ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ VĨNH LINH
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI VÀ TRUYỀN GIÁO
CỦA BỒ ĐÀO NHA TẠI ẤN ĐỘ, TRUNG QUỐC
(THẾ KỶ XVI – THẾ KỶ XIX)
Chuyên ngành: LỊCH SỬ THẾ GIỚI
Mã số: 62.22.50.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. LÊ VĂN ANH
2. PGS.TS. ĐẶNG VĂN CHƯƠNG
HUẾ - NĂM 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong Luận án là trung thực, được các đồng
tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một
công trình nào khác.
Tác giả luận án
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Ký hiệu viết tắt
Danh mục các bảng
A. MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................... 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 11
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 11
6. Đóng góp của đề tài ............................................................................................ 12
7. Bố cục đề tài ....................................................................................................... 13
B. NỘI DUNG............................................................................................................ 13
CHƯƠNG 1. HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA BỒ ĐÀO NHA TẠI ẤN ĐỘ
VÀ TRUNG QUỐC (THẾ KỶ XVI - ĐẦU THẾ KỶ XIX) .................................. 14
1.1. Thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ (thế kỷ XVI - thế kỷ XIX) .............. 14
1.1.1. Thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ (thế kỷ XVI - giữa thế kỷ XVII) ....... 14
1.1.2. Thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ (giữa thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XIX) ...... 33
1.2. Thương mại Bồ Đào Nha tại Trung Quốc (nửa sau thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XIX) . 44
1.2.1. Hoạt động bước đầu của thương nhân Bồ Đào Nha tại Trung Quốc (đầu thế kỷ
XVI - nửa đầu thế kỷ XVII) ............................................................................................ 44
1.2.2. Hoạt động thương mại của thương nhân Bồ Đào Nha Macao với Trung Quốc
lục địa ................................................................................................................................ 50
1.2.3. Quá trình mở rộng thương mại của Bồ Đào Nha ở Macao với các khu vực khác
(thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XIX) ....................................................................................... 57
1.2.4. Sự suy tàn của thương mại Bồ Đào Nha tại Macao (cuối thế kỷ XVIII - đầu thế
kỷ XIX) ............................................................................................................................. 63
CHƯƠNG 2. HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO CỦA CÁC GIÁO ĐOÀN BỒ
ĐÀO NHA Ở ẤN ĐỘ VÀ TRUNG QUỐC (THẾ KỶ XVI - THẾ KỶ XIX) ..... 67
2.1. Hoạt động truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ ......................................... 67
2.1.1. Bước đầu xác lập ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo tại Ấn Độ (thế kỷ XVI)..... 67
2.1.2. Hoạt động của các giáo đoàn Bồ Đào Nha tại Ấn Độ vào thế kỷ XVII. ........... 81
2.1.3. Sự suy yếu của các giáo đoàn Bồ Đào Nha tại Ấn Độ vào thế kỷ XVIII .......... 87
2.2. Hoạt động truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Trung Quốc ................................ 90
2.2.1. Quá trình truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Macao .............................................. 90
2.2.2. Hoạt động truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Trung Quốc lục địa........................ 94
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI VÀ
TRUYỀN GIÁO CỦA BỒ ĐÀO NHA TẠI ẤN ĐỘ, TRUNG QUỐC (THẾ KỶ
XVI - THẾ KỶ XIX) ............................................................................................... 115
3.1. Cơ sở xác lập hoạt động thương mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn
Độ, Trung Quốc .................................................................................................... 115
3.1.1. Chính sách hướng biển của Bồ Đào Nha ........................................................... 115
3.1.2. Sự thừa nhận của Giáo hội Rome đối với các vùng đất Bồ Đào Nha xâm chiếm ........ 118
3.1.3. Sự tham gia của Bồ Đào Nha vào thương mại Đại Tây Dương trong thế kỷ XV .. 120
3.1.4. Vai trò của thương nhân Thiên Chúa giáo mới ................................................. 121
3.2. Đặc điểm hoạt động thương mại, truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và
Trung Quốc ........................................................................................................... 123
3.3. Thương mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ trong sự đối sánh với
Trung Quốc ........................................................................................................... 132
3.3.1. Vài đối sánh về hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc . 132
3.3.2. Vài đối sánh về công cuộc truyền giáo của các giáo đoàn Bồ Đào Nha tại Trung
Quốc và Ấn Độ............................................................................................................... 138
3.4. Hệ quả quá trình hoạt động thương mại và truyền giáo của người Bồ Đào Nha
tại Ấn Độ và Trung Quốc ..................................................................................... 143
3.4.1. Sự gắn kết thương mại Ấn Độ, Trung Quốc vào mạng lưới giao thương toàn
cầu và hậu quả của chính sách độc quyền nhà nước trong thương mại biển ............. 143
3.4.2. Sự di cư, hình thành các tộc người mới và nạn kỳ thị chủng tộc ...................... 149
3.4.3. Sự tiếp biến ngôn ngữ Bồ Đào Nha trong cộng đồng cư dân châu Á .............. 151
3.4.4. Đối với quá trình tiếp biến và giao lưu văn hóa ................................................. 153
3.4.5. Bồ Đào Nha đặt nền tảng cho quá trình thay đổi cơ cấu động - thực vật trên
phạm vi toàn thế giới...................................................................................................... 158
C. KẾT LUẬN ......................................................................................................... 160
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Rs
Rupee
Tiền Ấn Độ
EIC
East India Company
Công ty Đông Ấn Anh
£
Pound
Đồng bảng Anh
VOC
Vereenigde Oost-Indische
Công ty Đông Ấn Hà Lan.
Compagnie
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1
Bảng 1.2
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Hàng hóa nhập khẩu vào Lisbon từ châu Á (Ấn Độ) từ
1505 đến 1518
Hàng hóa nhập khẩu vào Lisbon từ châu Á (Ấn Độ) từ
1505 đến 1518
Sự phát triển dân số của Lisbon từ 1147 đến 1500
Ví dụ về ảnh hưởng của ngôn ngữ Bồ Đào Nha đến tiếng
Quảng Châu
24
24
117
153
THUẬT NGỮ
STT
1
Thuật ngữ
Agency House
2
Arel
3
4
Armada
Armazem da India
5
6
Arroba
Bengalis
7
Cafila
8
Capitao- genal
9
Capitao - mor
10
Casado
11
12
Casa dos contos
Casa da matricula
Chú thích
Hãng đại lý của các tư thương Bồ Đào Nha tại Ấn Độ.
Về bản chất, đây là liên minh thương mại giữa các tư
nhân để tăng cường khả năng cạnh tranh với Hoàng
gia Bồ và các địch thủ người châu Âu khác.
Người đứng đầu một hải cảng tại ven biển Ấn Độ vào
đầu thế kỷ XVI.
Hạm đội tàu chiến
Thực chất là kho vũ khí được xây dựng đầu tiên tại hải
cảng Lisbon. Bộ phận quản lý của Armazem bao gồm
một giám đốc, một thủ quỹ và một vài thư ký, một số
ít thợ thủ công, công nhân, thợ mộc những người được
thuê để đáp ứng cho những yêu cầu của vận chuyển
hàng hóa bằng đường biển. Những kho hàng chứa
hàng của nó luôn có đại bác và số lượng lính canh gác
thường xuyên, hàng hóa hải quân, gỗ, cung ứng cho
các chuyến hải hành đến Ấn Độ. Tại Ribeira Armazem
sản xuất rất nhiều thuyền carrack lớn và các thuyền
nhỏ phục vụ cho thương mại hàng hải đến châu Á.
Văn phòng Armazem còn thiết lập quan hệ với những
thương nhân, những người cung ứng vũ khí, đồ sứ,
rượu và những hàng hóa khác cho các chuyến hải hành
của carrack đến Ấn Độ và đồng bạc để thu mua hạt
tiêu và gia vị đến châu Á. Trụ sở của Armazem tại Ấn
Độ là Goa.
14.4 kg
Là nhóm dân tộc thiểu số bản địa sinh sống tại Bengal
(hiện nay về phương diện chính trị, khu vực này được
phân chia nằm ở hai quốc gia Bangladesh và Ấn Độ).
Về chủng tộc, họ là sự hỗn huyết giữa người Aryan và
người Mongoloid.
Các đoàn thương nhân lữ hành vận chuyển hàng hóa
bằng đường bộ thông qua Con đường tơ lụa.
Chức vụ nắm quyền quản lý tối cao tại Macao với tư
cách là Tổng trấn hoàng gia và chỉ huy quân sự của
thành phố từ năm 1623.
Là chức vụ cao nhất nhằm quản lý các chuyến tàu
được khởi hành từ Macao đến những hải cảng đã được
chỉ định tại Nhật Bản.
Những người Bồ Đào Nha đã có gia đình đến định cư
tại châu Á
Phòng tài chính thuộc Estado da India.
Phòng hộ tịch và hỗ trợ quân sự.
13
Carrack
14
Carreira da India
15
Cartaz
16
Cristãos novos
17
Chattin
18
19
Chalupa
Chetty
20
Chulia
21
22
23
24
Loại tàu lớn có 3 hoặc 4 cánh buồm vuông, được Bồ
Đào Nha sử dụng trong giao thương Á - Âu vào thế kỷ
XV, XVI.
Là những hạm đội tàu được tổ chức bởi Hoàng gia Bồ
Đào Nha và khởi hành hàng năm từ Lisbon đến Ấn Độ
(chủ yếu là Goa) theo tuyến thương mại qua mũi Hảo
Vọng. Theo ước tính, trong khoảng thời gian từ 1497
đến 1650, có khoảng 1.033 chuyến tàu khởi hành từ
Lisbon đến Goa.
Đây là hình thức cấp phép trong thương mại đường
biển được thực hiện bởi người Bồ Đào Nha từ đầu thế
kỷ XVI đến nửa cuối thế kỷ XVIII. Theo đó, các tàu
muốn đến buôn bán với các vùng đất dưới sự kiểm
soát của người Bồ Đào Nha phải được sự cho phép
của Estado và phải đóng thuế theo quy định nếu không
sẽ bị tấn công, đánh đắm bởi lực lượng hải quân Bồ
Đào Nha tại Ấn Độ dương.
Là những người gốc Do Thái sinh sống trên lãnh thổ
Bồ Đào Nha từ rất sớm. Năm 1496, để ngăn chặn khả
năng liên minh giữa người Do Thái, vua Dom Manel
đã ra sắc lệnh cải đạo cưỡng bức đối với tất cả người
Do Thái giáo sống trên lãnh thổ Bồ Đào Nha. Và từ
đây, nhánh Thiên Chúa giáo mới của người Bồ Đào
Nha ra đời.
Những tư thương buôn bán tại Ấn Độ dương không
được sự cho phép của Hoàng gia Bồ Đào Nha.
Thuyền buồm
Đẳng cấp thương nhân khác nhau ở Nam Ấn Độ, đặc
biệt là ở bang Tamil Nadu.
Chỉ các thương nhân Hồi giáo Tamil định cư tại duyên
hải Coromandel ở Nam Ấn Độ.
Công ty Hoàng gia Đông Ấn của Pháp.
Compagnie Royale
des Indes
Orientales)
Companhia da Índia Công ty thương mại Ấn Độ của Bồ Đào Nha được
thành lập vào năm 1628.
Oriental
Concession voyage Thuật ngữ này dùng để chỉ các chuyến tàu thương mại
dưới sự kiểm soát của hoàng gia Bồ Đào Nha được
bán cho tư thương theo mức giá thỏa thuận. Tư thương
sẽ là người trực tiếp thu mua hàng hóa và chở về
Lisbon để phân phối lại trên thị trường châu Âu.
Hoàng gia Bồ Đào Nha chỉ đóng vai trò thu lợi nhuận
theo đúng giá cả thỏa thuận.
Conselho
Hội đồng hải ngoại
Ultramarino
Được thành lập vào năm 1642 tại Lisbon, phụ trách
các vấn đề về tài chính trong hoạt động thương mại
25
Council of Trent
26
Cruzado
27
Ducat
28
Dom
29
Estado da India
30
31
Foot (feet )
Fidalgo
32
Fishery Coast
33
Foro da chao
34
Gaunkar
giữa Hoàng gia Bồ Đào Nha với các thuộc địa (đặc
biệt là Ấn Độ)
Hội đồng thế giới lần thứ 19 của Giáo hội Rome (1545
– 1563), đề ra nội dung của việc tự cải cách và làm
sáng tỏ những học thuyết gây tranh cãi với Tin Lành
(Protestism). Hội đồng đóng vai trò quan trọng đem
đến sự hồi sinh cho Nhà thờ Công giáo Rome ở nhiều
khu vực khác nhau tại châu Âu.
Là một loại tiền xu bằng vàng của người Bồ Đào Nha
có khắc hình chữ thập chính giữa. Đồng xu vàng này
được sử dụng bởi Afonso V (1438-1481) khi tổ chức
một cuộc viễn chinh chữ thập chống lại việc xâm chiếm
Constantinople của người Thổ vào năm 1453. Nó có giá
trị khoảng 400 reis. Ý nghĩa của chữ cruzado trong tiếng
Bồ Đào Nha có nghĩa là chữ thập - thập tự giá của vị
thánh bảo trợ cho Bồ Đào Nha, St George.
Là một loại tiền đồng được đúc bằng vàng hoặc bạc
được sử dụng trong thương mại của châu Âu từ hậu kỳ
trung đại đến thế kỷ XX. Trong đó, ducat vàng của
Venice được xem như tiền tệ trong giao thương quốc
tế, tương tự như dollar Mỹ hiện nay.
Được sử dụng như tước hiệu dành cho nam giới thuộc
đẳng cấp quý tộc ở Bồ Đào Nha.
Thuật ngữ Estado da India - liên bang Ấn Độ được
dùng để chỉ về tất cả các thành phố, pháo đài và các
vùng lãnh thổ mà người Bồ Đào Nha đã kiểm soát
được ở châu Á và Đông Phi. Tuy nhiên, đôi khi thuật
ngữ Estado còn được sử dụng với ý nghĩa rộng hơn
nhiều, bao gồm tất cả các vùng ven biển và các đảo
thuộc phía Đông mũi Hảo Vọng được giới hạn từ cực
đông nam châu Phi đến vùng đất thấp ở cửa sông
Dương Tử. Trong thực tế, cũng có một số khu vực
không nằm trong phạm vi quản lý của cơ quan này (ví
dụ như Macao - Trung Quốc).
1 foot = 0.3048 m
Cấp bậc thấp nhất trong hệ thống đẳng cấp quý tộc của
vương triều Bồ Đào Nha.
Vùng duyên hải phía Nam Ấn Độ trải rộng dọc theo
Coromandel từ Tuticorin đến Comorin
Tiền thuê đất mà người Bồ Đào Nha ở Maccao phải
trả cho chính quyền Trung Quốc
Thuật ngữ này có ý nghĩa lịch sử hết sức sâu sắc. Đây
là tên gọi dành cho hậu duệ trực tiếp của những người
chủ sở hữu đất đai trong làng. Thuật ngữ này bắt
nguồn từ một tổ chức được gọi là công xã có nghĩa là
Tổ chức kinh tế xã hội nông thôn Ấn Độ cổ đại được
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
thành lập bởi các cư dân bản địa người Ấn Độ hàng
ngàn năm trước khi Bồ Đào Nha xâm nhập. Một công
xã được xác định rõ ràng thông qua ranh giới đất đai
giữa các làng, sự tương tác trong tôn giáo, xã hội và
cách thức quản lý. Trong mỗi công xã có nhiều
Gaunkar. Như vậy, ý nghĩa chính xác nhất của thuật
ngữ này đó là những người đồng sở hữu đất đai và tài
sản của công xã. Đất đai của công xã không được phép
thế chấp, trả nợ trong bất kỳ một tình huống nào, bởi
bất kỳ một cơ quan hay cá nhân nào.
Loại thuyền buồm lớn có tải trọng trên 1.000 tấn được
Galleon
trang bị đại bác, thường được các nước châu Âu sử
dụng từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII.
Loại thuyền có tải trọng từ 300 đến 400 tấn
Galiota
Thương mại đường biển của người Nhật Bản được sự
Go-shuin-sen
cho phép của Tướng quân ở biển Nam Trung Quốc
vào thế kỷ XVII.
Là loại tiền tệ được lưu hành tại Hà Lan trước khi áp
Guilders
dụng đồng Euro. 1 guilder = 100 cent.
Guangzhou co-hong Liên minh thương nhân Quảng Đông hoặc phường hội
quản lý hoạt động thương mại với các thương nhân
phương Tây tại Quảng Đông trước chiến tranh Thuốc
phiện lần thứ nhất (1839 - 1842).
Chính sách hải cấm của triều Minh thi hành ở Trung Quốc.
Haijin
Hong hoặc co-hong Phường hội hay liên minh thương nhân Trung Quốc.
Hundi đầu tiên và cổ nhất còn được biết đến có từ thế
Hundi
kỷ XII và sau đó được nhân rộng do sự đơn giản, chi
phí thấp và tính hiệu quả của nó. Từ hundi là một thuật
ngữ chung có nguồn gốc từ tiếng Phạn (Sankrit) có
nghĩ là “tập trung” .
Inforos
Địa tô
Inter Caetera
Ngày 03 và 04 tháng 5 năm 1493 Giáo hoàng
Alexandre VI đã ký sắc lệnh Inter Caetera phân chia thế
giới truyền giáo cho hai nước mà đường ranh là kinh
tuyến 30 0 từ Bắc xuống Nam cực - đi ngang qua quần
đảo Azores thuộc Bồ Đào Nha - Tây kinh tuyến từ nay
thuộc Tây Ban Nha bảo trợ truyền giáo, phần này gồm
cả tân thế giới (châu Mỹ). Đông kinh tuyến còn lại
thuộc Bồ Đào Nha gồm châu Phi và châu Á. Riêng ở
vùng Viễn Đông thì Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản
đều thuộc lĩnh vực truyền đạo của Bồ Đào Nha.
Jansenism
Là phong trào Thần học Ky tô giáo được tiến hành
đầu tiên tại Pháp. Phong trào bắt nguồn từ tác phẩm
của nhà Thần học người Hà Lan Cornelius Jansen.
Trung tâm của phong trào là nhà nguyện Port-Royal
thuộc Paris.
Khandi
Còn có tên gọi là Candil - một đơn vị dùng để tính
47
Kallar và Maravar
48
Kilwa
49
50
Mappila
Marathas
51
Mendicant orders
52
Metizo
53
Moor
54
Nayak
55
Nayar
56
Nau
57
58
Naveta
Old Goa
khối lượng thường được sử dụng tại phần Ấn Độ
thuộc Anh, Afghanistan, Ba Tư và Arab cũng như đế
quốc Mogul. 1 candil = 20 maon (1 maon dao động từ
11 kg đến 721/2 kg).
Đây là nhóm người thuộc cộng đồng Mukkulathor - cư
dân bản địa sinh sống ở các thị xã trung và Nam của
Tamil Nadu, Ấn Độ. Cộng đồng này phục vụ như
những chiến binh hoặc chủ đất nắm quyền thống trị từ
thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Họ cũng sinh sống bằng
khai thác mỏ than đá và sắt
Là một hòn đảo thuộc duyên hải Đông Phi, ngày nay
là Tanzania. Vào thế kỷ XII, dưới thời trị vì của vương
triều Abu'-Mawahib, Kilwa đã trở thành thế lực hùng
mạnh nhất vùng ven biển Đông Phi.
Nhóm thương nhân Hồi giáo buôn bán tại Malabar.
Người Ấn Độ giáo cư trú tại Maharashtra thuộc
trung tâm phía Tây Ấn Độ.
Là những giáo đoàn sinh sống bằng các hoạt động từ
thiện. Về nguyên tắc những giáo đoàn này không có
tài sản riêng hoặc chung. Theo đó, họ đang thực hiện
sứ mệnh truyền giáo bằng cách sống giản dị và sử
dụng toàn bộ thời gian vào những công việc mang tính
chất tôn giáo. Dòng Dominicains và Franciscains cũng
thuộc vào nhóm này.
Những người con lai mang trong mình hai dòng máu:
Á - Âu. Họ phần lớn là con cháu mà bố là người Bồ
Đào Nha và mẹ là phụ nữ bản địa.
Là một thuật ngữ trong tiếng Anh để gọi những người
Hồi Giáo hiện nay đang sinh sống tại Bồ Đào Nha và
Tây Ban Nha. Nguồn gốc của cộng đồng này là sự hỗn
huyết giữa Arab, Tây Ban Nha và Amazigh (Berber).
Người Moor đã tạo nên nền văn minh Arab Andalusian
và định cư thường xuyên như là người tị nạn ở Bắc Phi
giữa thế kỷ XI và XVII. Đôi khi thuật ngữ này còn
được mở rộng để chỉ người Hồi giáo nói chung.
Có nghĩa là người cai trị. Đây là thuật ngữ được sử
dụng khi vương triều Keladi Nayaka lên cầm quyền
trong giai đoạn 1499 - 1763. Vào 1565, các Nayak đã
xác lập quyền lực trên phạm vi lãnh thổ của đế quốc
Vijayanagar trước đây.
Cộng đồng Hindu giáo sinh sống ở phía Nam Ấn Độ
thuộc bang Kerala.
Thuật ngữ dùng để chỉ các tàu có kích thước lớn được
sử dụng trong các chuyến hải hành vượt đại dương từ
thế kỷ XIII đến thế kỷ XV.
Loại tàu chở hàng hóa có tải trọng 300 tấn.
Là một thành phố có giá trị lịch sử quan trọng nằm ở
59
Oriya
60
61
Ounce
Outvidor
62
Pagoda
63
Palaiyakkarar
64
Pancada
65
Pardesi
66
67
Pataxo
Peso
68
69
70
Picol
Pound
Propaganda
ngoại ô phía Bắc của Goa hiện nay. Thành phố này
được xây dựng bởi Hồi vương Bijapur vào thế kỷ XV
và trở thành kinh đô của Estado da India từ thế kỷ XVI
đến XVIII. Thành phố đã được UNESCO công nhận là
di sản văn hóa thế giới.
Họ được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như: Odia,
Odri, Utkaliya, Kalingi, trong tiếng latin là Uri. Đây là
nhóm dân tộc ở phía đông Ấn Độ theo Hindu giáo và
chiếm đa số trong các bang nằm ở duyên hải phía Đông
Odisha, và chiếm số lượng nhỏ tại Andhra Pradesh, Tây
Bengal, Karnataka, Jharkhand và Chhattisgarh.
28.35 g
Thẩm phán do tổng trấn người Bồ tại Estado da India
bổ nhiệm đến cư trú tại Macao trong 3 năm.
Một loại tiền tệ bằng vàng hoặc một nửa vàng được sử
dụng bởi các vương triều người Ấn (như
Kadambas của Hangal,the Kadambas của Goa, và đế
quốc Vijaynagar), cũng như Anh, Pháp và Hà Lan
Là tước hiệu phong kiến của những người đứng đầu
một phần lãnh thổ hoặc lãnh đạo chiến dịch quân sự
được bổ nhiệm bởi người cai trị Nayaka ở Nam Ấn
(thuộc vương quốc Vijayanagar, Madurai Nayakas và
vương triều Kakatiya) trong suốt thế kỷ XVI - XVIII.
Là những quy định về giá cả được sử dụng bởi các
daimyo tại Nagasaki (Nhật Bản) nhằm thu mua tơ lụa
Trung Quốc theo tỷ lệ được điều chỉnh mở mức thấp
nhất. Hệ thống này còn được sử dụng tại Manila
Nhóm thương nhân người nước ngoài tham gia buôn
bán tại duyên hải Ấn Độ gồm: người Arap, Ba Tư, Thổ
Nhĩ Kỳ, Somali, Maghreb…
Loại tàu có tải trọng 300 đến 400 tấn
1 peso = 0.8 tael
= 0.8 cruzado
= 1.07 xerafines
1
= 133 /2 pounds
= 0.45359237 kg
Vào ngày 6/1/1622, giáo hoàng Gregory XV đã quyết
định cho ra đời Phái bộ truyền giáo đức tin (Sacred
Congregation for the Propagation of the Faith). Đối
với Ấn Độ, Propaganda chính thức xuất hiện thông
qua một nhân vật khá nổi tiếng Matthew de Castro.
Sau khi được thụ phong linh mục tại Rome, Matthew
xin phép trở về quê hương với tư cách đại diện của
Giáo hoàng cũng như của Propaganda có trách nhiệm
quản lý đối với Thiên Chúa giáo ở Đông Ấn. Vào cuối
1633, ông trở về Goa sau 12 năm xa cách đánh dấu sự
71
Provedor-Mor dos
Defuntos e
Ausentes
72
73
Quintal
Raja
74
Real
75
76
Relação
Renda
77
Ring
78
Sarraf
79
80
Senado da Camara
Sephardim
81
Sofala
82
Santa Casa da
Misericordia
Syriac Orthodox
Church
83
xuất hiện của Proganda tại Ấn Độ.
Đây là chức vụ mà Captain-mor nắm giữ cho đến
1589 với ý nghĩa “Người quản lý những tài sản của
người chết và những người vắng mặt”. Theo đó, khi
một thương nhân Bồ Đào Nha tại Macao qua đời thì
capitao-mor có trách nhiệm thực hiện các thủ tục pháp
lý và chuyển đến Estado da India ở Goa - nơi chúng
được dàn xếp để phân chia cho những người thừa kế ở
Bồ Đào Nha hoặc các vùng đất khác theo di chúc
100 kg
Một thuật ngữ lịch sử xuất hiện trong kinh Vệ Đà
(Rigveda) của Ấn Độ dùng để gọi người đứng đầu
một gia tộc. Trước kia, các học giả thường gọi là
“vua” nhưng hiện nay được dịch là “trưởng tộc”.
Một loại tiền đồng được đúc bằng bạc của người Tây
Ban Nha.
Tòa án tối cao thuộc Estado da India.
Renda là một thuật ngữ được sử dụng để chỉ việc bán
nguồn lợi của Estado da India cho người trả giá cao
nhất. Thời hạn của một renda là khoảng 3 năm.
Người có được renda phải có người bảo lãnh và nộp
một số tiền đặt cọc trước khi ký hợp đồng.
Nhóm thương nhân đại diện cho các daimyo ở 5
thành phố Edo, Kyoto, Osaka, Sakai và Nagasaki nắm
độc quyền trong nhập khẩu tơ lụa vào Nhật Bản.
Thuật ngữ dùng để chỉ những chủ ngân hàng người
Bồ Đào Nha đầu tiên tại Ấn Độ
Hội đồng thành phố
Các thế hệ sau của những người Do Thái ở Bồ Đào
Nha và Tây Ban Nha bị trục xuất theo sắc lệnh 1492.
Hiện nay thuộc tỉnh Sofala ở Mozambique. Vương
quốc Sofala được ra đời vào khoảng năm 700. Người
Arab và Ba Tư bắt đầu đến đây giao thương vào thế kỷ
X. Pêro da Covilhã là nhà thám hiểm Bồ Đào Nha
đầu tiên đặt chân đến vùng đất này vào năm 1489.
Trong chuyến viễn chinh đến Ấn Độ, Da Gama đã cho
tàu cập bến và tìm hiểu thông tin về địa điểm này.
Hội huynh đệ. Tổ chức này có trách nhiệm chăm sóc
người nghèo, người bệnh và trẻ mồ côi.
Còn được gọi là Syriac Orthodox Patriarchate of
Antioch and All the East quản lý 6 nhà thờ:
Coptic, Ethiopia, Eritrea, Syriac, Malankara Syrian
(Nhà thờ Chính thống giáo Ấn Độ) và Nhà thờ Tông
đồ Armenia.
84
Tael
85
Taluka
86
87
Tangas
Treaty of Amiens
88
Tordesillas
89
Xerafines
90
Zamorin
Đơn vị thuộc hệ thống đo lường được áp dụng chủ yếu
ở vùng Viễn Đông thường được dịch là “lạng” hay
“lượng” trong tiếng Việt. 1 tael ở Quảng Châu = 37.5
grams, 1 tael Thượng Hải = 33.9 g…
1 tael = 1 cruzado
= 1.33 xerafines
Là thuật ngữ Bồ Đào Nha sử dụng để chỉ 12 đơn vị
hành chính dưới Goa. Trong thời kỳ cai trị của Bồ Đào
Nha, Goa được chia làm 2 khu vực: Bắc Goa và Nam
Goa với 12 taluka: Bardez, Bicholim, Pernem, Ponda,
Sattari, Tiswadi, Dharbandora, Canacona, Mormugao,
Salcette, Sanguem, Quepem.
= 60 reis
1
Được ký kết vào ngày 27/3/1802 giữa Anh, Pháp, Tây
Ban Nha và Cộng hòa Batavia (Hà Lan) chấp nhận duy
trì nền hòa bình tại châu Âu trong 14 tháng suốt cuộc
chiến tranh Napoleon. Theo đó, quyền lực và lãnh thổ
của Bồ Đào Nha phải được tôn trọng, ngoại trừ việc
Pháp tiếp nhận Guinea thuộc Bồ Đào Nha.
Hòa ước này được ký kết vào ngày 7/6/1494 nhằm
giải quyết những tranh chấp giữa Bồ Đào Nha và Tây
Ban Nha sau chuyến phát kiến địa lý của Christopher
Columbus (1492). Theo hiệp ước này, thế giới được
phân định bằng đường kinh tuyến tưởng tượng kéo dài
từ Nam đến Bắc cách quần đảo Cape Verde 370 hải lý
(1.770 km) về phía Tây. Như vậy, vương quốc Castille
cùng quần đảo Canaries thuộc về triều đình Tây Ban
Nha, còn các đảo Madeira, Porto Santo, quần đảo
Azores, Cape Verde cũng như quyền chinh phục
vương quốc Fez hoặc Fès (Maroc) và quyền đi lại
bằng đường biển ở phía Nam đường vĩ tuyến chạy qua
quần đảo Canaries thuộc về triều đình Bồ Đào Nha.
Vùng đất Brazil được khám phá trước khi hiệp ước
này được ký kết, vì thế nó thuộc chủ quyền của Bồ
Đào Nha
Đồng bạc được sử dụng trong phần lãnh thổ Ấn Độ
thuộc Bồ Đào Nha. 1 xerafim = 300 reis
Là tước hiệu hoàng gia của những tiểu vương Hindu
giáo trong thời trung đại ở Calicut trên duyên hải
Malabar Coast (hiện nay là Kerala). Zamorin cai trị
trong 6 thế kỷ (XII -s XVIII) với kinh đô tại
Calicut, một trung tâm thương mại quan trọng phía
Nam Ấn Độ.
91
Wako
92
93
Vedoria da fazenda
Vedor da fazenda
Cướp biển người Nhật Bản, hoạt động tại bờ biển Trung
Quốc và Nhật Bản từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVII. Tuy
nhiên, thành phần tham gia mạng lưới này còn có cả
người Trung Quốc, Triều Tiên, Đông Nam Á
Ủy ban quản lý ngân khố thuộc Estado da India
Nhân viên quản lý ngân khố thuộc Estado da India
1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát kiến địa lý là một những thành tựu vĩ đại trong lịch sử nhân loại, “một cuộc
cách mạng thật sự” trong lĩnh vực giao thông và tri thức. Với tư cách là quốc gia tiên
phong của kỷ nguyên khám phá (Discovery Age), Bồ Đào Nha đã góp phần khai mở
những trang sử đầu tiên của chủ nghĩa thực dân phương Tây khi thiết lập hệ thống
thương điếm trải dài từ duyên hải Tây Phi đến tận vùng Viễn Đông xa xôi1 và kiến
tạo đế quốc mậu dịch hàng hải đầu tiên trong thời cận đại - Estado da India. Như vậy, đây
không chỉ là bước ngoặt trong lịch sử Bồ Đào Nha mà còn là thời kỳ chuyển mình mạnh
mẽ dẫn đến những thay đổi bản chất trong quan hệ giữa phương Đông và phương Tây.
Trong mạng lưới nhượng địa của Bồ Đào Nha trên toàn châu Á, các thương điếm
ven biển Ấn Độ và Trung Quốc đóng vai trò nổi bật, không thể thay thế. Vốn xem
thương mại là trọng tâm và hoạt động với mục đích thiết lập nền thương mại “nhân
đôi” nên Bồ Đào Nha đã duy trì một lúc hai tuyến giao thương: ngoại tuyến và nội
tuyến, với các mối quan hệ chồng chéo vô cùng phức tạp. Thế nhưng, những thương
điếm như Cochin, Goa, Malacca và Macao...lại được kết nối vô cùng linh hoạt, vận
động nhịp nhàng trong một mạng lưới thương mại mang tính quốc tế đầu tiên của
thời kỳ cận đại. Vì thế, thông qua việc phục dựng tương đối chân xác diện mạo của
giai đoạn lịch sử để lại nhiều dấu ấn, luận án còn đi sâu phân tích để rút ra đặc điểm
của đế quốc Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc (trong sự đối sánh với một số đế
quốc tư bản chủ nghĩa thời bấy giờ như Hà Lan, Anh).
Bên cạnh đó, mặc dù có cùng cơ chế quản lý và nhiều nét tương đồng trong quá trình
phát triển nhưng hệ thống thương điếm của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc vẫn tồn
tại ít nhiều dị biệt. Khác với thương mại tại Ấn Độ, ở Trung Quốc, Bồ Đào Nha không
dùng vũ lực để xâm chiếm đất đai, xây dựng pháo đài, kiểm soát thương mại mà một
phương thức mềm mỏng hơn đã được lựa chọn để xâm nhập vùng đất này: chấp nhận
vị trí trung gian, kết nối tuyến giao thương giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Đặc trưng
của thương nhân Bồ Đào Nha tại Macao là triển khai một phương thức thương mại
biển tương đối ôn hòa, không chịu nhiều sự chi phối của Estado da India. Sự tương
đồng và dị biệt của hai mạng lưới thương điếm có cùng chủ sở hữu này không những
có ý nghĩa khoa học đầy lý thú mà còn để lại nhiều bài học quý giá cho lịch sử.
Sự song hành giữa thương mại và truyền giáo trong quá trình hoạt động của Bồ
Đào Nha tại Ấn Độ, Trung Quốc được các học giả ví von như “đôi cánh của một con
1
Các hải cảng của Nhật Bản được xem là điểm cuối trong chuỗi hệ thống thương điếm của đế quốc mậu dịch Bồ
Đào Nha
2
chim”. Nếu trong thương mại, lách qua “khe cửa hẹp” của thể chế độc quyền, các tư
thương đã đóng vai trò quan trọng trong hầu hết các khâu của quá trình thu mua - vận
chuyển - bán hàng hóa thì trong lĩnh vực truyền giáo, tất cả hoạt động của các giáo
đoàn đều chịu sự chi phối của vua Bồ Đào Nha (theo những sắc chỉ được ký kết và
ban hành bởi Giáo hoàng tại Rome). Trong gần một thế kỷ, ba giáo phận Goa,
Malacca và Macao lần lượt ra đời đánh dấu thành tựu trong hoạt động truyền giáo
của các giáo đoàn Bồ Đào Nha. Nếu ở Ấn Độ, quá trình truyền giáo được tiến hành
khá thuận lợi thông qua việc sử dụng vũ lực cưỡng ép người dân bản địa phải cải đạo
thì các linh mục Dòng Tên phải rất vất vả để xâm nhập vào Trung Quốc. Một nhà
nước tập quyền vững mạnh với nền văn hóa chịu ảnh hưởng đậm nét của học thuyết
Nho giáo đã buộc các linh mục Bồ Đào Nha phải thay đổi một phần cách thức truyền
đạo. Đây là vấn đề gây tranh cãi trong thời gian dài giữa các linh mục Dòng Tên
Trung Quốc với Giáo hội Rome. Vì vậy, tìm hiểu về hoạt động truyền giáo của Bồ
Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc còn cho chúng ta thấy sự thích ứng của tôn giáo
đối với các nền văn hóa, các thể chế chính trị khác nhau như thế nào.
Tuy nhiên, hiện nay nghiên cứu về đế quốc mậu dịch Bồ Đào Nha cũng như hoạt
động thương mại và truyền giáo của nó ở Ấn Độ, Trung Quốc vẫn còn là mảng trống.
Trong các chương trình đào tạo cử nhân Lịch sử, thạc sĩ Lịch sử thế giới, nhận thức
của sinh viên về quá trình xác lập quyền lực thương mại biển của Bồ Đào Nha còn
khá chung chung. Những hiểu biết về vai trò của các linh mục Bồ Đào Nha tại Trung
Quốc và Ấn Độ cũng hết sức mờ nhạt.
Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Hoạt động thương mại và
truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Trung Quốc (thế kỷ XVI - thế kỷ XIX)” làm
đề tài cho luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử thế giới.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Thực trạng nghiên cứu vấn đề trong nước
Việc Bồ Đào Nha khai mở thành công con đường biển đến châu Á và thiết lập
được hệ thống cứ điểm thương mại và truyền giáo tại Ấn Độ, Trung Quốc là một
trong những bước ngoặt quan trọng của lịch sử nhân loại. Thế nhưng cho đến nay,
vấn đề này vẫn chỉ được trình bày một cách sơ lược trong một số giáo trình cũng như
trong những tác phẩm viết về lịch sử thế giới.
Lịch sử các cuộc phát kiến địa lý đã được đề cập đến trong nhiều cuốn giáo trình
Lịch sử thế giới, như: Lương Ninh, Đặng Đức An (1976), Lịch sử thế giới trung đại
(quyển 2, tập 1, châu Âu thời hậu kỳ trung đại), NXB Giáo dục, Hà Nội; Nguyễn Gia
Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hãng, Trần Văn Là (2003), Lịch sử thế giới trung
đại, NXB Giáo dục, Hà Nội;…Các cuốn giáo trình này, trong khi phân tích những
3
nguyên nhân và tiền đề thúc đẩy các quốc gia Tây Âu (trong đó có Bồ Đào Nha) tiến
hành viễn chinh, tìm con đường hàng hải mới sang Ấn Độ, đã nhấn mạnh ưu thế đặc
trưng của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha như vị trí địa lý nằm ven Đại Tây Dương, phát
minh la bàn, hải trình, tàu caravel và những thiết bị cho các chuyến đi biển dài ngày.
Quá trình xác lập quyền lực của Bồ Đào Nha cũng được đề cập khái quát trong
các cuốn sách chuyên khảo về lịch sử Ấn Độ, lịch sử Trung Quốc, như: Nguyễn
Thừa Hỷ, “Ấn Độ qua các triều đại”, NXB Giáo dục; Vũ Dương Ninh (chủ biên,
1995), Lịch sử Ấn Độ, NXB Giáo dục, Hà Nội; Nguyễn Hiến Lê, “Sử Trung Quốc”
(2 tập, 1982)…Điểm chung của các tác phẩm này là sự trình bày mang tính sơ
lược về quá trình xác lập thương điếm của Bồ Đào Nha ven Ấn Độ Dương, vịnh
Bengal và Trung Quốc. Hoạt động giao thương giữa Bồ Đào Nha với Ấn Độ và
Trung Quốc gần như không được nói đến.
Lịch sử truyền giáo của các giáo đoàn Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc cũng
gần như là một mảng trống. Chúng tôi chỉ có thể tìm hiểu các sự kiện liên quan thông
qua những cuốn sách sau: “Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam” (quyển 1 - Các thừa sai
Dòng Tên (1615-1665)), 1959; “Bồ-Đào-Nha, Tây-Ban-Nha, Hoà-Lan giao tiếp với Đại
Việt thế kỷ XVII, XVIII”, tủ sách nghiên cứu Sử Địa của Nguyễn Khắc Ngữ; “Lịch sử
giáo hội công giáo” I, II của Linh mục Bùi Đức Sinh O.P,…Trong nội dung của các tác
phẩm tuy không đề cập đến một cách trực tiếp hoạt động truyền giáo ở Ấn Độ hay
Trung Quốc nhưng đã phác họa những nguyên nhân thúc đẩy quá trình liên kết giữa
“vương quyền” Bồ Đào Nha với Giáo hội Rome để mở rộng quyền lực sang phương
Đông. Đặc biệt, trong cuốn 'Việt Nam giáo sử” của Phan-Phát-Huồn (1958), Nha tuyên
uý Sài Gòn cung cấp nguồn tư liệu đáng tin cậy về quá trình truyền bá Thiên Chúa giáo
của người Bồ Đào Nha tại châu Á, nhất là các sắc chỉ của Giáo hội Rome về việc thành
lập 3 giáo phận Malacca, Goa (Ấn Độ) và Macao (Trung Quốc). Thông qua những sự
kiện quan trọng trong lịch sử truyền giáo của Giáo hội Rome tại phương Đông, tác giả
cũng trình bày một số hoạt động của các giáo sĩ dòng Dominicains (Đa Minh) ở Trung
Quốc. Trong Luận văn Thạc sĩ của Phạm Văn Thắng (2001) tại Đại học Sư phạm Huế
về “Quá trình Thiên Chúa giáo du nhập vào Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam thời cận
đại”, tác giả cũng trình bày hoạt động của giáo sĩ Matteo Ricci (Dòng Tên) ở Trung
Quốc nửa sau thế kỉ XVI.
Trên một số tạp chí nghiên cứu chuyên ngành như: Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử,
Nghiên cứu Châu Âu, Nghiên cứu Đông Nam Á, Nghiên cứu Tôn giáo, tạp chí Lịch
sử quân sự …cũng chỉ có những bài viết đề cập đến hoạt động truyền giáo của các
giáo sĩ tại châu Á: Bài “Hương liệu và linh hồn” của Trần Tam Tỉnh đăng trên tạp
4
chí Lịch sử Quân sự đi sâu tìm hiểu mục đích của các chuyến viễn chinh do người
Bồ Đào Nha tổ chức đến châu Á, chỉ ra mối quan hệ giữa mục đích thương mại và
tôn giáo trong các chuyến viễn chinh này; các bài viết của Nguyễn Văn Kiệm như:
“Sự du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam, thực chất. hậu quả và hệ luỵ”
tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 9/1987; “Sự truyền bá đạo Thiên Chúa ra vùng đất ngoại
từ phát triển địa lý đến hết thế kỉ XIX “, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 4/2001…đã phân
tích những tác động và vai trò của công cuộc phát kiến địa lý đối với hoạt động
truyền giáo của Giáo hội Rome từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX, trong đó chú ý đến hoạt
động truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Việt Nam. Trong bài “Sự du nhập đạo Thiên
Chúa vào Việt Nam trong sự đối sánh với Trung Quốc và Nhật Bản “ của Nguyễn
Văn Tận, đăng trên Nghiên cứu Nhật Bản (2.2004) tác giả chủ yếu phân tích những
nét tương đồng và dị biệt trong công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, Trung Quốc và
Nhật Bản.
Như vậy, vấn đề hoạt động thương mại, truyền giáo của Bồ Đào Nha ở Ấn Độ và
Trung Quốc vẫn chưa có một công trình chuyên khảo nào đề cập đến. Những cuốn
sách, những bài báo, những đề tài ở Việt Nam liên quan đến đề tài luận án được chia
làm hai mảng chính:
+ Những nghiên cứu chung về lịch sử Ấn Độ, Trung Quốc còn khá ít ỏi. Trong các
công trình này, phần lớn tác giả chỉ đề cập đến quá tình tiếp xúc giữa Bồ Đào Nha với
Ấn Độ và Trung Quốc một cách sơ lược và khái quát.
+ Vấn đề truyền giáo chỉ có những cuốn sách viết về Thiên Chúa giáo tại Việt
Nam, gần như không có một nguồn tài liệu nào bằng tiếng Việt mà chúng tôi tiếp
cận được trình bày trực tiếp về Thiên Chúa giáo tại Ấn Độ hoặc Trung Hoa.
Do vậy, cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có một công trình nào trình bày toàn
diện và có hệ thống về các nội dung liên quan đến đề tài luận án.
2.2. Thực trạng nghiên cứu vấn đề ở nước ngoài
Nếu như ở Việt Nam số lượng các công trình nghiên cứu về hoạt động thương
mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc còn quá khiêm tốn thì
vấn đề này rất được các nhà nghiên cứu nước ngoài quan tâm.
2.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về quá trình xâm nhập của Bồ Đào Nha vào
châu Á
Đây là vấn đề mang tính khoa học lý thú, thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà
Sử học được thể hiện thông qua số lượng các công trình xuất bản liên quan đến nội
dung này. Tiêu biểu như: B.W.Diffie và G.D.Winius (1977), Foundations of the
Portuguese Empire, 1415-1580, University of Minnesota, Mineapolis; M. D. D.
5
Newitt (1986), The First Portuguese Colonial Empire, University of Exeter Press;
A.R.Disney (2009), A History of Portugal and the Portuguese Empire: From
Beginnings to 1807, volume 2: The Portuguese empire, Cambridge University
Press, London;…Mặc dù phần lớn các công trình trên đều trình bày một cách có hệ
thống về quá trình xác lập quyền lực của Bồ Đào Nha từ các cứ điểm ven biển Tây
Phi đến Ấn Độ - Đông Nam Á - Viễn Đông nhưng cách thức chọn lựa sự kiện và
quan điểm đánh giá lại khác nhau. Cụ thể: Trong tác phẩm Foundations of the
Portuguese Empire, 1415-1580, B.W.Diffie và G.D.Winius (1977) tìm hiểu về mối
quan hệ giữa Đông - Tây trong thời cổ đại, điểm vài nét sơ lược về quá trình hình
thành đất nước Bồ Đào Nha. Trên cơ sở đó, tác giả đi sâu phân tích từng giai đoạn
một trong quá trình xác lập quyền lực của Bồ Đào Nha tại châu Á từ các chuyến viễn
chinh của Cabral đến A.Albuquerque và các tổng trấn sau này. Ở chiều hướng khác,
thông qua tác phẩm “A History of Portugal and the Portuguese Empire: From
Beginnings to 1807”, A.R.Disney đi sâu tìm hiểu quá trình xâm nhập của Bồ Đào
Nha vào Ấn Độ và tập trung phân tích cách thức hình thành, phát triển quyền lực
thương mại của Bồ Đào Nha thông qua việc thiết lập Estado da India.
Tuy nhiên, trình bày một cách toàn diện, ngắn gọn và dễ hiểu nhất về đế quốc Bồ
Đào Nha là tác phẩm “Portuguse Empire in Asia, 1500-1700, A Political and
Economic History” London and New York, được tái bản vào năm 2002. Công trình
này là một trong những tư liệu tham khảo quan trọng của đề tài. Điều khác biệt của
công trình không chỉ dừng lại ở việc phân chia các giai đoạn và trình bày hết sức rõ
nét những vấn đề kinh tế - chính trị của đế chế mà còn phân tích những luận điểm
của cả các học giả châu Á và châu Âu về nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của đế
quốc Bồ Đào Nha. Trên cơ sở trình bày một cách sơ lược quá trình xâm nhập của Bồ
Đào Nha vào các vùng đất khác nhau ở châu Á, tác giả đã đi sâu làm nổi bật những
nguyên nhân đặc trưng khiến cho Bồ Đào Nha phải thực hiện các chuyến viễn chinh
đến châu Á bằng đường biển, đặc biệt là quá trình đấu tranh và thắng thế của chủ
nghĩa trọng thương trong triều đình Bồ Đào Nha. Không những thế, quá trình xâm
nhập của Bồ Đào Nha vào Ấn Độ, Trung Quốc cũng được tác giả chú ý đề cập đến
trên cả hai bình diện thương mại và truyền giáo.
Trong thời gian gần đây, nhiều cuốn sách viết về “thời đại khám phá” đã được dịch và
xuất bản bằng tiếng Việt, tiêu biểu như: Vũ Bội Tuyền (1997), Mười nhà thám hiểm lừng
danh thế giới, NXB Thanh Niên; Trương Quảng Trí (ch.b, 2003), Phong Đảo dịch, 10 nhà
thám hiểm lớn thế giới, NXB Văn hóa Thông tin; Văn Sính Nguyên, Những câu chuyện
về lịch sử phương Tây - phát hiện lục địa mới, NXB Lao động Xã hội, Hà Nội. Các tác giả
- Xem thêm -