Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu...

Tài liệu Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

.PDF
113
686
106

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM NGỌC MINH HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Hµ Néi, n¨m 2006 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM NGỌC MINH HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ Mà SỐ: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS PHẠM CÔNG LẠC MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1- Một số vấn đề Lý luận cơ bản về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả 5 pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu 1.1. Hợp đồng dân sự vô hiệu 5 1.1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu 5 1.1.2. Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu 20 1.2.Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu Chương 2 - Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô 24 30 hiệu theo quy định của pháp luật việt nam hiện hành 2.1. Một số đặc điểm 2.1.1. Quy ®Þnh hîp ®ång v« hiÖu vµ hËu qu¶ ph¸p lý cña hîp 30 30 ®ång d©n sù v« hiÖu ®iÒu chØnh chung ®èi víi sù v« hiÖu cña hîp ®ång d©n sù, hîp ®ång th-¬ng m¹i, hîp ®ång lao ®éng vµ hËu qu¶ ph¸p lý cña cña c¸c lo¹i hîp ®ång nµy. 2.1.2. C¸ch tiÕp cËn vµ mèi liªn hÖ cña hîp ®ång d©n sù v« hiÖu vµ 31 hËu qu¶ ph¸p lý cña hîp ®ång d©n sù v« hiÖu víi c¸c quy ®Þnh kh¸c trong tæng thÓ néi dung BLDS 2.1.3. Nguyªn t¾c x¸c ®Þnh hîp ®ång d©n sù v« hiÖu 2.2. C¸c tr-êng hîp hîp ®ång d©n sù v« hiÖu 2.2.1. Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp 32 34 34 luật, trái đạo đức xã hội 2.2.2. Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo 37 2.2.3. Hợp đồng dân sự vô hiệu do người tham gia giao kết hợp 38 đồng dân sự không có năng lực hành vi dân sự 2.2.4. Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn 42 2.2.5. Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa 44 2.2.6. Hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức 47 và làm chủ được hành vi của mình khi xác lập hợp đồng 2.2.7. Hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về 47 hình thức 2.2.8. Hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thực hiện 51 được 2.3. Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu 2.3.1. Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau 53 54 những gì đã nhận, không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền 2.3.2. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường 56 2.3.3. Tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức bị tịch thu trong trường 60 hợp pháp luật có quy định 2.4. Một số quy định khác về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả 61 pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu 2.4.1 Hợp đồng dân sự vô hiệu từng phần 61 2.4.2 Bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp hợp đồng 62 dân sự vô hiệu Chương 3 - thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu 64 quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu - một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật 3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả 64 pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu 3.1.1. Áp dông quy ®Þnh chung vÒ hîp ®ång d©n sù v« hiÖu (theo 65 quy ®Þnh t¹i §iÒu 127 BLDS) 3.1.2. ¸p dông quy ®Þnh hîp ®ång v« hiÖu do vi ph¹m ®iÒu cÊm 66 cña ph¸p luËt, tr¸i ®¹o ®øc x· héi 3.1.3. áp dụng quy định hợp đồng dân sự vô hiệu do người tham gia giao kết hợp đồng không có đủ năng lực hành vi dân sự 70 3.1.4. Áp dông quy ®Þnh hîp ®ång v« hiÖu do bÞ nhÇm lÉn, lõa 72 dèi, ®e däa 3.1.5. ¸p dông quy ®Þnh hîp ®ång v« hiÖu do kh«ng tu©n thñ quy 78 ®Þnh vÒ h×nh thøc 3.1.6. áp dụng quy định về thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp 83 đồng dân sự vô hiệu 3.1.7. Áp dông quy ®Þnh vÒ hËu qu¶ ph¸p lý cña hîp ®ång d©n sù v« 84 hiÖu 3.2. Mét sè kiÕn nghÞ nh»m hoµn thiÖn ph¸p luËt 3.2.1. Ph-¬ng h-íng hoµn thiÖn c¸c quy ®Þnh cña ph¸p luËt d©n sù 89 89 vÒ hîp ®ång d©n sù vµ hËu qu¶ ph¸p lý cña hîp ®ång d©n sù v« hiÖu 3.2.2. KiÕn nghÞ cô thÓ 92 3.2.3. Mét sè gi¶i ph¸p nh»m hoµn thiÖn c¬ chÕ ®¶m b¶o thùc hiÖn 94 ph¸p luËt vÒ hîp ®ång d©n sù v« hiÖu vµ hËu qu¶ ph¸p lý cña hîp ®ång d©n sù v« hiÖu KẾT LUẬN 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 98 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN: BLDS : Bộ luật dân sự BLHS : Bộ luật hình sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao UBND Ủy ban nhân dân : BLDS năm 1995: Bộ luật dân sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 28.10.1995 (có hiệu lực ngày 1.1.1996) BLDS năm 2005: Bộ luật dân sự của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 14.6.2005 (có hiệu lực ngày 1.1.2006) MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp đồng dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu để các chủ thể thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình. Hợp đồng dân sự càng có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta giai đoạn hiện nay. Những quy định về hợp đồng dân sự được quy định tại BLDS Việt Nam năm 1995 đã tạo ra một hành lang pháp lý cho giao lưu dân sự. Tuy nhiên, các quy định này được soạn thảo căn cứ vào thực tiễn những năm 1990, trải qua hơn 9 năm thực hiện cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, đã bộc lộ những hạn chế, bất cập. Nhiều quy định không còn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, do đó không thể phát huy hết tác dụng trong thực tế. Từ thực tiễn phát triển đa dạng các quan hệ dân sự đặt ra yêu cầu: BLDS nói chung, những quy định về hợp đồng dân sự nói riêng cần phải được sửa đổi theo hướng hiện đại hơn, phù hợp hơn với những chuyển biến của xã hội, cũng như phải dự đoán trước được những chuyển biến tiếp theo. Các quy định về hợp đồng dân sự trong đó bao gồm hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu trong BLDS năm 2005 trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các quy định của BLDS năm 1995, đã có những sửa đổi, bổ xung và điều chỉnh hiệu quả hơn các quan hệ hợp đồng. Nhưng để những quy định này phát huy hiệu lực trên thực tế, cần tiếp tục có những nghiên cứu khoa học. Việc nghiên cứu không chỉ dành cho các nhà khoa học, mà còn là công việc cấp thiết của các cơ quan thi hành pháp luật. Thực tế cho thấy, những quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu có vai trò quan trọng trong điều chỉnh những quan hệ giao lưu dân sự trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Mặt khác, những quy định này không tồn tại độc lập mà có sự liên hệ chặt chẽ với những quy định khác trong tổng thể nội dung BLDS năm 1 2005. Bởi vậy những nghiên cứu về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu đã có những đóng góp đáng kể trong việc nâng cao nhận thức của các bên chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng, góp phần làm sáng tỏ những quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu trong các văn bản pháp luật trong từng thời kỳ. Những nghiên cứu này là những tài liệu tham khảo có giá trị trong công tác áp dụng, thực thi pháp luật cũng như công tác phổ biến pháp luật. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề: “Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu, phân tích những quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu không phải là vấn đề mới. Việc nghiên cứu hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu đã được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm trong các thời kỳ, dưới những góc độ khác nhau. Trước thời điểm BLDS năm 2005 có hiệu lực (1.1.2006), hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu đã được đề cập tới trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học, như: Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Trần Trung Trực: “Một số vấn đề về giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó”, Luận án tiến sỹ luật học của tác giả Nguyễn Văn Cường: “Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu”, “Hợp đồng kinh tế vô hiệu” của TS Lê Thị Bích Thọ (Sách tham khảo) – NXB Chính trị quốc gia năm 2004. Một số vấn đề có liên quan tới hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu ở các góc độ hẹp, được trình bày trong các báo, tạp chí, đề tài nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, sau thời điểm BLDS năm 2005 có hiệu lực, mặc dù các quan điểm và quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu, cũng như việc áp dụng các quy định 2 này vào thực tế mặc dù có những thay đổi, nhưng lại có rất ít các công trình nghiên cứu, đặc biệt là những công trình khoa học nghiên một cách hệ thống về các vấn đề này. Vì vậy, đề tài: “Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu” có những giá trị lý luận và thực tiễn nhất định. 3. Mục đích nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài nhằm nhận thức sâu sắc và toàn diện về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu nói chung. Việc nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những quan điểm, tư tưởng và bản chất của những quy định trong pháp luật dân sự Việt Nam về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu, thấy được những điểm phù hợp và chưa phù hợp của các quy định về vấn đề này trong điều kiện kinh tế, xã hội hiện nay. Căn cứ trên pháp luật thực định, thực tiễn áp dụng, luận văn có thể đưa ra một số phương hướng cho việc áp dụng những quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu để những quy định này thực sự đi vào đời sống; đề xuất, kiến nghị một số sửa đổi, bổ sung cụ thể đối với các quy định của BLDS về vấn đề này. 4. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:  Khái niệm chung và những vấn đề lý luận liên quan đến hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu theo khoa học pháp lý và pháp luật một số nước trên thế giới;  Phân tích những quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, đặc biệt là các quy định của BLDS năm 2005 về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu. Nghiên cứu mối quan hệ của quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu với các quy định khác trong tổng thể nội dung của BLDS. 3  Trên cơ sở, phân tích, tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Tác giả lấy quan điểm duy vật và phép biện chứng làm cơ sở lý luận và phương pháp luận để nghiên cứu đề tài. Tác giả còn sử dụng một số phương pháp, như: Tổng hợp, so sánh luật, phân tích quy phạm, phân tích án quyết... để nghiên cứu đề tài. Mặt khác, trên cơ sở đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật, thực tiễn xã hội, đưa ra những bất cập của quy định cũ, những điểm phù hợp và chưa phù hợp của quy định mới. 6. Những kết quả nghiên cứu mới Trong bối cảnh BLDS 2005 mới ban hành, quan điểm và quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng dân sự và hợp đồng dân sự vô hiệu có những thay đổi nhất định. Tác giả đã phân tích, tổng hợp các quan điểm khoa học, các quy định theo pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu, để làm rõ cơ sở lý luận và quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu, đồng thời làm sáng tỏ tính kế thừa và phát triển của pháp luật Việt Nam hiện hành về các quan điểm và quy định này. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về trong giải quyết các tranh chấp tại TAND, tác giả đánh giá hiệu quả tích cực trong việc điều chỉnh các quan hệ về hợp đồng dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu, đồng thời cũng chỉ ra một số điểm chưa phù hợp và nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. Bên cạnh đó, luận văn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu. 6. Cơ cấu luận văn  Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương: 4  Chương 1- Một số vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu.  Chương 2 - Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.  Chương 3 - Thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu - Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. 5 Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU 1.1. HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU 1.1.1. Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu “Hợp đồng dân sự vô hiệu” là thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong khoa học pháp lý và pháp luật hợp đồng. Trong chế định hợp đồng dân sự, hợp đồng dân sự vô hiệu là một bộ phận không thể tách rời, trong mối quan hệ biện chứng hợp đồng dân sự, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, trong khi “hợp đồng dân sự” được định nghĩa tương đối phổ biến trong pháp luật dân sự của các nước, thì khái niệm “hợp đồng dân sự vô hiệu” lại không được pháp luật dân sự của nhiều nước trên thế giới (trong đó có Việt Nam) đưa ra, mà thông thường chỉ làm rõ các tiêu chí xác định sự vô hiệu của hợp đồng dân sự. * Tiếp cận theo nghĩa thông thường, “Vô hiệu - không có hiệu lực, mất tác dụng” [25, tr. 880]. Theo cách hiểu này, hợp đồng dân sự vô hiệu là hợp đồng không có giá trị (hiệu lực) về mặt pháp lý, không được pháp luật công nhận. Do đó, nó không làm phát sinh hậu quả pháp lý mà các bên mong muốn. * Tiếp cận từ góc độ bản chất của hợp đồng: Hợp đồng dân sự là những giao dịch pháp lý song phương hoặc đa phương, qua đó thể hiện sự thống nhất ý chí của các bên, với mục đích đạt được những hệ quả pháp lý nhất định là việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ ràng buộc các bên trong quan hệ hợp đồng dân sự. Nhưng quyền tự do trong giao kết hợp đồng dân sự không phải là tuyệt đối. Ngày nay, xuất phát từ góc độ bảo vệ trật tự công, các bên tham gia hợp đồng dân sự bị điều chỉnh của pháp luật thông qua các điều kiện cụ thể mà các bên phải tuân thủ khi tham gia quan hệ hợp đồng dân sự. Hợp đồng dân sự sẽ được pháp luật công nhận và có hiệu lực pháp luật khi đáp ứng được những yêu cầu, điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật. Ngược lại, trường hợp những điều kiện trên theo quy định của pháp luật không được thỏa 6 mãn, nghĩa là hợp đồng dân sự đó đã chứa đựng những khiếm khuyết nhất định thì bị coi là vô hiệu. Xuất phát từ đó, pháp luật dân sự mỗi nước có thể sử dụng một trong ba cách điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu như sau: - Cách thứ nhất, quy định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự, để từ đó có căn cứ xác định hợp đồng vô hiệu. Ở đây sẽ dẫn tới một hạn chế: chỉ thừa nhận những quan hệ hợp đồng dân sự tuân thủ các điều kiện của pháp luật, nói cách khác các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng dân sự chỉ được phép làm những gì pháp luật quy định. Bởi vậy, đây là cách tiếp cận cứng nhắc, pháp luật của rất ít nước điều chỉnh hợp đồng dân sự vô hiệu theo cách này. - Cách thứ hai, quy định cụ thể các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng lẫn vô hiệu của hợp đồng. Cách điều chỉnh này được nhiều nước như: Pháp, Việt Nam... sử dụng. Điều chỉnh theo cách này chưa hẳn đã khắc phục được hạn chế như cách điều chỉnh thứ nhất cũng bởi lý do như phân tích ở trên. - Cách thứ ba, chỉ quy định các trường hợp vô hiệu của hợp đồng dân sự. Đây là cách tiếp cận của pháp luật dân sự của một số nước như Nhật Bản... Theo cách điều chỉnh này, hợp đồng dân sự được suy đoán là hợp pháp và đương nhiên có hiệu lực nếu không thuộc vào những trường hợp vô hiệu do pháp luật quy định. Dù vẫn còn những quan điểm khác nhau, nhưng nhìn chung, khoa học pháp lý và pháp luật các nước thừa nhận những yếu tố sau có thể dẫn đến hợp đồng dân sự vô hiệu: a. Không có sự tự nguyện của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng: Bản chất của hợp đồng dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của các bên tham gia giao kết hợp đồng. Do đó, các bên phải hoàn toàn tự nguyện trở thành nguyên tắc cơ bản của giao kết hợp đồng dân sự. Theo đó, các bên hoàn toàn tự do trong việc chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng của phía bên kia, tự do xác định nội dung của hợp đồng, tự do lựa chọn hình thức hợp đồng. Ý chí của các bên trong quan hệ hợp đồng dân sự chỉ hoàn toàn tự nguyện 7 khi quá trình giao kết hợp đồng không bị ảnh hưởng, phụ thuộc hay ngăn cản bởi các yếu tố khác. Nếu bị cản trở nào đó dẫn đến người giao kết hợp đồng không thể thể hiện đúng ý chí của mình, khi đó hợp đồng có thể vô hiệu. Pháp luật dân sự Nhật Bản, cũng như pháp luật của nhiều nước trên thế giới, xem xét hợp đồng dân sự là một dạng phổ biến của giao dịch dân sự. Do đó, tự định đoạt là nguyên tắc cơ bản của giao dịch dân sự, cũng như yếu tố dẫn đến sự vô hiệu nói chung đối với giao dịch dân sự sẽ áp dụng đối với hợp đồng dân sự. Tại BLDS Nhật Bản: Coi không có sự tự nguyện (sự phù hợp giữa ý chí và thể hiện ý chí) là yếu tố cơ bản dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng dân sự. Đồng thời pháp luật có sự phân biệt giữa các trường hợp không có sự phù hợp giữa ý chí và thể hiện ý chí, bao gồm: Sự không phù hợp cố ý, thể hiện ý chí giả tạo, nhầm lẫn [20, tr. 132-137]; và tỳ vết của sự thể hiện ý chí, bao gồm: Thể hiện ý chí do bị lừa dối và thể hiện ý chí do bị ép buộc [20, tr. 137-139]. Cụ thể: - Sự không phù hợp cố ý, dạng này bao gồm thể hiện ý chí mang tính chất vui đùa hoặc khác với ý chí nội tâm (ý chí nội tâm là ý chí của hành vi nhằm thu một số kết quả nhất định), trong đó bản thân người thể hiện ý chí nhận thức được điều này. Sự thể hiện ý chí đó gọi là giả tạo đơn phương. Trong trường hợp bên kia biết hoặc phải biết bản chất thật sự của việc thể hiện ý chí đó thì hợp đồng bị coi là vô hiệu; - Thể hiện ý chí giả tạo, tức là sự thể hiện ý chí khác với ý chí nội tâm, được thực hiện thông qua sự thông đồng của các bên giao kết; - Nhầm lẫn, là sự không trùng hợp hợp giữa ý chí được thể hiện với mong muốn thực sự của người thể hiện ý chí. Nhầm lẫn khác với không trùng hợp ý chí cố ý và thể hiện ý chí giả tạo ở chỗ: Bản thân người thể hiện ý chí không biết được điều đó. Khoa học pháp lý Nhật Bản phân biệt: Nhầm lẫn trong sự thể hiện, nhầm lẫn về nội dung và nhầm lẫn về động cơ. Trong đó, nhầm lẫn về các nội dung chủ yếu của hợp đồng sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Tì vết của sự thể hiện ý chí, trong trường hợp bị lừa dối, ép buộc: 8 - Lừa dối: Là hành vi trái pháp luật làm cho người khác bị nhầm lẫn, và nếu như người đó do bị nhầm lẫn mà thực hiện sự thể hiện ý chí, thì được coi là thể hiện do bị lừa dối. Khác với trường hợp nhầm lẫn thông thường, ở đây không cần có sự nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của sự thể hiện ý chí. Chỉ cần chứng minh được sự thể hiện ý chí được thực hiện do lừa dối, không phụ thuộc vào việc đó có phải là nhầm lẫn nội dung chủ yếu hay không. Cho nên, nếu có sự nhầm lẫn xảy ra do hành vi lừa dối không phụ thuộc vào hình thức thể hiện, thì đó chính là sự thể hiện ý chí do bị lừa dối. Hợp đồng dân sự có sự thể hiện ý chí do bị lừa dối sẽ bị xóa bỏ (tương ứng với loại hợp đồng vô hiệu tương đối – sẽ trình bày ở phần sau). Trong trường hợp nếu người thể hiện ý chí bằng lòng với kết quả của hành vi pháp lý và không muốn xóa bỏ nó thì sự thể hiện ý chí được công nhận là có hiệu lực. Trường hợp ngược lại, người đó có quyền xóa bỏ sự thể hiện ý chí và phủ nhận hiệu lực của nó. Có hai điểm hạn chế đối với việc xóa bỏ sự thể hiện ý chí được thực hiện do lừa dối: + Thứ nhất, nếu hành vi lừa dối do người thứ ba thực hiện thì sự thể hiện ý chí bị xóa bỏ trong trường hợp bên kia được thông báo về sự lừa dối đó (khoản 2 Điều 96 BLDS). + Thứ hai, trong trường hợp xóa bỏ sự thể hiện ý chí thì hậu quả pháp lý của nó không liên quan đến người thứ ba ngay tình. Ví dụ: A bị B lừa dối, phải bán cho B bất động sản với giá rẻ quá đáng. C không biết về sự lừa dối đó và mua lại bất động sản từ B, thì A không thể đòi bất động sản đó từ C, mà chỉ cóthể yêu cầu B bồi thường thiệt hại. - Ép buộc (đe dọa): Là hành vi trái pháp luật nhằm làm người khác sợ hãi và buộc người đó phải thể hiện một ý chí nhất định do lo sợ bị một tội ác nào đó xâm hại. Thực tế thường đặt ra câu hỏi: Đe dọa khởi kiện hoặc tố cáo tội phạm 9 có phải là ép buộc không? Bản thân hành vi đó là đúng pháp luật, nhưng sử dụng chúng với tính chất đe dọa nhằm thu lợi bất chính cũng là ép buộc. Sự thể hiện ý chí do bị ép buộc sẽ bị hủy bỏ tương tự như lừa dối (khoản 1 Điều 96 BLDS). Khi xác định tính hợp pháp của hành vi ép buộc, cần xem xét phương thức và mục đích trong mối quan hệ của chúng. Sự thể hiện ý chí do bị ép buộc có thể bị xóa bỏ bất kỳ lúc nào và quyết định xóa bỏ có hiệu lực đối với các bên, cũng như đối với người thứ ba có hành vi đe dọa và người thứ ba ngay tình. Hủy bỏ sự thể hiện ý chí do bị ép buộc không có hạn chế quy định đối với sự thể hiện hành vi do bị lừa dối, xuất phát từ sự cần thiết bảo vệ người bị ép buộc ở mức độ cao hơn. Trong pháp luật dân sự Nhật Bản, thể hiện ý chí là điều kiện bắt buộc để hợp đồng có hiệu lực. Sự thể hiện ý chí này nếu không thỏa mãn hai điều kiện sau sẽ không có hiệu lực, đó là: Được truyền đạt sự thể hiện ý chí đến bên đối tác và năng lực trở thành người tiếp nhận ý chí [20, tr. 139-143]. Theo đó: Việc truyền đạt thể hiện ý chí đến bên đối tác đòi hỏi năng lực của người đó nhận thức được nội dung của sự thể hiện ý chí. Cho nên khi bên đối tác không có năng lực nhận thức sự thể hiện ý chí thì khái niệm sự truyền đạt không thể được áp dụng. Đồng thời, có sự phân biệt năng lực trở thành người tiếp nhận ý chí khác cơ bản với năng lực thể hiện ý chí và năng lực hành vi nói chung – tức là khác với vị thành niên và người không có năng lực hành vi, người có năng lực hành vi hạn chế (những có khuyết tật về thể chất như người mù, điếc, câm... cũng bị coi là hạn chế năng lực hành vi). Đối với vị thành niên và người bị công nhận không có năng lực hành vi thì nội dung của sự thể hiện ý chí phải được truyền đạt đến người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, trong lĩnh vực mà theo ngoại lệ vị thành niên được coi là có năng lực hành vi thì họ cũng có năng lực trở thành người tiếp nhận sự thể hiện ý chí. Bởi vậy, những hợp đồng dân sự mà bên đối tác không thể tiếp nhận sự thể hiện ý chí của sẽ bị coi là vô hiệu. Trong pháp luật dân sự Pháp, một trong bốn điều kiện cơ bản để hợp đồng dân sự có hiệu lực là phải có sự thỏa thuận của các bên cam kết. Nhưng sự thỏa 10 thuận đó trong hợp đồng sẽ không có giá trị (bị vô hiệu hoặc hủy bỏ) nếu nó đạt được do bị nhầm lẫn, bị đe dọa và bị lừa dối. Căn cứ này được ghi nhận tại các quy định từ Điều 1109 đến Điều 1117 BLDS, cụ thể: - Sự nhầm lẫn chỉ là căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu, nếu sự nhầm lẫn về bản chất của vật hoặc sự việc là đối tượng của hợp đồng. Pháp luật không coi nhầm lẫn về người mà mình có ý định giao kết là căn cứ để xem xét hợp đồng vô hiệu, trừ khi việc xem xét thân nhân của người đó là căn cứ chính của việc giao kết hợp đồng. - Bạo lực đối với người giao kết hợp đồng là một căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu, dù bạo lực ấy được thực hiện bởi người thứ ba không phải là người được hưởng lợi ích do việc giao kết hợp đồng. Tính chất và mức độ của bạo lực dẫn đến hợp đồng dân sự vô hiệu được xác định cụ thể, đó là: Phải gây ấn tượng đối với một người có lý trí bình thường và làm cho người đó lo sợ rằng có thể bị tổn thất nghiêm trọng với tính mạng, tài sản của chính mình hoặc với vợ, chồng, tôn thuộc, ti thuộc của mình. Mức độ bạo lực còn được xem xét cụ thể trong mối liên hệ với tuổi tác, giới tính và hoàn cảnh của người đó. Riêng đối với sự sợ hãi, khép nép với cha mẹ hoặc tôn thuộc khác là không được pháp luật dân sự Pháp coi là bạo lực dẫn đến hậu quả hủy hợp đồng - Sự lừa dối chỉ coi là căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu khi các thủ đoạn mà phía bên lừa dối nếu không thực hiện thủ đoạn đó thì không thể ký kết được hợp đồng. Nếu một bên nêu ra lý do giao kết hợp đồng do bị lừa dối thì cần phải chứng minh. Theo pháp luật dân sự Pháp, những hợp đồng ký kết do bị nhầm lẫn, bạo lực hoặc lừa dối có thể bị tuyên bố vô hiệu, nhưng nó không đương nhiên vô hiệu. Chỉ theo yêu cầu của bên bị nhầm lẫn, bị lừa dối hoặc bạo lực, khi đó Tòa án sẽ xem xét có tuyên bố vô hiệu hoặc hủy bỏ hợp đồng hay không. Trong pháp luật Dân sự và Thương mại của Thái Lan: Giao kết hợp đồng dân sự được xem xét là một dạng cơ bản của hành vi pháp lý. Do vậy, áp dụng quy định chung đối với hành vi pháp lý vô hiệu đối với hợp đồng dân sự. Cụ thể: 11 Quy định tại BLDS và Thương mại Thái Lan: Khi giao kết hợp đồng (thực hiện một hành vi pháp lý), các bên luôn thể hiện (tuyên bố) ý định của mình. Một tuyên bố ý định sẽ bị vô hiệu nếu người tuyên bố ý định đó trong thâm tâm không có ý định ràng buộc mình với ý định đã thể hiện. Những trường hợp tuyên bố ý định bị vô hiệu hoặc có thể bị vô hiệu gồm: Tuyên bố ý định không thực (giả tạo), bị nhầm lẫn, man trá hoặc tuyên bố ý định không đến được với đối tác theo quy định từ Điều 117 đến Điều 132 BLDS và Thương mại Thái Lan: - Một “tuyên bố ý định không thực” trong giao kết hợp đồng, được làm với sự đồng lõa của bên kia hoặc hành vi có ý định “nhằm che đậy” một hành vi khác thì vô hiệu. - Hợp đồng bị vô hiệu do có yếu tố “nhầm lẫn” được phân biệt thành hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất, nếu nó có nhầm lẫn về một yếu tố quan trọng của hành vi trong giao kết hợp đồng thì hợp đồng vô hiệu (đương nhiên vô hiệu không phụ thuộc vào ý chí của các bên trong quan hệ hợp đồng), tuy nhiên pháp luật dân sự Thái Lan không bảo vệ người mà sự nhầm lẫn đó là do sự khinh suất nghiêm trọng của người đó. Trường hợp thứ hai, nếu hợp đồng có sự nhầm lẫn về năng lực của người hay phẩm chất của vật và các năng lực hay phẩm chất đó coi là quan trọng trong những giao dịch bình thường hợp đồng có thể bị vô hiệu. - Hợp đồng giao kết do có sự “gian trá” hoặc “cưỡng bức” thì có thể bị vô hiệu. Pháp luật dân sự Thái Lan có xem xét đến mức độ gian trá và cưỡng bức. Trong đó, sự gian trá phải đến mức độ: Nếu không có sự gian trá đó, thì sự thỏa thuận không được thực hiện; Hoặc sự cưỡng bức phải đến mức nó gây ra cho người bị tác động bởi sự cưỡng bức đó nỗi lo sợ có cơ sở về thiệt hại xảy ra cho bản thân, gia đình hoặc tài sản của người đó, rằng nó sắp xảy ra đến nơi và tương đương, ít nhất với sự thiệt hại mà người đó lo sợ từ hành vi bị ép buộc. Như vậy, khoa học pháp lý và pháp luật dân sự các nước ghi nhận các trường hợp: Hợp đồng giao kết do giả tạo, bị nhầm lẫn, bị lừa dối hoặc bị đe dọa là yếu tố phổ biến ảnh hưởng đến sự tự nguyện của các bên trong quan hệ hợp đồng. Ngoài ra, những trường hợp khác như các bên tham gia hợp đồng không 12 thể hiện ý chí đúng đắn hoặc tiếp nhận ý chí từ phía bên kia cũng được pháp luật một số nước nhìn nhận như là không có sự tự nguyện. Đây là yếu tố có thể dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng dân sự. b. Không đảm bảo năng lực giao kết hợp đồng: Để đảm bảo sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của chủ thể tham gia, điều kiện cần: những người có ý chí độc lập, có khả năng nhận thức được hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng dân sự. Trường hợp ngược lại, người không có năng lực hành vi dân sự giao kết hợp đồng dân sự thì bị coi là không thể có khả năng biểu lộ ý chí đích thực của họ – do đó không thể có sự tự nguyện. Do vậy, một trong các yếu tố mà khoa học pháp lý và pháp luật dân sự các nước sử dụng để để xác định hợp đồng dân sự vô hiệu do người tham gia giao kết hợp đồng không có năng lực giao kết. Đa số pháp luật các nước đều có sự phân biệt các đối tượng không có năng lực giao kết hợp đồng dân sự thành: Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự và những người có năng lực hành vi dân sự hạn chế. BLDS Nhật Bản, chia làm 2 nhóm chính: Người không có năng lực hành vi (vị thành niên, người bị công nhận là không có năng lực hành vi) và người có năng lực hành vi hạn chế. Các hành vi pháp lý của những người này đều có thể bị hủy bỏ [20, tr. 38]. - Năng lực hành vi của vị thành niên [20, tr. 42-45] (khả năng của vị thành niên tự mình thực hiện hành vi pháp lý để tạo lập các quyền và chấm dứt các nghĩa vụ, nói cách khác tự mình thực hiện các giao dịch dân sự không gây thiệt hại cho lợi ích của mình). Theo quy định pháp luật dân sự, người đại diện theo pháp luật có thể cho phép người vị thành niên định đoạt tài sản với mục đích nhất định, như mục đích du lịch học tập... Thậm chí, kèm theo một số điều kiện khác người đại diện còn cho phép vị thành niên được tiến hành hoạt động kinh doanh. Các trường hợp khác, giao dịch hợp đồng của vị thành niên cần sự đồng ý của người đại diện, Ngược lại, nếu không có sự đồng ý đó thì giao dịch dân sự sẽ bị hủy bỏ theo quy định của Điều 4 BLDS. 13 - Những người bị công nhận là không có năng lực hành vi [20, tr. 45-47]: Là những người mất khả năng nhận thức, cụ thể là không có khả năng nhận thức về hậu quả hành vi của mình trong tình trạng bình thường. Họ bị Tòa án và gia đình công nhận không có năng lực hành vi theo thủ tục nghiêm ngặt. Khi đó, hành vi của họ (trong đó có giao kết hợp đồng dân sự) sẽ bị hủy bỏ, kể cả khi được người người giám hộ đồng ý. - Năng lực hành vi của người có năng lực hành vi hạn chế [20, tr. 49-52]: Pháp luật dân sự Nhật Bản không chỉ coi những người đần độn, hoặc người phá tán tài sản mà còn cả những người có nhược điểm về thể chất như: Câm, điếc, mù... là có năng lực hành vi hạn chế nếu bị Tòa án và gia đình công nhận như vậy. Họ có thể thực hiện một số giao dịch (hợp đồng) không cần sự đồng ý của người giám hộ. Nhưng trường hợp người này thực hiện giao dịch hành vi mà BLDS quy định phải có sự đồng ý của người giám hộ, nếu người giám hộ không đồng ý mà họ vẫn thực hiện thì hành vi đó bị hủy bỏ và theo thủ tục như đối với vị thành niên. BLDS và Thương mại Thái Lan có những quy định tương tự, hợp đồng dân sự có thể bị vô hiệu do người giao kết không có năng lực chủ thể. Tại Điều 116: “Một hành vi pháp lý không tuân theo những yêu cầu về khả năng (năng lực) của thể nhân, pháp nhân thì có thể bị vô hiệu”. BLDS Pháp quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu do không chủ thể không có năng lực giao kết hợp đồng (vô năng) được ghi nhận tại các điều từ Điều 1123 đến Điều 1125 BLDS Pháp, theo đó những người không có năng lực giao kết hợp đồng được xác định trong hai trường hợp: - Người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi), chưa được quyền tự lập; - Người thành niên, nhưng được pháp luật bảo hộ. Những người này được quy định chi tiết hơn tại Điều 448 BLDS, đó là những người năng lực cá nhân bị biến đổi lâm vào tình trạng không thể thực thi được các quyền của mình; hoặc người do tiêu sài hoang phí, do lối sống vô độ hoặc do ăn không ngồi rồi mà rơi 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan