Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân (trên c...

Tài liệu Hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân (trên cơ sở các số liệu địa bàn thành phố hồ chí minh)

.PDF
97
140
98

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ---------- HỒ THỊ THANH HƢƠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN (TRÊN CƠ SỞ CÁC SỐ LIỆU ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH) Chuyên ngành:Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Hồ Thị Thanh Hương MỤC LỤC Trang phu ̣ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mu ̣c các chƣ̃ viế t tắ t MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ......................................... 5 1.1 KHÁI NIỆM HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA ......................... 5 1.1.1 Nhiệm vụ quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát điều tra .................................................................................... 6 1.1.2 Mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra trong hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự ................................... 7 1.2. ĐẶC ĐIỂM CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY VÀ ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY ......................................................... 12 1.2.1. Đặc điểm pháp lý các tội phạm về ma túy .......................................... 12 1.2.2. Đặc điểm về điều tra tội phạm về ma túy ........................................... 16 1.3. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG KSĐT TỘI PHẠM VỀ MA TUÝ .... 19 1.3.1. Kiểm sát việc tiếp nhận, đăng ký, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm về ma tuý ................................................................................... 19 1.3.2 Kiểm sát khởi tố vụ án ma tuý ............................................................ 20 1.3.3 Kiểm sát việc khởi tố bị can ................................................................ 21 1.3.4 Kiểm sát việc áp dụng, thay thế, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn .......... 30 1.3.5 Kiểm sát việc áp dụng một số hoạt động điều tra ............................... 37 Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TUÝ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY ................................................... 43 2.1 TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VỀ MA TÚY TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ...................................................................... 43 2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TUÝ ................................................................. 46 2.2.1 Thực trạng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tiếp nhận, đăng ký giải quyết tin báo tố giác tội phạm về ma tuý ............. 46 2.2.2. Kiểm sát khởi tố, không khởi tố vụ án ma túy của cơ quan điều tra ...... 48 2.2.3 Hoạt động kiểm sát phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra các tội phạm về ma tuý .............................. 63 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN MA TÚY ............................ 74 3.1. CƠ SỞ ĐỊNH HƢỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KSĐTCTPMT ..................................................................................... 74 3.1.1. Cơ sở pháp lý ...................................................................................... 74 3.1.2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................... 75 3.2. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY ............................. 75 3.2.1 Các kiến nghị Hoàn thiện pháp luật .................................................... 75 3.2.2. Các giải pháp khác .............................................................................. 80 KẾT LUẬN .................................................................................................... 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 89 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra CTTP Cấu thành tội phạm KSĐT Kiểm sát điều tra KSVTTPL Kiểm sát việc tuân theo pháp luật KTVA, KTBC Khởi tố vụ án, khởi tố bị can QĐKTBC Quyết định khởi tố bị can QĐKTVA Quyết định khởi tố vụ án, TPVMT Tội phạm về ma túy VKS Viện kiểm sát VKSND Viện Kiểm sát nhân dân MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Hoạt động Kiểm sát điều tra (KSĐT) các vụ án hình sự là một trong những công tác thể hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) theo qui định của Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung. Hoạt động KSĐT có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình điều tra trong hành Tố tụng hình sự (TTHS) nhằm bảo đảm cho quá trình chứng minh vụ án do Cơ quan điều tra (CQĐT) thực hiện đƣợc khách quan, toàn diện và đầy đủ. Tại Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định: “Viện kiểm sát (VKS) thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật (KSVTTPL) trong TTHS, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”. Khẳng định tầm quan trọng của hoạt động KSĐT nói chung và các tội phạm về ma túy (TPVMT) nói riêng, chỉ thị 53/CT ngày 21.3.2000 của Bộ chính trị đã xác định rõ: “Để xảy ra sai sót ở địa phương nào trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố, xét xử thì trước hết VKSND ở nơi đó phải chịu trách nhiệm”. Trong bối cảnh nền kinh tế, xã hội nƣớc ta hiện nay đang đổi mới theo hƣớng mở cửa, hội nhập, trƣớc những yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, hoạt động KSĐT các vụ án hình sự, nhất là các TPVMT tại TP.Hồ Chí Minh chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm, luôn rơi vào tình trạng quá tải, hiệu quả hoạt động không cao, còn vấp nhiều sai sót dẫn đến việc truy tố, xét xử các TPVMT gặp nhiều khó khăn, đôi khi còn dẫn đến sai lầm, làm oan ngƣời vô tội, bỏ lọt tội phạm. Việc nghiên cứu tìm hiểu về hoạt động KSĐT các vụ án hình sự hay các TPVMT cũng nhƣ các công tác kiểm sát khác để có thể xác 1 định rõ thực trạng yếu kém, tìm ra và thực hiện đƣợc những giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng hiệu quả hoạt động KSĐT góp phần làm tốt chức năng nhiệm vụ mà pháp luật đã trao cho VKSND, đƣợc xác định là yêu cầu mang tính cấp bách của công cuộc cải cách tƣ pháp theo đƣờng lối đổi mới của Đảng. Đó là lý do cơ bản làm cơ sở cho tác giả chọn đề tài: “Hoạt động kiểm sát điều tra các các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (trên cơ sở các số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh)” làm luận văn tốt nghiệp. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Ở nƣớc ta hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu ở bậc thạc sỹ về các đề tài liên quan đến tổ chức, hoạt động của VKSND trong TTHS nhƣ: Quyền công tố của VKSND; Địa vị pháp lý của VKSND trong TTHS; Quan hệ giữa CQĐT và VKSND trong giai đoạn khởi tố, điều tra; chức năng của VKSND trong giai đoạn xét xử của VKSND … và một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành nhƣ: Tạp chí kiểm sát; Tạp chí pháp luật; Tạp chí Toà án của một số tác giả. Đối với hoạt động KSĐT án hình sự: có giáo trình công tác KSĐT của trƣờng Cao đẳng kiểm sát Hà nội và một số nghiên cứu nhỏ đƣợc trình bày ở một số hội thảo khoa học về công tác kiểm sát, nhƣng đều dừng lại ở mức độ khái quát chung, thiếu sự đúc kết, đánh giá bằng kinh nghiệm thực tiễn. Ở bậc thạc sỹ luận văn cao học: “Công tác kiểm sát điều tra án trị an tại thành phố Hồ Chí Minh từ 1996 - 2000 - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.” của thạc sĩ Đoàn Tạ Cửu Long. Luận văn cao học: “Khởi tố bị can và hoạt động kiểm sát việc khởi tố bị can – Thực trạng và một số kiến nghị” của Thạc sĩ Phạm Văn Đức. Đây là hai công trình nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động KSĐT án hình sự. Đối với hoạt động KSĐT các vụ án hình sự, chƣa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, đặc biệt ở bậc cao học. Đề tài: “Hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cụ thể là các tội phạm về ma tuý tại thành phố Hồ Chí Minh.” là 2 một nghiên cứu chuyên sâu ở bậc cao học về một công tác kiểm sát cụ thể trong bối cảnh kinh tế xã hội của TP. Hồ Chí Minh thời gian qua. 3. MỤC ĐÍCH Nghiên cứu hoạt động KSĐT các các vụ án hình sự nói chung và các TPVMT nói riêng một cách có hệ thống, dƣới góc độ một quan hệ xã hội, quan hệ pháp luật, để xác định rõ cơ sở pháp lý cùng với thực trạng hiện nay của hoạt động kiểm sát này. Trên cơ sở đó, tìm ra giải pháp khắc phục nhƣợc điểm, phát huy ƣu điểm để góp phần nâng cao chất lƣợng hiệu quả cho công tác KSĐT, tăng cƣờng năng lực hoạt động hiệu quả cho VKS trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN Luận văn nghiên cứu về hoạt động KSĐT các vụ án hình sự với giới hạn: hoạt động kiểm sát của VKSND đối với hoạt động điều tra vụ án hình sự ma tuý do Cơ quan cảnh sát điều tra thuộc lực lƣợng cảnh sát nhân dân thực hiện. Luận văn lựa chọn địa bàn nghiên cứu là TP. Hồ Chí Minh - một trung tâm kinh tế, văn hóa lớn của cả nƣớc, một điểm nóng của tội phạm, mang nhiều sắc thái tiêu biểu, có thể xem là một trong những đại diện cho cả nƣớc. Việc nghiên cứu về tội phạm, quá trình điều tra, truy tố các TPVMT tại TP. Hồ Chí Minh có thể khái quát hóa ở mức độ nhất định đặc điểm chung của hoạt động KSĐT trên phạm vi toàn quốc. Giới hạn về thời gian nghiên cứu của luận văn là khoảng gần 5 năm. Đây là khoảng thời gian có ý nghĩa cho việc đánh giá thực trạng, đúc kết kinh nghiệm về hoạt động KSĐT loại tội phạm này, đảm bảo tính thời sự, giá trị thực tiễn cho kết quả nghiên cứu của luận văn. 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở: Phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; Các quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật Hình sự, Tố tụng hình sự của Nhà nƣớc về nhiệm vụ đấu 3 tranh phòng, chống tội phạm ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, luận văn còn sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học nhƣ thống kê, phân tích, so sánh nhằm làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận và thực tiễn của đề tài. 6. CƠ CẤU CỦA LUẬN VĂN Luận văn gồm có 3 chƣơng: Chƣơng 1: Những vấn đề chung về hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân và các tội phạm về ma tuý. Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động kiểm sát điều tra các tội phạm về ma tuý tại thành phố Hồ Chí Minh những năm gần đây. Chƣơng 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự (các tội phạm về ma túy). 4 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1 KHÁI NIỆM HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT ĐIỀU TRA Hoạt động điều tra các vụ án hình sự là một trong những công tác thực hiện chức năng của Viện kiểm sát, là giai đoạn mở đầu thực hành quyền công tố nhà nƣớc mà nội dung của nó là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra, các Điều tra viên, các cơ quan đƣợc giao tiến hành một số hoạt động điều tra và những ngƣời có liên quan khác bảo đảm cho việc điều tra tiến hành khách quan, toàn diện và đầy đủ. Phạm vi hoạt động kiểm sát là tội phạm thực tế có xẩy ra không do con ngƣời thực hiện đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự. Thứ hai là dấu hiệu tội phạm đƣợc đánh giá một cách khách quan, chính xác từ các nguồn thông tin về tội phạm nhƣ đơn tố cáo, thông tin đại chúng, tin báo của các cơ quan nhà nƣớc tổ chức xã hội, việc xác minh ra quy định khởi tố và quyết định không khởi tố bị can… Hoạt động kiểm sát điều tra luôn phải đảm bảo hai yêu cầu đó là phải đƣợc tiến hành đúng thủ tục tố tụng, thứ hai là phải thu thập chứng cứ có tội và chứng cứ xác định vô tội làm rõ những tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, làm rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội để có biện pháp đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Hoạt động kiểm sát điều tra là bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can là có căn cứ hợp pháp, phải có căn cứ chứng minh bị can dã thực hiện tội phạm và không có các tình tiết để loại trừ trách nhiệm hình sự đối với bị can. [17] 5 1.1.1 Nhiệm vụ quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát điều tra Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Luật tổ chức VKSND năm 2002, vai trò chủ đạo, quyết định của VKS trong hoạt động thực hành quyền công tố và KSĐT nói chung và cụ thể là kiểm sát việc KTBC đƣợc thể hiện cụ thể hơn và đầy đủ hơn, rõ nét hơn và đầy đủ hơn ở các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan này. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 (Điều 112), khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra (Điều 126), VKS có quyền quyết định việc KTVA, KTBC. Đồng thời khi tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra, theo quy định tại Điều 113 BLTTHS 2003, VKS có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm sát việc khởi tố. Tại khoản 2, Điều 36 Điếu 37 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân nhƣ sau: Kiểm sát việc khởi tố vụ án của các cơ quan điều tra, Hải quan, Bộ Đội Biên phòng, Kiểm lâm, Tòa án (tòa án điều tra trong trƣờng hợp khi xét xử phát hiện ra tội phạm mới) Phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định của cơ quan điều tra Quyết định áp dụng thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can Đề ra yêu cầu điều tra lại hồ sơ vụ án để yêu cầu điều tra bổ sung, yêu cầu cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về tội phạm và việc làm vi phạm pháp luật của Điều tra viên. Kiểm sát việc khởi tố bị can, hỏi cung bị can và các hoạt động điều tra khác của cơ quan điều tra, trực tiếp khởi tố bị can, hỏi cung bị can khi thấy cần thiết. Quyết định truy tố, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án, chuyển vụ án, hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra 6 Yêu cầu thủ trƣởng cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra Theo điều luật thì ta thấy Hoạt đông kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân có sáu nhiệm vụ rất quan trọng đòi hỏi các Kiểm sát viên, chuyên viên phải có kỷ năng nghiên cứu các vụ án đảm bảo không làm oan ngƣời vô tội và bỏ lọt tội phạm. Đồng thời, để bảo đảm việc giải quyết vụ án đƣợc khách quan, chính xác, bảo đảm sự vô tƣ của những ngƣời tiến hành tố tụng trong giai đoạn KTVA, KTBC, khi phát hiện ĐTV đƣợc phân công giải quyết vụ án hình sự thuộc trƣờng hợp phải thay đổi (Điều 43 và 44 BLTTHS 2003) thì VKS kịp thời yêu cầu Thủ trƣởng CQĐT thay đổi ĐTV. Trong trƣờng hợp xét thấy hành vi của ĐTV có dấu hiệu tội phạm thì yêu cầu CQĐT có thẩm quyền xem xét để khởi tố về hình sự. 1.1.2 Mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra trong hoạt động kiểm sát điều tra vụ án hình sự * Khái niệm về mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra Trong triết học, phép duy vật biện chứng đã khẳng định các sự vật, hiện tƣợng trong thế giới khách quan không tồn tại biệt lập mà chúng tồn tại trong mối quan hệ tác động qua lại và ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau. Các mối quan hệ này đƣợc hình thành một cách khách quan không phụ thuộc vào ý thức con ngƣời. Mối quan hệ giữa VKS với CQĐT trong giải quyết các vụ án hình sự không nằm ngoài quy luật này. Trong quá trình tiến hành tố tụng đã làm nảy sinh các quan hệ giữa các cơ quan THTT, bao gồm: mối quan hệ trong nội bộ cơ quan THTT, mối quan hệ giữa các cơ quan THTT với những ngƣời tham gia tố tụng và các cơ quan tổ chức có nghĩa vụ tham gia vào việc giải quyết vụ án. Quan hệ phối hợp giữa VKS với CQĐT có đặc điểm chung nhƣng 7 trong mỗi loại tội, mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng. Vì vậy quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan trong việc giải quyết từng loại tội cụ thể, mỗi giai đoạn tố tụng cũng có những nét khác nhau. Vấn đề tăng cƣờng mối quan hệ phối hợp giữa VKSND và CQĐT trong quá trình giải quyết các vụ án, phải đƣợc đặt trong từng vụ án cụ thể mới đem lại hiệu quả. Từ nhận thức trên, khái niệm về mối quan hệ giữa VKS và CQĐT có thể đƣợc hiểu là: Mối quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan theo luật định để hỗ trợ lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng giải quyết các vụ án hình sự nhằm đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. * Cơ sở pháp lý của mối quan hệ Từ khi VKS đƣợc thành lập theo Hiến pháp năm 1959 đã xuất hiện mối quan hệ giữa CQĐT với VKS. Mối quan hệ này đƣợc thể hiện trong Luật tổ chức VKSND năm 1960, 1981 và 2002; Sắc luật số 02/SL-76 ngày 15/3/1976 của Hội đồng chính phủ quy định về việc bắt, giam, khám ngƣời, khám nhà ở…và một số Thông tƣ liên ngành cũng quy định về mối quan hệ này. Văn bản pháp luật đầu tiên quy định riêng về mối quan hệ phối hợp giữa VKS và CQĐT trong các giai đoạn tố tụng để giải quyết vụ án hình sự là Thông tƣ liên tịch số 472/TT-LB ngày 28/06/1963 của Bộ công an, VKSND Tối cao quy định tạm thời một số nguyên tắc về quan hệ giữa VKSND Tối cao và Bộ công an trong công tác điều tra các vụ án hình sự. Ngoài ra còn có rất nhiều văn bản quy định về mối quan hệ phối hợp giữa hai cơ quan này. Gần đây nhất, để hoàn thiện mối quan hệ phối hợp trong giải quyết các vụ án hình sự, ngày 7/9/2005 liên ngành VKSND Tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng đã ban hành thông tƣ liên tịch số 05/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2003. Trong đó có những quy định về việc khởi tố và kiểm sát khởi tố. 8 Thông tƣ này có một số hƣớng dẫn mới có liên quan đến KTBC nhƣ: Trƣờng hợp ra Quyết định thay đổi QĐKTBC (về tội danh) thì phải thay đổi QĐ KTVA; nếu trong quá trình điều tra vụ án mà xác định đƣợc bị can thực hiện hành vi phạm tội này để thực hiện hành vi phạm tội khác thì ra quyết định bổ sung QĐKTBC…[33,Tr. 23,24] * Tính chất của mối quan hệ VKS và CQĐT, các cơ quan khác đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là các cơ quan thuộc hệ thống cơ quan nhà nƣớc khác nhau, độc lập với nhau. Mỗi cơ quan đều có chức năng, nhiệm vụ riêng của mình để thực thi quyền lực nhà nƣớc. Tuy nhiên, trong lĩnh vực hình sự, các cơ quan này đều có chung một nhiệm vụ và mục đích là đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị và bảo đảm an toàn xã hội. Mối quan hệ giữa các cơ quan này trong việc khởi tố vụ án hình sự, KTBC là đều phải có trách nhiệm bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải đƣợc phát hiện, khởi tố điều tra một cách nghiêm minh, kịp thời, không để lọt tội phạm và ngƣời phạm tội, không làm oan ngƣời vô tội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân phải đƣợc tôn trọng. Chính từ mục đích chung này đã gắn kết VKS và CQĐT trong quá trình điều tra. Để giải quyết mối quan hệ trên trong tố tụng hình sự, pháp luật đã quy định cụ thể, rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của từng cơ quan trong từng giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố tội phạm và ngƣời phạm tội. Mối quan hệ đó vừa mang tính quyết định - chấp hành vừa mang tính phối hợp trong hoạt động tố tụng hình sự. - Tính quyết định - chấp hành: Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, nhƣ BLTTHS, Luật tổ chức VKSND, Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự… thì CQĐT có quyền và trách nhiệm khởi tố điều tra tội phạm; VKS có quyền và trách nhiệm thực 9 hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra của CQĐT. Các quy định của pháp luật là có căn cứ, là nguyên tắc để triển khai và thực hiện mối quan hệ giữa VKS và CQĐT. Nếu đem so sánh mối quan hệ do pháp luật TTHS quy định giữa VKS và CQĐT với mối quan hệ giữa VKS và Tòa án thì rõ ràng khác nhau về bản chất. Ở giai đoạn xét xử, tuy Tòa án (hoặc Hội đồng xét xử) là cơ quan có vai trò chỉ đạo việc xét xử, là cơ quan quyết định quá trình xét xử, nhƣng VKS và Toà án lại hoàn toàn độc lập với nhau. Mỗi cơ quan đều tự chịu trách nhiệm về công việc của mình. Tòa án không làm thay hay can thiệp vào công việc của VKS và ngƣợc lại, VKS cũng không can thiệp vào công việc xét xử của Tòa án, mặc dù VKS có quyền và trách nhiệm kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án. Khi Tòa án có vi phạm pháp luật, thì VKS chỉ có quyền kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu khắc phục sửa chữa vi phạm. Trong khi đó, mối quan hệ giữa VKS và CQĐT thì khác hẳn về chất. Tuy CQĐT có quyền KTBC, độc lập điều tra, hoạch định phƣơng hƣớng, đề ra các chiến thuật điều tra cụ thể, CQĐT có quyền ra các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra…, nhƣng VKS có quyền can thiệp trực tiếp vào hoạt động điều tra của CQĐT. Trong trƣờng hợp cần thiết, VKS ra các quyết định tố tụng và yêu cầu CQĐT phải thực hiện. Nhƣng ngƣợc lại, CQĐT không có quyền can thiệp vào hoạt động thực hành quyền công tố và KSĐT của VKS. Các kiến nghị của CQĐT đối với hoạt động của VKS cũng do VKS cấp trên giải quyết, quyết định. Và trong khi chờ quyết định của VKS cấp trên, thì CQĐT vẫn phải chấp hành quyết định, yêu cầu bị kiến nghị đó. CQĐT không thể lấy lý do chờ quyết định của VKS cấp trên mà trì hoãn việc chấp hành các quyết định, yêu cầu của VKS (Điều 114 BLTTHS). Trong quá trình điều tra, CQĐT có quyền ban hành Quyết định Khởi tố vụ án hình sự, QĐKTBC. Nhƣng các quyết định của CQĐT đều nằm dƣới sự 10 kiểm sát chặt chẽ của VKS. Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp, VKS có quyền và trách nhiệm hủy bỏ QĐKTBC của CQĐT nếu không có căn cứ và trái pháp luật.Thay vào đó, VKS có quyền ra QĐKTBC và giao cho CQĐT thực hiện. CQĐT có trách nhiệm thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh yêu cầu về điều tra của VKS. Đồng thời trong một số trƣờng hợp nhất định, những lệnh, quyết định của CQĐT liên quan đến hạn chế các quyền cơ bản của công dân đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật, thì phải có sự phê chuẩn của VKS. Nếu những lệnh, quyết định đó mà không đƣợc VKS phê chuẩn thì không có giá trị thi hành. Pháp luật quy định thẩm quyền phê chuẩn của VKS đối với QĐKTBC của CQĐT không có nghĩa là để VKS “chứng thực” QĐKTBC có giá trị thi hành, mà pháp luật đã chuyển vai trò quyết định, chuyển trách nhiệm từ CQĐT sang VKS để xem xét lại tính có căn cứ và hợp pháp của quyết định do CQĐT ban hành. Từ sự phân tích trên, có thể khẳng định rằng, ở giai đoạn điều tra, mối quan hệ giữa VKS và CQĐT là mối quan hệ tố tụng hình sự mang tính quyết định - chấp hành. Trong đó VKS giữ vai trò rất quan trọng, vai trò chính, có tính quyết định toàn bộ quá trình điều tra và CQĐT có trách nhiệm chấp hành các quyết định, yêu cầu về điều tra của VKS. - Tính phối hợp của mối quan hệ giữa VKS với CQĐT: Về mặt pháp luật, tuy mối quan hệ giữa VKS và CQĐT trong việc KTBC đã đƣợc pháp luật TTHS quy định nhƣ đã nêu ở trên, nhƣng vì VKS và CQĐT thuộc hệ thống cơ quan nhà nƣớc khác nhau, độc lập với nhau, không có sự ràng buộc trong quan hệ hành chính. Pháp luật TTHS cũng không có những quy định và chế tài về chế độ trách nhiệm của từng cơ quan, của ngƣời tiến hành tố tụng, của KSV, của ĐTV một cách cụ thể, rõ ràng để đảm bảo thực hiện mối quan hệ này. Do đó, trong quá trình điều tra, thực hành quyền 11 công tố và kiểm sát việc KTBC của CQĐT, thì khía cạnh phối hợp giữa hai cơ quan là không thể thiếu. Thực tế đã chứng minh, đã biến các quy định của pháp luật về mối quan hệ tố tụng giữa VKS và CQĐT trong hoạt động thực tiễn là hoàn toàn không đơn giản. Vùng khuôn khổ pháp luật nhƣ vậy, nhƣng có nơi thực hiện tốt, có nơi thực hiện chƣa tốt, thậm chí còn tạo nên sự trì trệ cho hoạt động tố tụng của hai cơ quan. Mối quan hệ giữa hai cơ quan có phát triển tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào quá trình tƣơng tác giữa hai bên. Trong đó mỗi bên đều phải tác động vào đối tác của mình theo hƣớng tích cực để nhận đƣợc sự đáp ứng tích cực trở lại, tránh tình trạng “quyền anh, quyền tôi” mà bỏ mặc đối tác hoặc thỏa hiệp vô nguyên tắc. Mỗi bên phải tạo điều kiện cho nhau để hoàn thành tốt nhiệm vụ, trách nhiệm đƣợc giao. Do đó, chất lƣợng và hiệu quả của mối quan hệ tố tụng này phụ thuộc rất nhiều vào trình độ nhận thức, phƣơng pháp công tác, uy tín của tập thể và cá nhân tham gia mối quan hệ đó, thông qua hoạt động cụ thể của thủ trƣởng mỗi cơ quan, của KSV, Điều tra viên và của những ngƣời có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng. Qua phân tích trên có thể khẳng định rằng, mối quan hệ giữa VKS và CQĐT là mối quan hệ vừa mang tính quyết định - chấp hành vừa mang tính phối hợp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Nhƣng trong đó, tính quyết định chấp hành là chủ yếu, cốt lõi.[ 36, tr.46] 1.2. ĐẶC ĐIỂM CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY VÀ ĐIỀU TRA CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY 1.2.1. Đặc điểm pháp lý các tội phạm về ma túy Tội phạm về ma túy là hành vi cố ý xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nƣớc. Cơ sở pháp lý các tội phạm về ma túy đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2000), các tội phạm về ma túy đƣợc qui định tại Chƣơng XVII. Ban đầu có 10 điều luật (từ điều 12 192 đến điều 200) qui định về 10 tội danh khác nhau. Sau khi đƣợc sửa đổi, bổ sung (6/2009) còn 9 điều luật qui định về 9 tội danh (Điều 199 về “Tội sử dụng trái phép chất ma túy” đã đƣợc bãi bỏ). Cụ thể là các tội danh sau: - Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy. (Điều 192); - Tội sản xuất trái phép chất ma túy (điều 193); - Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (điề u 194); - Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy. (điều 195); - Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phƣơng tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (điều 196); - Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. (điều 197); - Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (điều 198); - Tội cƣỡng bức, lôi kéo ngƣời khác sử dụng trái phép chất ma túy. (điều 200); - Tội vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác (điều 201). Các tội phạm về ma túy có các yếu tố cấu thành tội pha ̣m đó là khách thể, khách quan, chủ quan, chủ thể; 1.2.1.1 Khách thể của tội phạm Khách thể chung của các tội phạm về ma túy là chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nƣớc ở tất cả các khâu của quá trình quản lý. Các tội phạm này có đối tƣợng là các chất ma túy và các vật dụng phục vụ sản xuất và sử dụng chất ma túy. * Các chất ma túy là đối tƣợng của các tội phạm về ma túy bao gồm các chất ma túy theo nghĩa hẹp; các chất hƣớng thần; các tiền chất ma túy và 13 hƣớng thần (gọi tắt là các tiền chất ma túy); các cây trồng hoặc nguyên liệu thực vật có chứa chất ma túy. Ờ nƣớc ta, việc xác định các chất ma túy , các chất hƣớng thần và các tiền chất ma túy và hƣớng thần đƣợc dựa trên cơ sở tham khảo các bảng quy định về các chất ma túy và các chấ t hƣớng thần của 3 công ƣớc Liên hợp quốc về kiểm soát ma túy. Chất ma túy (theo nghĩa hẹp) và các chất hƣớng thần là các chất gây nghiện ở dạng tự nhiên hay tổng hợp. Đặc tính nguy hiểm của chất ma túy về chất hƣớng thần thể hiện ở khả năng gây nghiện cho ngƣời sử dụng chất này. Con ngƣời chỉ cần vài lần sử dụng chất ma túy hoặc chất hƣớng thần sẽ có nhu cầu cung cấp thƣờng xuyên và với liều lƣợng ngày càng cao hơn. Khi không đáp ứng đƣợc nhu cầu, họ sẽ lên cơn vật vã, đâu đớn về thể xác… và có thể làm tất cả những gì, kể cả tội ác mà họ cho là cần thiết nhằm giải tỏa cơn nghiện. Sự lệ thuộc ngày cảng lớn vào chất ma túy hoặc sử dụng chất hƣớng thần chính là tác hại gây nghiện của chất ma túy hoặc chất hƣớng thần đối với con ngƣời dùng chất đó. - Các chất ma túy và hƣớng thần thƣờng gặp và là đối tƣợng phổ biến của các tội phạm về ma túy bao gồm: + Thuốc phiện (nhựa thuốc phiện, còn gọi là nhựa đặc của cây anh túc); + Cần sa (phần ngọn mang hoa và quả của cây cần sa mà nhựa chƣa đƣợc chiết ra); + Nhựa cần sa (nhựa đã đƣợc tách ra ở dạng thô hoặc đã đƣợc tinh chế từ cây cần sa) + Lá coca (lá của cây coca – lá chƣa dùng để chiết xuất); + Moocphin (chất chiết từ cây thuốc phiện) + Côcain; + Hêroin; 14 + Các chất hƣớng thần nhƣ amphetamin… - Các tiền chất ma túy và hƣớng thần là các chất dùng để tổng hợp ra các chất ma túy và các chất hƣớng thần. - Cây trồng có chứa chất ma túy là cây thuốc phiện hoặc các cây khác nhƣ cây coca và cây cần sa. - Các nguyên liệu thực vật có chứa chất ma túy đƣợc quy định là đối tƣợng của 1 số tội phạm về ma túy là quả thuốc phiện ở dạng khô và tƣơi. Các vật dụng phục vụ sản xuất và sử dụng chất ma túy là các công cụ, phƣơng tiện dùng vào việc sản xuất và sử dụng chất ma túy. 1.2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm Hành vi khách quan của các tội phạm về ma túy tuy khác nhau về hình thức thể hiện cụ thể, về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội nhƣng giống nhau ở chỗ đều là hành vi vi phạm các qui định của Nhà nƣớc về chế độ quản lí các chất ma túy. Đó có thể là những hành vi thực hiện những điều mà Nhà nƣớc cấm các cá nhân làm (nhƣ hành vi khách quan của các tội quy định từ điều 192 đền điều 200 BLHS) hoặc có thể là những hành vi của những ngƣời có trách nhiệm đƣợc Nhà nƣớc giao đã không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc làm những việc ngoài phạm vi những quy định về quản lý, sử dụng chất ma túy (nhƣ hành vi khách quan của tội đƣợc quy định tạo Điều 201 BLHS). * Hầu hết các tội phạm về ma túy đều đƣợc quy định là những tội có cầu thành hình thức. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm (CTTP) của những tội phạm này. Tội phạm đƣợc coi là hoàn thành từ thời điểm ngƣời phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan. 1.2.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm Đối với đa số các tội phạm về ma túy, lỗi của ngƣời thực hiện là lỗi cố ý trực tiếp (các tội phạm quy định ở các điều từ Điều 192 đến Điều 197 và 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan