăng cường hiệu lực QLNN trong lĩnh vực HĐDVPL, bảo đảm pháp chế và giữ định hướng XHCN, đảm bảo chất lượng DVPL và bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Khi hoàn thiện các quy định trên, cần xuất phát từ những quy định mang tính nguyên tắc chung của pháp luật dân sự, mà nền tảng là các quy định của BLDS về các vấn đề liên quan. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về HĐDVPL theo tư tưởng chỉ đạo này có ý nghĩa quyết định trong việc đảm bảo tính thống nhất của pháp luật HĐDVPL, đồng thời tạo ra sự tương thích với các chuẩn mực pháp luật quốc tế về HĐDVPL, đáp ứng nhu cầu điều chỉnh có hiệu quả hoạt động DVPL trong điều kiện HNKTQT hiện tại và tương lai. KẾT LUẬN Sau khi nghiên cứu vấn đề hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam, Luận án rút ra những kết luận quan trọng sau đây: - HĐDVPL là hình thức pháp lý của quan hệ DVPL, có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của các tổ chức, cá nhân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và HNKTQT, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật HĐDVPL là yêu cầu tất yếu khách quan và cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. - Xuất phát từ việc DVPL là loại dịch vụ gắn liền với pháp luật, kết quả hoạt động DVPL có tác động quan trọng đến tình trạng kinh tế và pháp lý của khách hàng. Vì thế, không phải bất kỳ chủ thể nào cũng có thể được tham gia vào quan hệ HĐDVPL với tư cách là bên cung ứng DVPL. Chỉ những chủ thể nào đáp ứng đủ các điều kiện rất chặt chẽ do pháp luật quy định mới được cung ứng. - Trước đòi hỏi của thực tiễn hoạt động DVPL và yêu cầu của xu thế tự do hóa thương mại và HNKTQT, pháp luật hiện hành về HĐDVPL ở Việt Nam đang bộc lộ nhiều hạn chế, cần được nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện. Cụ thể: i) Khuôn khổ pháp luật về HĐDVPL mới hình thành, nằm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật, chưa đồng bộ và hoàn chỉnh; ii) Vẫn còn tình trạng bất bình đẳng và phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư cung ứng các loại hình DVPL khác nhau, giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; iii) Nhiều vấn đề về nội dung quan hệ HĐDVPL chưa được quy định hoặc quy định nhưng chưa đồng bộ và thống nhất; iv) Hiệu lực và hiệu quả hoạt động QLNN về HĐDVPL chưa cao; v) Pháp luật HĐDVPL hiện hành còn nhiều điểm mâu thuẫn, chưa tương thích với các cam kết trong các Điều ước quốc tế của Việt Nam. - Từ thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam, luận án đề xuất việc hoàn thiện pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam phải dựa trên những quan điểm và định hướng cơ bản sau: i) Pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam phải phản ánh những đặc điểm của hoạt động DVPL và phải đáp ứng yêu DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Hoàng Thị Vịnh (2007), “Ủy quyền tham gia tố tụng trong vụ án kinh doanh thương mại – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8 năm 2007. 2. Hoàng Thị Vịnh (2009), “Một số vấn đề lý luận về thương mại dịch vụ pháp luật quốc tế”, Tạp chí Luật học, số 5 năm 2009. 3. Hoàng Thị Vịnh (2012), “Về khái niệm dịch vụ pháp lý”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12 năm 2012. 4. Hoàng Thị Vịnh (2013), “Phương thức thực hiện dịch vụ pháp lý của luật sư tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3 năm 2013. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, các tổ chức và cá nhân ngày càng có nhu cầu sử dụng DVPL. Các tổ chức và cá nhân cần sự trợ giúp pháp lý một cách thường xuyên nhằm đảm bảo sự an toàn về mặt pháp lý cho các giao dịch của mình. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của DVPL cho các tổ chức và cá nhân ở tầm quốc tế. Các chủ thể tham gia nhiều giao dịch liên quan đến nhiều lĩnh vực được điều chỉnh bởi pháp luật trong nước và pháp luật quốc tế. Hình thức pháp lý của các giao dịch đó là hợp đồng. Để các giao dịch của các chủ thể diễn ra an toàn và hiệu quả thì cần phải có sự trợ giúp pháp lý từ phía các nhà cung cấp DVPL. Việc trợ giúp pháp lý của nhà cung cấp DVPL đối với bên sử dụng DVPL được thể hiện dưới hình thức HĐDVPL. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể HĐDVPL, đặc biệt là của bên sử dụng DVPL và phòng ngừa tranh chấp xảy ra, đòi hỏi pháp luật về HĐDVPL phải không ngừng hoàn thiện. Đồng thời hệ thống pháp luật quốc gia về HĐDVPL phải phù hợp với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Ở Việt Nam, DVPL mới khởi động và phát triển từ những năm 90 của thế kỷ 20 trở lại đây. So với bề dầy truyền thống nghề luật ở các nước phát triển như Hoa Kỳ, Anh, Pháp…thì kinh nghiệm hành nghề của giới luật gia Việt Nam là quá ít ỏi và chưa bài bản. Các tổ chức, cá nhân cũng chưa có thói quen sử dụng DVPL cho các hoạt động của mình. Tình trạng quan liêu, hách dịch, cửa quyền của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước ở Việt Nam vẫn còn, với sự thiếu hiểu biết của một bộ phận người dân nên rất cần có sự trợ giúp của nhà cung cấp DVPL. “Chất thương mại” của hoạt động cung cấp DVPL, cũng như sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động dịch vụ này còn nhiều hạn chế, bất cập. Pháp luật điều chỉnh HĐDVPL ở Việt Nam hiện nay còn chưa hoàn chỉnh và được quy định ở rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau, như: Bộ luật Dân sự năm 2005; Luật Thương mại năm KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 Quan điểm và giải pháp nêu trên đều thể hiện tư tưởng khoa học trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật DVPL nói riêng; Chú trọng phát triển DVPL; Xuất phát từ các cam kết của Việt Nam trong các Điều ước quốc tế và hài hòa với pháp luật quốc tế, nhằm tạo sự đồng bộ, thống nhất và nhất quán giữa các chế định về hợp đồng nói chung trong BLDS 2005, LTM 2005 và các luật chuyên ngành về DVPL để điều chỉnh hiệu quả hoạt động DVPL; Bảo đảm pháp luật HĐDVPL hài hòa với pháp luật quốc tế nhưng vẫn giữ vững định hướng XHCN. Mặc dù kiến nghị sẽ còn khoảng trống, chưa bao quát hết và phản ánh hết nhu cầu hoạt động thực tiễn. Thực tiễn hoạt động DVPL vẫn tiếp tục đặt ra yêu cầu nghiên cứu tìm giải pháp nhằm khắc phục những vướng mắc, bất cập trong pháp luật về HĐDVPL. Một vấn đề tất yếu trong tương lai là, hoạt động nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực pháp luật về HĐDVPL sẽ tiếp tục được thực hiện đạt hiệu quả cao, đóng góp những quan điểm, giải pháp cho khoa học pháp lý nói chung cho lĩnh vực HĐDVPL nói riêng. CHƯƠNG 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM Trên cơ sở tiếp cận những vấn đề mang tính lý luận ở Chương 1, Chương 2; từ việc nghiên cứu, rút ra một số nhận xét, đánh giá thực trạng pháp luật được trình bày ở Chương 3, sau khi nêu những căn cứ từ thực tiễn hoạt động DVPL, Chương 4 luận án xác định quan điểm và kiến nghị những giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam. 4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam - Hoàn thiện pháp luật HĐDVPL phải dựa trên quan điểm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật DVPL nói riêng - Phải xác định HĐDVPL là hợp đồng có tính thương mại - Hoàn thiện pháp luật HĐDVPL phải hài hòa với pháp luật quốc tế 4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam - Hoàn thiện các quy định về DVPL tiến tới xây dựng Luật Dịch vụ pháp lý + Hoàn thiện các quy định về khái niệm, phạm vi DVPL + Hoàn thiện các quy định về điều kiện hành nghề cung ứng DVPL + Hoàn thiện các quy định về yêu cầu đối với kết quả DVPL + Hoàn thiện các quy định về DVPL của luật sư + Hoàn thiện các quy định về DVPL của công chứng viên + Ban hành Luật Dịch vụ pháp lý - Hoàn thiện các quy định về HĐDVPL + Hoàn thiện các quy định về chủ thể HĐDVPL + Hoàn thiện các quy định về nội dung HĐDVPL về các yếu tố: đối tượng, chất lượng, quyền và nghĩa vụ của chủ thể, thù lao và phương thức thực hiện HĐDVPL; + Hoàn thiện các quy định về điều kiện có hiệu lực của HĐDVPL; + Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm do vi phạm HĐDVPL. 2005; Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung 2012); Nghị định số 87/2003/NĐ – CP ngày 22 tháng 7 năm 2003 về hành nghề của tổ chức luật sư nước ngoài và luật sư nước ngoài tại Việt Nam; Thông tư số 06/2003/TT – BTP của Bộ Tư pháp ngày 29 tháng 10 năm 2003 quy định về DVPL nước ngoài tại Việt Nam; Luật Công chứng 2006; NĐ 61/ 2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009, về thí điểm thực hiện Thừa phát lại tại thành phố Hồ chí Minh… Bước đầu đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động DVPL của các nhà cung cấp DVPL ký kết HĐDVPL với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng DVPL. Các văn bản pháp luật nêu trên quy định về hợp đồng, HĐDV và DVPL chứ không quy định trực tiếp về HĐDVPL. Điều đó dẫn đến một thực tế là trong một số trường hợp cùng một vấn đề nhưng lại được điều chỉnh bằng nhiều quy định của các văn bản khác nhau và những quy định đó lại chồng chéo, mâu thuẫn với nhau. Ngược lại, có nhiều vấn đề lại không được quy phạm pháp luật nào điều chỉnh hoặc quy định không rõ ràng hoặc quá chung chung…gây khó khăn, lúng túng cho các chủ thể HĐDVPL, cho hoạt động QLNN và hoạt động giải quyết chấp về HĐDVPL. Để đảm bảo tính thống nhất, tính minh bạch, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho việc ký kết và thực hiện HĐDVPL, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN cũng như hoạt động giải quyết tranh chấp HĐDVPL thì pháp luật về HĐDVPL cần phải được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết này, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ của mình. Đây là một đề tài có tính thời sự và thực tiễn cao. Hoàn thành đề tài này sẽ là một đóng góp đáng kể vào việc hoàn thiện pháp luật HĐDVPL và phát triển TMDVPL ở Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh HĐDVPL, trên cơ sở đó xác định các quan điểm, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật HĐDVPL ở Việt nam trong thời gian tới. Với mục đích như trên, các nhiệm vụ mà luận án phải giải quyết là: - Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về DVPL, từ đó phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về HĐDVPL và pháp luật điều chỉnh HĐDVPL; - Phân tích nội dung cơ bản của pháp luật về HĐDVPL; đánh giá những ưu điểm và nhược điểm của pháp luật Việt Nam hiện hành về HĐDVPL. - Xây dựng quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án: Đối tượng nghiên cứu của Luận án là: Các quan điểm, tư tưởng luật học về DVPL và pháp luật về HĐDVPL; Cam kết của Việt Nam trong các Điều ước quốc tế về DVPL; Các văn bản pháp luật thực định của Việt Nam về HĐDVPL; Pháp luật nước ngoài và pháp luật quốc tế về HĐDVPL; Thực tiễn xây dựng, áp dụng pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của luận án: Mặc dù tên luận án là HĐDVPL, song tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu DVPL mang tính thương mại và theo đó HĐDVPL được nghiên cứu cũng giới hạn trong phạm vi HĐDVPL được giao kết giữa bên cung ứng DVPL là những tổ chức hành nghề chuyên nghiệp có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật để cung ứng DVPL cho khách hàng, có thu thù lao và các tổ chức hành nghề đó hoạt động theo nguyên tắc cạnh tranh. Nói cách khác "dịch vụ pháp lý" là đối tượng của hợp đồng cũng có tính hàng hóa (mua, bán). Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu HĐDVPL có tính thương mại, tức là chỉ nghiên cứu pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động cung ứng DVPL thông qua hình thức pháp lý là HĐDVPL mà bên cung ứng DVPL là tổ chức hành nghề cung ứng DVPL, có giấy phép hoạt động DVPL và mục đích cung ứng DVPL là để thu thù lao. Luận án không nghiên cứu HĐDVPL không có tính thương mại, nghĩa là không nghiên cứu pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động cung ứng DVPL thông qua HĐDVPL mà bên cung ứng là các cơ quan, tổ chức nhà nước cho các đối tượng được thụ hưởng DVPL, nhằm thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước hoặc mục tiêu xã hội khác. đó các chủ thể gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng. Cụ thể là: i) pháp luật về chủ thể HĐDVPL còn nhiều nội dung thể hiện sự bất cập, bất bình, như: điều kiện gia nhập thị trường của các nhà đầu tư kinh doanh DVPL trong nước với nhau và với nhà đầu tư nước ngoài; về quyền hành nghề giữa các tổ chức cung ứng các loại hình DVPL trong nước và tổ chức hành nghề nước ngoài tại Việt Nam; về người thực hiện DVPL; về quyền hành nghề cung ứng DVPL giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;... ii) Pháp luật về nội dung HĐDVPL cũng còn nhiều vấn đề chưa được quy định hoặc quy định chưa rõ ràng, cụ thể. Như: nội hàm DVPL; chất lượng DVPL; thù lao DVPL; phương thức thực hiện DVPL, phương thức nghiệm thu, giao nhận kết quả công việc và trách nhiệm vật chất của chủ thể do vi phạm HĐDVPL; nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên cung ứng DVPL và cơ chế kiểm soát rủi ro,...iii) Pháp luật về điều kiện có hiệu lực của HĐDVPL còn nhiều hạn chế, bất cập trong việc quy định các điều kiện về đối tượng HĐDVPL; về năng lực hành vi dân sự của người ký kết; về đảm bảo nguyên tắc giao kết; về tính hợp pháp của mục đích và nội dung HĐDVPL; iv) quy định về các biện pháp chế tài chưa thực sự khoa học và phù hợp với vi phạm HĐDVPL. Nghiên cứu, phân tích các vấn đề này, tác giả nghiên cứu, phân tích và đánh giá các quy định nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau điều chỉnh quan hệ HĐDVPL hoặc có liên quan đến HĐDVPL, để xác định hệ thống pháp luật điều chỉnh HĐDVPL ở Việt Nam gồm nhiều hệ thống văn bản pháp luật khác nhau trong đó chủ yếu nhất là hệ thống pháp luật dân sự mà chủ yếu là các chế định về hợp đồng trong BLDS 2005, LTM 2005 và các luật chuyên ngành về DVPL và nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến HĐDVPL khác. Qua đó đánh giá thực trạng của hệ thống văn bản này, nhằm đưa ra những giải pháp hữu ích để hoàn thiện pháp luật nhằm phát triển hoạt động TMDVPL ở Việt Nam. + Những vấn đề về nội dung HĐDVPL quy định chưa rõ ràng, đầy đủ, còn thiếu những quy định hạn chế rủi ro, bảo vệ quyền lợi chính đáng của khách hàng là bên yếu thế về thông tin + Chưa có những quy định đánh giá kết quả cho từng loại hình DVPL + Quy định về thù lao và chi phí (giá cả DVPL) chưa khoa học, giá DVPL không tương xứng với giá trị DVPL (quá thấp hoặc quá cao). + Cơ chế đảm bảo quyền của bên cung ứng DVPL trong quá trình thực hiện những DVPL bị phụ thuộc vào bên thứ ba chưa được pháp luật thiết lập đầy đủ và đồng bộ + Quy định về các biện pháp chế tài chưa đủ sức ngăn ngừa, răn đe hành vi vi phạm HĐDVPL; một số biện pháp không phù hợp với quan hệ HĐDVPL; một số biện pháp có nội dung khó hiểu; + Công tác quản lý nhà nước và giải quyết tranh chấp về HĐDVPL chưa đạt hiệu quả như mong muốn. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Nghiên cứu thực trạng pháp luật HĐDVPL tại chương này đã làm rõ cơ sở pháp lý để các chủ thể HĐDVPL thỏa thuận thiết lập và thực hiện HĐDVPL; giúp cơ quan QLNN tăng cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực HĐDVPL nhằm đảm bảo an toàn về pháp lý cho các giao dịch của tổ chức, cá nhân; góp phần vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động, bảo vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đối với hoạt động của cơ quan tư pháp. Trong chương này, tác giả đã tập trung phân tích, làm rõ một số nội dung chủ yếu của pháp luật về HĐDVPL tại Việt Nam. Gồm: pháp luật về chủ thể HĐDVPL; pháp luật về nội dung HĐDVPL; pháp luật về thực hiện HĐDVPL; pháp luật về điều kiện có hiệu lực của HĐDVPL và pháp luật về trách nhiệm do vi phạm HĐDVPL. Từ đó, chỉ ra những ưu điểm và bất cập của hệ thống pháp luật HĐDVPL về những vấn đề nêu trên, trên cơ sở đó định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật tại chương tiếp theo. Đó là pháp luật về HĐDVPL chưa được phát triển đầy đủ, đồng bộ và thống nhất, còn nhiều điểm chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động DVPL, do Pháp luật điều chỉnh HĐDVPL là vấn đề còn tương đối mới ở Việt Nam và có nội dung phức tạp. Luận án tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản trong pháp luật điều chỉnh HĐDVPL, đặc biệt là những nội dung đặc thù hoặc có nhiều điểm bất cập, đang gây cản trở, làm giảm hiệu quả của hoạt động DVPL ở Việt Nam. Pháp luật điều chỉnh HĐDVPL hiện nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau, điều chỉnh các quan hệ cụ thể phát sinh trong quá trình các bên tham gia quan hệ HĐDVPL. Vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật HĐDVPL được thực hiện dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau. Luận án lựa chọn cách tiếp cận để nghiên cứu pháp luật HĐDVPL dựa trên các nội dung cơ bản, đặc thù. Bao gồm: i) Các quy định về chủ thể HĐDVPL ii) Các quy định về nội dung HĐDVPL iii) Các quy định về thực hiện HĐDVPL iv) Các quy định về điều kiện có hiệu lực của HĐDVPL v) Các quy định về trách nhiệm do vi phạm HĐDVPL. Với phạm vi nghiên cứu đã được xác định, từ chương 2 đến chương 4, Luận án tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá và đưa ra quan điểm cũng như giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh HĐDVPL dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá 5 vấn đề trên. 4. Phương pháp nghiên cứu Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, luận án vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac– Lênin. Đây là phương pháp luận khoa học được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận án để đánh giá khách quan sự thể hiện của các quy định của pháp luật về HĐDVPL. Luận án cũng được nghiên cứu dựa trên đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, phát triển dịch vụ và hội nhập kinh tế của Đảng và nhà nước ta. Trong quá trình nghiên cứu tác giả luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác nhau, như: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phưong pháp thống kê, phương pháp lịch sử cụ thể; phương pháp nghiên cứu trực tiếp qua khảo sát thực tế, nhằm minh chứng cho những lập luận, cho những nhận xét đánh giá, kết luận khoa học của luận án. Đặc biệt, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh luật học và phương pháp lịch sử được sử dụng chủ yếu trong luận án để phân tích, đối chiếu so sánh những quy định pháp luật về HĐDVPL để thấy sự phát triển của pháp luật về HĐDVPL của nước ta cũng như những điểm tương đồng và khác biệt, những hạn chế, bất cập của pháp luật về HĐDVPL của Việt nam so với các quy định của GATS/WTO và pháp luật quốc tế. Để hoàn thành mục đích nghiên cứu thì có sự kết hợp giữa các phương pháp trong từng chương, từng mục của luận án, trong đó phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp nghiên cứu trực tiếp qua khảo sát thực tế là hai phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong luận án. Đối với mỗi mục thì có một số phương pháp nghiên cứu chủ đạo để làm rõ mục đích nghiên cứu. Cụ thể là: Ở mục 2.1. Chương 2, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh luật học, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống để đưa ra khái niệm DVPL, các đặc điểm và các loại hình DVPL đồng thời chỉ ra tính thương mại của DVPL tư so với DVPL công. Ở mục 2.2 Chương 2, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp nghiên cứu gián tiếp thông qua tổng hợp và phân tích tư liệu, nhất là các tư liệu sơ cấp, so sánh giữa các đối tượng được chọn lựa để đưa ra khái niệm, đặc điểm và các loại HĐDVPL. Ở mục 3.1 Chương 3, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp nghiên cứu trực tiếp qua khảo sát thực tế, tiếp xúc và trao đổi trực tiếp với các nhà nghiên cứu, những nhà cung cấp DVPL và những nhà lãnh đạo trong lĩnh vực chính trị, hành chính và tư pháp để làm rõ chủ thể HĐDVPL. Ở mục 3.2 Chương 3, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp định lượng trong phân tích kết quả điều tra khảo sát thực tế, phương pháp luật học so sánh và phương pháp thống kê, tổng hợp để làm rõ pháp luật và thực tiễn nội dung HĐDVPL. Ở mục 3.3 Chương 3, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp định lượng trong phân tích kết quả điều tra khảo sát thực tế, phương pháp luật học so sánh và phương pháp thống kê, tổng hợp để làm rõ pháp luật và thực tiễn thực hiện HĐDVPL. Ở Chương 4, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp đối chiếu, định nội hàm và các nội dung chủ yếu của pháp luật HĐDVPL. Dựa vào yếu tố của nội dung pháp luật HĐDVPL đã xác định, tác giả dùng làm căn cứ để nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam trong chương tiếp theo. CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM Tại Chương này, luận án tập trung phân tích, đánh giá những vấn đề cơ bản của pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam. Đó là: Quy định về chủ thể HĐDVPL; Quy định về nội dung HĐDVPL; Quy định và thực tiễn về thực hiện HĐDVPL; Quy định về hiệu lực của HĐDVPL và quy định về các hình thức trách nhiệm do vi phạm HĐDVPL. Từ đó, đánh giá mức độ đáp ứng thực tiễn Việt Nam của pháp luật HĐDVPL. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về HĐDVPL tại Việt Nam, luận án rút ra một số nhận xét, đánh giá về những hạn chế bất cập chủ yếu của pháp luật HĐDVPL hiện hành về các vấn đề nêu trên. Đó là: - Pháp luật điều chỉnh HĐDVPL điều chỉnh chưa khoa học và chưa đầy đủ đối với quan hệ HĐDVPL, như: + Chưa quy định khái niệm, đặc điểm và phạm vi DVPL; + Chưa quy định khái niệm HĐDVPL dẫn đến chưa có căn cứ vững chắc để xác định phạm vi, phân loại các loại chủ thể cung ứng DVPL và điều kiện hành nghề cung ứng đối với từng loại hình DVPL; + Quy định về chủ thể cung ứng DVPL còn thể hiện nhiều hạn chế, bất cập, như: quy định chưa hợp lý, thiếu thống nhất về vấn đề gia nhập thị trường (đăng ký, cấp phép); hình thức tổ chức, cơ chế quản lý; quyền và nghĩa vụ; cạnh tranh; ra khỏi thị trường... + Quy định về điều kiện hành nghề cung ứng DVPL còn chồng chéo, mâu thuẫn và bất bình đẳng: lại; HĐDVPL của tư vấn viên pháp luật và HĐDVPL của chuyên gia pháp lý khác; iii) Căn cứ vào nội dung của HĐDVPL, HĐDVPL được chia thành: hợp đồng dịch vụ tư vấn pháp luật; hợp đồng dịch vụ tranh tụng; hợp đồng dịch vụ đại diện; hợp đồng dịch vụ công chứng; hợp đồng dịch vụ lập vi bằng; hợp đồng dịch vụ tống đạt giấy tờ; hợp đồng xác minh điều kiện thi hành án; hợp đồng thi hành án và HĐDVPL khác. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 - Trong xã hội hiện đại, nhu cầu sử dụng DVPL của tổ chức, cá nhân ngày càng tăng. Các tổ chức thường xuyên có nhu cầu về DVPL, trong khi đó cá nhân chỉ đôi khi mới cần đến trong các sự kiện trọng đại của đời sống. Đến nay, các nhà lập pháp và nghiên cứu vẫn chưa đi đến thống nhất chung về những vấn đề lý luận về DVPL và HĐDVPL, vì thế, còn nhiều quan điểm khác nhau về nội hàm cũng như các nội dung chủ yếu của pháp luật HĐDVPL. Tuy nhiên, pháp luật về HĐDVPL vẫn tồn tại với tư cách là một bộ phận tương đối độc lập trong hệ thống pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam, điều chỉnh ngày càng có hiệu quả các quan hệ TMDVPL. - Trong chương này, tác giả đã nghiên cứu và phân tích một số quan điểm khác nhau về DVPL, tiếp cận chúng dưới nhiều góc độ khác nhau để so sánh với DVTM nói chung, từ đó làm rõ khái niệm và bản chất của DVPL. Tác giả cũng đã xem xét và giải quyết các vấn đề liên quan đến DVPL như: phạm vi DVPL, đặc điểm và tính thương mại của DVPL. Tương tự như vậy, tác giả đã nghiên cứu, đánh giá HĐDVPL bằng cách đặt trong mối quan hệ tổng thể để so sánh với HĐDS nói chung, HĐDVTM nói riêng, để nhận diện các đặc điểm của HĐDVPL nhằm đưa ra các căn cứ cho việc xác định một cách chính xác HĐDVPL là HĐDVTM. Tác giả đã tìm ra khái niệm, bản chất của HĐDVPL là một loại HĐDVTM chuyên biệt, vừa mang đầy đủ các đặc điểm của HĐDVTM vừa mang một số đặc điểm của HĐDS. - Nhận dạng chính xác bản chất, đặc điểm và làm rõ khái niệm DVPL và HĐDVPL có ý nghĩa quan trọng trong việc xác phương pháp dự báo để đề xuất quan điểm và giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật về HĐDVPL ở Việt Nam. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án. Những quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật HĐDVPL được đề xuất trong luận án có khả năng ứng dụng trong quá trình hoàn thiện chính sách, pháp luật về DVPL cũng như hoạt động của các nhà cung cấp DVPL. Luận án cũng có thể là tài liệu tham khảo hữu ích cho hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học pháp lý ở Việt Nam. 6. Những đóng góp mới của luận án Luận án có những điểm mới đóng góp cho sự phát triển của khoa học pháp lý chuyên ngành, bao gồm: Thứ nhất, Luận án đã tổng hợp, bổ sung nhận thức và làm rõ thêm một số vấn đề lý luận liên quan đến HĐDVPL: Xây dựng được khái niệm DVPL; xác định được phạm vi DVPL; chỉ ra được tính thương mại của DVPL; chỉ ra được các đặc điểm và xác lập được các tiêu chí để phân biệt DVPL mang tính thương mại và DVPL không mang tính thương mại; xác lập được các tiêu chí để phân loại DVPL mang tính thương mại; Thứ hai, Luận án đã xây dựng được hệ thống lý luận khoa học về pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam. Đã xây dựng được khái niệm HĐDVPL; chỉ ra được những đặc điểm của HĐDVPL; làm rõ nội dung pháp luật điều chỉnh HĐDVPL về những vấn đề: chủ thể HĐDVPL; điều kiện hành nghề cung ứng DVPL; nội dung HĐDVPL; thực hiện HĐDVPL; điều kiện có hiệu lực của HĐDVPL và chế tài do vi phạm HĐDVPL; xác định được hình thức tồn tại của nội dung pháp luật HĐDVPL nằm rải rác tại nhiều văn bản pháp luật, bao gồm BLDS, LTM, các luật chuyên ngành về DVPL và nhiều đạo luật có liên quan khác. Thứ ba, Luận án đã phân tích, đánh giá một cách có hệ thống những hạn chế, bất cập của pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam. Từ đó, chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế trong các quy định pháp luật về HĐDVPL ở Việt Nam, làm căn cứ cho việc hình thành các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam; Thứ tư, Luận án đã xây dựng được hệ quan điểm khoa học và đưa ra được hệ thống giải pháp đồng bộ và cụ thể để hoàn thiện pháp luật HĐDVPL của Việt Nam phù hợp với pháp luật và tập quán thương mại quốc tế đáp ứng yêu cầu HNKTQT của Việt Nam. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Danh mục tài liệu tham khảo chính, nội dung Luận án được kết cấu thành 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài Chương 2. Những vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam Chương 3. Thực trạng pháp luật hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam Chương 4. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam. việc có phải là nhà cung cấp DVPL hay không); iii) căn cứ vào nội dung DVPL thì DVPL chia thành: dịch vụ tư vấn pháp luật; dịch vụ tranh tụng; dịch vụ đại diện; dịch vụ công chứng; dịch vụ lập vi bằng; dịch vụ tống đạt giấy tờ của các cơ quan tư pháp; dịch vụ xác minh điều kiện thi hành án; dịch vụ thi hành án (của thừa phát lại) và DVPL khác. 2.2. Hợp đồng dịch vụ pháp lý - Từ việc nghiên cứu, gắn kết những kiến thức nền tảng về DVPL, luận án đưa ra khái niệm HĐDVPL, đặc điểm và phân loại HĐDVPL. Theo đó: "HĐDVPL có tính thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên cung ứng cung cấp một hoặc nhiều DVPL cho bên thuê dịch vụ để nhận thù lao, còn bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận". - HĐDVPL có các đặc điểm: + Bên cung ứng DVPL phải là tổ chức hành nghề có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Đó là các điều kiện cơ bản như: phải được tổ chức dưới hình thức tổ chức hành nghề cung ứng DVPL hoặc người cung ứng DVPL hành nghề độc lập với tư cách cá nhân (gọi chung là tổ chức hành nghề); đã đăng ký hoạt động cung ứng DVPL và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc cấp giấy phép hoạt động DVPL; cung ứng loại DVPL đúng lĩnh vực và đúng loại hình DVPL của tổ chức hành nghề; + Phương thức ký kết và hình thức một số HĐDVPL không thuộc các trường hợp thông thường của hợp đồng truyền thống. + HĐDVPL có tính đối nhân và tính rủi ro cao + Quá trình cung ứng hầu hết các HĐDVPL phụ thuộc vào bên thứ ba - Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, HĐDVPL có thể được chia thành các loại khác nhau, như: i) Căn cứ vào loại hình tổ chức hành nghề cung ứng DVPL, HĐDVPL được chia thành: HĐDVPL của tổ chức hành nghề luật sư; của tổ chức hành nghề công chứng; của tổ chức hành nghề thừa phát lại; của trung tâm tư vấn pháp luật và của các tổ chức khác; ii) Căn cứ vào loại chuyên gia thực hiện DVPL, HĐDVPL được chia thành: HĐDVPL của luật sư; HĐDVPL của công chứng viên; HĐDVPL của thừa phát CHƯƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM 2.1. Khái quát về dịch vụ pháp lý - Từ việc tiếp cận các nghiên cứu về DVPL, các quy định của GATS/WTO về TMDVPL và căn cứ vào pháp luật hiện hành, luận án xác định "Dịch vụ pháp lý là những dịch vụ gắn liền với pháp luật do nhà nước hoặc các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu về pháp lý của tổ chức, cá nhân". - Từ nội dung khái niệm, luận án chia DVPL làm hai loại cơ bản căn cứ vào nhà cung cấp DVPL là nhà nước (gọi là DVPL công) và nhà cung cấp DVPL tư nhân (gọi là DVPL mang tính thương mại hay TMDVPL), chỉ ra tính thương mại của các DVPL được cung cấp bởi các tổ chức hành nghề cung ứng chuyên nghiệp hoạt động trên thị trường như là một loại chủ thể kinh doanh. - Từ việc phân biệt hai loại DVPL nêu trên, luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu những DVPL mang tính thương mại, luận án không nghiên cứu DVPL công. Đồng thời luận án xác định: “Thương mại dịch vụ pháp lý là toàn bộ các công việc có liên quan đến pháp luật do các tổ chức hành nghề cung ứng DVPL thực hiện cho khách hàng nhằm nhận thù lao”; chỉ ra các đặc điểm của DVPL mang tính thương mại, là: có tính gắn liền với pháp luật; người thực hiện DVPL phải có trình độ chuyên môn và kỹ năng hành nghề luật; có tính khó xác định trước được kết quả; giá trị DVPL mang tính thương mại có giá trị như DVPL công. - Luận án cũng phân chia DVPL mang tính thương mại (gọi tắt trong toàn bộ nội dung luận án là DVPL) ra làm các loại căn cứ vào những tiêu chí khác nhau, như: i) căn cứ vào tiêu chí nhà cung cấp DVPL thì DVPL chia thành: DVPL của tổ chức hành nghề luật sư; của tổ chức hành nghề công chứng; của tổ chức hành nghề thừa phát lại; của trung tâm tư vấn pháp luật (đối với các DVPL cung cấp cho khách hàng và có thu thù lao); ii) căn cứ vào loại chuyên gia thực hiện DVPL thì DVPL chia thành DVPL của luật sư; của công chứng viên; của thừa phát lại và của tư vấn viên pháp luật và của các chuyên gia khác (chẳng hạn trọng tài viên mặc dù đối tượng này ở Việt Nam còn chưa có được sự thống nhất cao về CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Nội dung đã được nghiên cứu Tại chương này, luận án trình bày khái quát về tình hình nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến pháp luật về HĐDVPL. Các vấn đề được luận án đề cập, hệ thống gồm: - Khái niệm DVPL, đặc điểm DVPL, phạm vi của DVPL, tính thương mại của DVPL, căn cứ phân loại DVPL mang tính thương mại và các loại hình DVPL mang tính thương mại ở Việt Nam. - Khái niệm HĐDVPL, đặc điểm HĐDVPL, các loại HĐDVPL - Chủ thể HĐDVPL - Nội dung HĐDVPL - Thực hiện HĐDVPL - Điều kiện có hiệu lực của HĐDVPL - Trách nhiệm do vi phạm HĐDVPL - Giải pháp hoàn thiện pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam 1.1.2. Một số kết quả đạt được của hoạt động nghiên cứu Qua tìm hiểu về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam” mà nghiên cứu sinh tiếp cận được, xin đưa ra đánh giá bước đầu về kết quả của các hoạt động nghiên cứu như sau: - Về những vấn đề lý luận và thực tiễn về dịch vụ pháp lý: Cho đến nay, các nhà nghiên cứu và lập pháp chưa đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về DVPL cũng như chưa chỉ ra các đặc điểm và phạm vi DVPL; Chưa có sự phân biệt rõ ràng DVPL công và DVPL mang tính thương mại; Chưa xây dựng được tiêu chí phân loại DVPL mang tính thương mại; - Về chủ thể HĐDVPL: Do chưa có quy định về khái niệm DVPL và HĐDVPL, dẫn đến việc xác định các vấn đề liên quan đến chủ thể HĐDVPL như phạm vi chủ thể, điều kiện gia nhập và ra khỏi thị trường thị trường, quyền và nghĩa vụ pháp lý;...chưa được pháp luật quy định đầy đủ, cụ thể, đồng bộ và thống nhất. Đặc biệt, vấn đề mở cửa thị trường DVPL theo cam kết tại các Điều ước quốc tế của Việt Nam còn nhiều khó khăn, bất cập. Dẫn đến, quyền bình đẳng giữa các tổ chức hành nghề cung ứng các loại hình DVPL khác nhau, giữa tổ chức hành nghề trong nước và tổ chức hành nghề cung ứng DVPL nước ngoài chưa được pháp luật bảo hộ kịp thời và đúng mức. Do đó, các nghiên cứu chỉ dừng lại ở việc đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng về từng khía cạnh của một số loại hình DVPL nhất định mà chưa có nghiên cứu nào tiếp cận vấn đề dưới góc độ là chủ thể HĐDVPL. - Về nội dung HĐDVPL: Các nghiên cứu mới chỉ tiếp cận các yếu tố như đối tượng; chất lượng; giá cả; phương thức thực hiện; phương thức nghiệm thu, giao nhận; quyền và nghĩa vụ của chủ thể hợp đồng; trách nhiệm do vi phạm HĐDVPL ở từng khía cạnh khác nhau và có tính đơn lẻ về một số loại hình DVPL mà chưa được nghiên cứu một cách tổng thể và dưới góc độ là một yếu tố thuộc nội dung HĐDVPL. - Về thực hiện HĐDVPL: Các nghiên cứu về thực hiện HĐDVPL cũng rất ít và tập trung vào một số vấn đề như: những vướng mắc, bất cập khi thực hiện quy định pháp luật về thực hiện một số loại hình DVPL; Kỹ năng thực hiện một số loại hình DVPL, kỹ năng và những khó khăn thực hiện những DVPL bị phụ thuộc vào bên thứ ba;…Chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu toàn diện và đưa ra được cơ sở lý luận và thực tiễn về cách thức thực hiện HĐDVPL. - Vể điều kiện có hiệu lực của HĐDVPL: Quy định về điều kiện có hiệu lực của HĐDVPL hiện chưa đầy đủ và thiếu cụ thể do pháp luật chưa quy định được khái niệm DVPL và khái niệm HĐDVPL. Các điều kiện để HĐDVPL có hiệu lực hiện được quy định tại BLDS 2005, LTM 2005 và các đạo luật chuyên ngành về DVPL. Tuy nhiên, các quy định đó nhiều khi lại thiếu hoặc không thể áp dụng cho HĐDVPL. Vì thế, các nghiên cứu cũng mới dừng lại ở một số khía cạnh về điều kiện có hiệu lực của HĐDV nói chung mà chưa nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề điều kiện có hiệu lực của HĐDVPL. độ khác nhau. Qua phần tổng quan tình hình nghiên cứu ở Việt Nam có thể khẳng định rằng cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về pháp luật HĐDVPL, để tìm ra những hạn chế và bất cập trong pháp luật HĐDVPL, xây dựng quan điểm và đề ra hệ thống giải pháp hoàn thiện pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam. Với thực trạng tình hình nghiên cứu đó, nghiên cứu sinh chọn đề tài "Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu là không trùng lặp và hoàn toàn mới so với bất kỳ công trình nào đã công bố trước đây. - Để đạt được mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu thì luận án dựa trên cơ sở Học thuyết Mác – Lê-nin về nhà nước và pháp luật, lý thuyết về hợp đồng hiện đại để triển khai nghiên cứu, đồng thời sử dụng, kết hợp linh hoạt các phương pháp nghiên cứu phù hợp với từng chương, từng mục của Luận án. phát huy vai trò của HĐDVPL trong việc bảo đảm an toàn cho các giao dịch của các tổ chức, cá nhân. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Đánh giá thực trạng các công trình đã công bố có liên quan đến đề tài để xác định được các công trình khoa học trước đây đã giải quyết được những nội dung gì liên quan đến đề tài “Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam”. Trên cơ sở đó làm nền tảng để kế thừa, tìm ra cái mới của đề tài. Qua việc nghiên cứu, phân tích đã cho thấy: - Nghiên cứu pháp luật về HĐDVPL là vấn đề đã được các nhà khoa học trên thế giới đặt ra trong suốt quá trình ra đời và tồn tại của loại hợp đồng dịch vụ thương mại này. Việc nghiên cứu thực trạng pháp luật HĐDVPL, góp phần hoàn thiện pháp luật HĐDVPL và phát triển TMDVPL là yêu cầu bức thiết đối với mọi quốc gia trong xu thế HNKTQT hiện nay. - Ở Việt Nam, trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, dịch vụ pháp lý đã tồn tại và phát triển khá mạnh mẽ cùng với hệ thống Tòa án vì nó là một hoạt động của Tòa án. Sau khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến DVPL, tuy lúc đầu chỉ tái xác lập về tổ chức và hoạt động của luật sư và cũng chưa ghi nhận hoạt động của giới luật sư là một loại DVPL. Giai đoạn này hầu như không có các nghiên cứu về HĐDVPL của luật sư mà chỉ xuất hiện lác đác một số các nghiên cứu về hoạt động tư vấn hoặc hoạt động tranh tụng của luật sư. Từ khi nhà nước ta chuyển đổi nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường, đặc biệt là với việc Việt Nam ký kết hai Hiệp định thương mại quan trọng (BTA và GATS/WTO) thì các nghiên cứu về DVPL cũng bắt đầu xuất hiện và phát triển. Một số đạo luật chuyên ngành và văn bản dưới luật về DVPL được ban hành, quy định về tổ chức và hoạt động của luật sư, công chứng, thừa phát lại, tư vấn viên pháp luật. DVPL dần dần được đề cập đến với tư cách là một loại hình dịch vụ mang tính thương mạ. Các tổ chức, cá nhân thiết lập quan hệ để có được sự trợ giúp pháp lý của các nhà cung cấp DVPL qua HĐDVPL. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu có liên quan đến HĐDVPL dưới nhiều góc - Về trách nhiệm do vi phạm HĐDVPL: Xuất phát từ việc chưa có quy định về tính thương mại của HĐDVPL, vì thế, vấn đề xác định tranh chấp HĐDVPL là tranh chấp dân sự hay thương mại chưa được pháp luật quy định rõ và chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm. Bên cạnh đó, DVPL ở Việt Nam là loại hình DVPL mới hình thành, tranh chấp phát sinh chưa có nhiều. Vì thế, vấn đề thỏa thuận để áp dụng trong HĐDVPL, loại chế tài có thể thỏa thuận áp dụng (thuộc hệ thống chế tài dân sự hay chế tài thương mại), cách thức áp dụng chế tài đặc biệt là tính toán thiệt hại vật chất, vấn đề xác định tội danh thể hiện qua hành vi hành nghề cung ứng DVPL...chưa được làm rõ. - Về giải pháp hoàn thiện pháp luật HĐDVPL: Các nghiên cứu chủ yếu đưa ra giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về một số loại hình DVPL, về hợp đồng và HĐDV như: sửa đổi, bổ sung quy định nâng cao vị thế; mở rộng quyền hành nghề; trách nhiệm tạo điều kiện, phối hợp hoạt động của bên thứ ba với nhà cung cấp DVPL trong quá trình hành nghề; mở cửa thị trường DVPL; cải cách nền hành chính và nền tư pháp (chủ yếu là đối với DVPL của luật sư). Có rất ít các nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện pháp luật về các loại hình DVPL khác cũng như hoàn thiện pháp luật HĐDVPL nói chung. 1.1.3. Vấn đề cần tiếp tục tập trung nghiên cứu, tìm giải pháp Những vấn đề về HĐDVPL chưa được làm rõ và cần được nghiên cứu, giải quyết là: Thứ nhất: Cơ sở lý luận của vấn đề DVPL, khái niệm, đặc điểm DVPL và các loại hình DVPL (phạm vi DVPL); tính thương mại của DVPL; Thứ hai: Cơ sở lý luận của vấn đề HĐDVPL, khái niệm, đặc điểm và các loại HĐDVPL; Thứ ba: Thực trạng pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam về những vấn đề cơ bản như: chủ thể HĐDVPL, điều kiện hành nghề cung ứng DVPL; nội dung HĐDVP; thực hiện HĐDVPL; điều kiện có hiệu lực của HĐDVPL; chế tài do vi phạm HĐDVPL và trách nhiệm vật chất khi vi phạm HĐDVPL. Đánh giá những hạn chế của pháp luật về những vấn đề nêu trên. Thứ tư: Các giải pháp để khắc phục những hạn chế, bất cập để hoàn thiện pháp luật về HĐDVPL ở Việt Nam. 1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài 1.2.1. Câu hỏi nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, tác giả Luận án xác định một số câu hỏi sau: 1. Dịch vụ pháp lý ở Việt Nam là gì? DVPL ở Việt Nam có những đặc điểm gì? DVPL tại Việt Nam gồm những loại hình nào? Tính thương mại của DVPL ở Việt Nam? 2. Hợp đồng dịch vụ pháp lý ở Việt Nam là gì? HĐDVPL ở Việt Nam có những đặc điểm gì? Các loại HĐDVPL ở Việt Nam? 3. Thực trạng pháp luật về HĐDVPL ở Việt Nam như thế nào? Các quy định pháp luật về HĐDVPL ở Việt Nam được quy định ở đâu? Quy định về những vấn đề gì? Quy định như thế nào? Những hạn chế, bất cập của pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam? 4. Từ những giả định về những hạn chế, bất cập nêu trên thì cần phải có những phương hướng và giải pháp gì để hoàn thiện pháp luật HĐDVPL ở Việt Nam? 1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu Khi nghiên cứu về HĐDVPL ở Việt Nam, tác giả sử dụng một số cơ sở lý thuyết điển hình như: Học thuyết Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật; Lý thuyết quan hệ pháp luật; Lý thuyết về hợp đồng; Lý thuyết về DVPL; Lý thuyết về hợp đồng dịch vụ (thương mại); Lý thuyết về HĐDVPL (thương mại). 1.2.3. Giả thuyết nghiên cứu Luận án được triển khai với các giả thuyết nghiên cứu sau: 1. Khoa học pháp lý Việt Nam chưa đưa ra một khái niệm chính thức về DVPL. Các vấn đề quan trọng liên quan đến DVPL, như phân biệt DVPL mang tính thương mại và DVPL không mang tính thương mại, đặc điểm, các loại hình DVPL và phạm vi nhà cung cấp DVPL cũng chưa được xác định rõ ràng trong các đề tài nghiên cứu. Chưa có những công trình nghiên cứu sâu về tính thương mại của DVPL. 2. Hiện nay, khoa học pháp lý chưa xây dựng được hệ thống lý luận khoa học về pháp luật điều chỉnh HĐDVPL. Chưa có một khái niệm chính thức về HĐDVPL, đặc điểm cũng như các loại HĐDVPL. Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về HĐDVPL mang tính thương mại, đó là HĐDVPL được ký kết giữa một bên là "các nhà cung cấp DVPL chuyên nghiệp" với khách hàng. 3. Các quy định của pháp luật Việt Nam về HĐDVPL còn chưa hoàn chỉnh và được quy định rải rác tại nhiều văn bản pháp luật có giá trị pháp lý khác nhau và đã đề cập đến những vấn đề về HĐDVPL. Tuy nhiên, các quy định về HĐDVPL hiện hành chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ, còn thể hiện sự mâu thuẫn, bất cập trong bản thân các quy định và giữa các quy định trong các văn bản khác nhau. Chúng ta còn thiếu cơ sở pháp lý đầy đủ và đồng bộ cho việc phát triển hiệu quả hoạt động DVPL. - Chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá một cách đầy đủ và có hệ thống về thực trạng pháp luật HĐDVPL và nêu ra được những hạn chế, bất cập của hệ thống pháp luật về HĐDVPL ở Việt Nam. 4. Hiện nay, còn thiếu những công trình khoa học đưa ra phương hướng và giải pháp đầy đủ, hợp lý để sửa đổi, bổ sung, khắc phục những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về HĐDVPL. 1.2.4. Về hướng tiếp cận của đề tài - Trên cơ sở tập hợp, hệ thống ở mức đầy đủ nhất có thể, các công trình nghiên cứu liên quan đến DVPL, hợp đồng và HĐDVTM ở Việt Nam đã được công bố, luận án kế thừa có chọn lọc trên cơ sở phân tích, đánh giá các kết quả nghiên cứu đó. Từ đó, khái quát hóa, dùng phương pháp nghiên cứu liên ngành để đưa ra những quan niệm của mình về vấn đề nghiên cứu. - Luận án nghiên cứu các quy định về HĐDVPL ở Việt Nam từ sau 1945 đến nay, phân tích, đánh giá những hạn chế, bất cập của các quy định đó trong việc điều chỉnh quan hệ HĐDVPL, đồng thời dựa trên nhu cầu thực tiễn hoạt động DVPL để làm cơ sở cho những đề xuất, kiến nghị. - Trên cơ sở phương hướng đề ra, luận án đề xuất các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về HĐDVPL ở Việt Nam nhằm
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan