Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự...

Tài liệu Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự

.PDF
79
45166
85

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ----------***---------- Hà Hoàng Hiệp Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Chuyên ngành Mã số : Luật : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Ngọc Khánh HÀ NỘI - 2007 MỤC LỤC TRANG BÌA PHỤ ..................................................................................... 1 LỜI CAM ĐOAN....................................................................................... 2 MỤC LỤC .................................................................................................. 2 LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................ 4 CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM .......................................... 8 1.1. Khái niệm về thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự .............. 8 1.2. Vai trò, ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự ..... 11 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam ................................................ 12 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1981 .................................... 13 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1989 .................................... 18 1.2.3. Giai đoạn sau năm 1989 - Những quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 ................................................................................. 21 1.2.3.1. Kháng nghị giám đốc thẩm ................................................. 22 1.2.3.2. Thủ tục giám đốc thẩm ........................................................ 23 1.4. Sơ lƣợc về thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự của pháp luật một số nƣớc ............................................................................. 25 1.4.1. Thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm ................................. 25 1.4.2. Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm ......................................... 27 1.4.3. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm ...................................... 29 1.4.4. Thẩm quyền giám đốc thẩm .................................................... 30 1.4.5. Thủ tục phiên toà giám đốc thẩm ............................................ 32 1.4.6. Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm ............................. 34 CHƢƠNG 2. THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ................... 37 2.1. Thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành 37 2.1.1. Tính chất của giám đốc thẩm và căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm ......................................................................................... 38 2.1.1.1. Tính chất của giám đốc thẩm .............................................. 38 2.1.1.2. Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm...................................... 38 2.1.1.3. Phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm ...................................... 43 2.1.2. Kháng nghị giám đốc thẩm ..................................................... 44 2.1.2.1. Thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm ............................. 44 2.1.2.2. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm................................... 45 2 2.1.3. Thủ tục giám đốc thẩm............................................................ 46 2.1.3.1. Thẩm quyền giám đốc thẩm ................................................ 46 2.1.3.2. Thủ tục phiên Tòa giám đốc thẩm ...................................... 47 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự ..................................................................................... 51 2.2.1. Tình hình thụ lý đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm ....... 51 2.2.2. Công tác giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm . 54 2.2.3. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự tại phiên toà giám đốc thẩm .................................................... 59 2.2.3.1. Những ngƣời tham gia phiên toà giám đốc thẩm ................ 59 2.2.3.2. Thời hạn mở phiên toà giám đốc thẩm ............................... 60 2.2.3.3. Phạm vi giám đốc thẩm và thẩm quyền giám đốc thẩm ..... 61 2.2.3.4. Về việc đƣơng sự cung cấp căn cứ trong giai đoạn giám đốc thẩm .............................................................................. 62 CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM ...................................................................... 63 3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam .................................................................... 63 3.1.1. Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm để phù hợp với chiến lƣợc cải cách tƣ pháp của Đảng và Nhà nƣớc ta ............................. 63 3.1.2. Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm để phù hợp với các nguyên tắc đặc trƣng cơ bản của tố tụng dân sự .................................. 64 3.1.3. Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong Bộ luật tố tụng dân sự để phù hợp với tính chất của giám đốc thẩm .......................... 66 3.1.4. Hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm để nâng cao chất lƣợng hoạt động giám đốc thẩm, bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn .... 66 3.1.5. Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm để đáp ứng yêu cầu của hội nhập ...................................................................... 67 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam ................................................ 69 3.2.1. Tính chất của giám đốc thẩm .................................................. 69 3.2.2. Về kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm .............................. 70 3.2.3. Cơ chế chấp nhận kháng cáo giám đốc thẩm .......................... 72 3.2.4. Về căn cứ kháng cáo, kháng nghị giám đốc thẩm .................. 72 3.2.5. Về thủ tục tại phiên toà giám đốc thẩm .................................. 73 KẾT LUẬN .............................................................................................. 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 84 3 LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, cùng với việc phát triển kinh tế xã hội, công cuộc cải cách tƣ pháp nói chung và việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói riêng đã đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng kể. Thực hiện đƣờng lối đổi mới toàn diện do Đảng lãnh đạo và khởi xƣớng, trong hai mƣơi năm qua, Nhà nƣớc ta đã ban hành nhiều đạo luật quan trọng, đánh dấu sự phát triển vƣợt bậc quá trình pháp điển hoá, hệ thống hoá pháp luật dân sự, bƣớc đầu tạo dựng cơ sở pháp lý cho việc đổi mới đất nƣớc toàn diện. Cùng với việc hoàn thiện các đạo luật về nội dung, Nhà nƣớc ta cũng ban hành nhiều văn bản quy định về thủ tục tố tụng để giải quyết những tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội nhƣ Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994; Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996. Các văn bản pháp luật này đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh, góp phần ổn định các quan hệ xã hội... Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, những văn bản này ngày càng bộc lộ nhiều vấn đề hạn chế, bất cập. Trƣớc tình hình đó, Nhà nƣớc ta đã ban hành Bộ luật tố tụng dân sự vào năm 2004, tạo nền tảng pháp lý cho các hoạt động tƣ pháp dân sự, thể hiện đƣợc sự thống nhất về mặt pháp lý của các hình thức tố tụng gồm tố tụng kinh tế, tố tụng lao động và tố tụng dân sự, thay thế những pháp lệnh không còn phù hợp. Bộ luật cũng thể hiện rõ tinh thần về cải cách tƣ pháp đƣợc ghi nhận trong các văn kiện Đảng mà gần đây nhất là Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tƣ pháp trong thời gian tới, xây dựng đƣợc một trình tự tố tụng công khai, công bằng, kế thừa các quan điểm hiện hành của trong các văn bản pháp luật về tố tụng dân sự đồng thời quy định rõ ràng, nhất quán các nguyên tắc, thủ tục, 4 chức năng và thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tham gia tố tụng... Trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004, thủ tục giám đốc thẩm đƣợc quy định thành một chƣơng (Chƣơng XVIII), thuộc phần thứ 4, gồm 22 Điều, từ Điều 282 đến Điều 303. Trong thời gian qua, thực tiễn áp dụng thủ tục giám đốc thẩm dân sự đã gặp phải không ít những vƣớng mắc, bất cập. Tuy nhiên Bộ luật tố tụng dân sự mới đƣợc ban hành năm 2004 vẫn chƣa giải quyết đƣợc đƣợc triệt để. Mặt khác, tuy thủ tục giám đốc thẩm trong Bộ luật tố tụng dân sự đã đƣợc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện thêm một bƣớc những vẫn còn nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến thủ tục này chƣa đƣợc làm rõ nhƣ: Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, địa vị pháp lý của ngƣời tham gia tố tụng trong thủ tục giám đốc thẩm, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm, phạm vi xét xử giám đốc thẩm, những vấn đề liên quan đến công tác nghiên cứu giải quyết đơn khiếu nại của đƣơng sự đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm... Việc hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự có ý nghĩa rất quan trọng, xét dƣới cả góc độ lý luận và thực tiễn bởi nó không chỉ góp phần xây dựng một hệ thống lý luận về hoạt động tƣ pháp nói chung, những nguyên tắc tổ chức, hoạt động xét xử của Toà án nói riêng mà còn góp phần quan trọng vào việc xây dựng các văn bản hƣớng dẫn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý hiện nay, mô hình lý luận về thủ tục giám đốc thẩm vẫn chƣa đƣợc quan niệm một cách thống nhất. Đã có một số bài viết đề cập đến thủ tục giám đốc thẩm dân sự ở những nội dung khác nhau nhƣng chƣa thực sự đi sâu vào nghiên cứu vấn đề này. Một khi thủ tục giám đốc thẩm dân sự vẫn chƣa đƣợc nhận thức một cách đúng đắn thì hiệu quả điều chỉnh pháp luật cũng khó đạt đƣợc. Chính vì vậy, xác định đúng đắn mô hình lý luận về thủ tục giám đốc thẩm sẽ phần nào 5 giúp việc thực thi, áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự đƣợc hiệu quả hơn. 2. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần hoàn thiện lý luận về thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và tìm ra những khiếm khuyết về mặt lập pháp cũng nhƣ bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự, trên sở đó sẽ có những định hƣớng nhằm hoàn thiện hơn thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự. 3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Với mục đích nghiên cứu trên, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận một số nội dung cơ bản về thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của pháp luật nƣớc ngoài, đánh giá thực trạng và thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự từ năm 2000 đến nay, từ đó đƣa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hơn chất lƣợng của thủ tục này. 4. Nội dung nghiên cứu của đề tài Mặc dù nguồn tài liệu tham khảo về nội dung này còn hạn chế, chƣa có nhiều đề tài, bài viết đi sâu vào nghiên cứu vấn đề này, tuy nhiên nội dung đề tài sẽ cố gắng phân tích một cách sâu sắc nhất, có hệ thống và toàn diện nhất những vấn đề nhƣ: - Nêu và phân tích nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự. - Nêu và phân tích thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự hiện hành và thực tiễn áp dụng, kèm theo một số ví dụ cụ thể và những số liệu thống kê, từ đó làm rõ những vấn đề bất cập cần hoàn thiện. 6 - Phần cuối của đề tài là những vấn đề đặt ra đối với phƣơng hƣớng hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện thủ tục này. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận khoa học chủ nghĩa Mác - Lên Nin về nhà nƣớc và pháp luật, đặc biệt là vấn đề tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nƣớc, dựa trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về cải cách pháp luật và cải cách tƣ pháp để giải quyết các vấn đề đặt ra. Một số phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng nhƣ: Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, so sánh..... 6. Kết cấu của đề tài Đề tài đƣợc kết cấu gồm 03 chƣơng: - Chƣơng 1: Khái quát về thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. - Chƣơng 2: Thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự hiện hành và thực tiễn áp dụng. - Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự và một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện thủ tục này. 7 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm về thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Ở Việt nam cũng nhƣ hầu hết các nƣớc trên thế giới, Toà án đều thực hiện chế độ hai cấp xét xử nhằm đảm bảo việc xét xử của Toà án đƣợc khách quan, chính xác, đúng pháp luật, đảm bảo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đƣợc thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất, hạn chế việc kéo dài thi hành án. Nguyên tắc này đƣợc quy định tại Luật tổ chức Toà án nhân dân 2002 nhƣ sau: “1. Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật. 2. Đối với bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm do pháp luật tố tụng quy định”. Nhƣ vậy, sau khi đã xét xử sơ thẩm mà bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc sau khi xét xử phúc thẩm, bản án, quyết định sẽ đƣơng nhiên có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật sẽ phải đƣợc đƣợc cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và mọi công dân tôn trọng, mọi ngƣời và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Đây là nguyên tắc hiến định đƣợc quy định trong Hiến pháp năm 1992 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2001), đồng thời là một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng dân sự. 8 Tuy nhiên, đối tƣợng hoạt động xét xử của các vụ án dân sự là những quan hệ xã hội đặc biệt phức tạp, đa dạng, vì vậy không ít những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật vẫn có những sai lầm nghiêm trọng. Vấn đề khắc phục, sửa chữa những bản án, quyết định này đƣợc đặt ra nhằm đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa trong công tác xét xử của toà án, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, mặc dù đã có hiệu lực pháp luật nhƣng những bản án, quyết định sai lầm vẫn cần phải đƣợc xem xét lại. Pháp luật của phần lớn các nƣớc trên thế giới đều quy định thủ tục xét lại các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật với các tên gọi khác nhau, nhƣ thủ tục phá án, thủ tục giám đốc thẩm... Tại Việt Nam, thủ tục xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đƣợc tiến hành theo hai loại thủ tục, đó là thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Thủ tục giám đốc thẩm đƣợc quy định khá sớm và luôn đƣợc hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện tổ chức của các cơ quan tƣ pháp nói chung và Toà án nói riêng, phù hợp với trình độ quản lý của Nhà nƣớc và ý thức pháp luật của ngƣời dân, phù hợp với thông lệ quốc tế. Các quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Toà án và các cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền trong việc giải quyết các tranh chấp theo thủ tục giám đốc thẩm, bảo vệ lợi ích của của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự. Thuật ngữ giám đốc thẩm xuất hiện lần đầu tiên trong Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1981, sau đó tiếp tục đƣợc quy định tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989. Theo các quy định này, nếu phát hiện có sai lầm trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực của Toà án thì ngƣời có thẩm quyền là Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh sẽ kháng nghị bản án, quyết định đó. Sau khi có quyết định kháng nghị của ngƣời có thẩm quyền, Toà án giám đốc thẩm sẽ xem xét lại vụ án và đƣợc quyền ra một trong những quyết 9 định nhƣ: Bác kháng nghị, sửa bản án, quyết định bị kháng nghị hoặc huỷ bản án, quyết định bị kháng nghị và giao cho Toà án nhân dân cấp dƣới xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Nhƣ vậy, có thể thấy trong giai đoạn này thì giám đốc thẩm bao gồm cả việc Toà án cấp giám đốc thẩm xét xử lại vụ án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, thể hiện qua việc trực tiếp sửa bản án, quyết định bị kháng nghị. Theo các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự thì Toà án cấp giám đốc thẩm không có quyền sửa bản án, quyết định bị kháng nghị nhƣ quy định tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự trƣớc đây, mà Toà án cấp giám đốc thẩm chỉ có quyền bác kháng nghị, giữ nguyên bản án, quyết định hoặc huỷ bản án, quyết định đó để giao cho Toà án cấp dƣới xét xử lại. Trong giai đoạn hiện nay, giám đốc thẩm chỉ là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực, việc xét lại này hoàn toàn khác với việc xét xử lại vụ án. Bản chất của thủ tục giám đốc thẩm lúc này đã thay đổi, nó không còn là một cấp xét xử thứ ba nhƣ trƣớc đây nữa. Điều này thực sự phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử đƣợc ghi nhận trong Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, tức là một vụ án nói chung chỉ đƣợc xét xử tối đa là hai cấp với ý nghĩa bảo đảm việc xét xử của Toà án đƣợc khách quan, toàn diện, chính xác, đúng pháp luật và các bản án, quyết định đã có hiệu lực phải đƣợc thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất, hạn chế việc trì hoãn, kéo dài, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Đây chính là một bƣớc hoàn thiện căn bản của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự, là sự thay đổi căn bản về bản chất của giám đốc thẩm. Theo Từ điển tiếng Việt, giám đốc thẩm là việc “Toà án có thẩm quyền xét lại các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực của Toà án cấp dưới khi bị kháng nghị trên cơ sở phát hiện có sai lầm trong quá trình điều tra, xét xử vụ án” [23]. Theo theo quy định tại Điều 282 Bộ luật Tố tụng dân sự thì: “Giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật 10 nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”. Nhƣ vậy, có thể hiểu thủ tục giám đốc thẩm là một giai đoạn, một thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự để xem xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trên cơ sở kháng nghị của ngƣời có thẩm quyền khi phát hiện có sự sai lầm, vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án. 1.2. Vai trò, ý nghĩa của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Về phƣơng diện lý luận cũng nhƣ trong quy định của pháp luật thực định, vấn đề giám đốc thẩm có vị trí rất quan trọng trong tố tụng dân sự của nƣớc ta. Thủ tục giám đốc thẩm còn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thực thi pháp luật tố tụng dân sự của ngành Toà án nhân dân. Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định: “Giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”. Thực tiễn áp dụng pháp luật đã chứng minh rằng nếu pháp luật tố tụng dân sự không quy định thủ tục này thì hàng năm sẽ có rất nhiều bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đƣợc cơ quan thi hành án đem ra thi hành mà không có cơ sở pháp lý để sửa sai, điều này đồng nghĩa với việc quyền và lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự không đƣợc pháp luật bảo vệ và pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng bị vi phạm, mặt khác nguyên tắc thống nhất trong xét xử của ngành Toà án nhân dân cũng không có cơ sở để đảm bảo thực hiện [2, tr. 48]. Ngoài ra có thể khẳng định thủ tục giám đốc thẩm chính là cơ chế khắc phục sai lầm nghiêm trọng trong các bản án đã có hiệu lực pháp luật, giúp cho Toà án cấp trên thấy đƣợc những sai lầm của Toà án cấp dƣới trong việc giải quyết những vụ án cụ thể, từ đó sửa chữa những sai lầm của Toà án cấp dƣới, là phƣơng tiện hƣớng dẫn hoạt động xét xử của Toà án cấp trên đối với Toà án cấp dƣới, bảo đảm việc áp dụng đúng và thống nhất các quy định của pháp 11 luật trong hoạt động xét xử, thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đƣơng sự... Vì vậy, cấp giám đốc thẩm không phải là cấp xét xử thứ ba sau sơ thẩm và phúc thẩm. Theo quy định về pháp luật tố tụng của Việt Nam nói chung thì có hai thủ tục thủ tục xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đó là thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm. Tái thẩm là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhƣng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà án, các đƣơng sự không biết đƣợc khi Toà án ra bản án, quyết định. Việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục tái thẩm cũng giúp Toà án khác phục đƣợc những thiếu sót trong những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không phụ thuộc vào thời gian bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và đƣợc thi hành từ bao giờ. Giám đốc thẩm và tái thẩm đều là những thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự và cùng có điểm chung là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực bị kháng nghị. Song điểm khác nhau căn bản giữa giám đốc thẩm và tái thẩm đó là: Giám đốc thẩm dựa trên cơ sở bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị vì có vi phạm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án, còn tái thẩm là dựa trên cơ sở bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị do phát hiện những tình tiết mới, những tình tiết này khi giải quyết vụ án Toà án hoặc đƣơng sự không biết đƣợc. Vì vậy, căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm khác căn cứ kháng nghị tái thẩm. 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam Pháp luật nói chung cũng nhƣ pháp luật tố tụng nói riêng do Nhà nƣớc ban hành, nhƣng nó không chỉ là kết quả đơn thuần của tƣ duy chủ quan, việc 12 ban hành pháp luật còn phải xuất phát từ nhƣ cầu khách quan của xã hội và từ chính thực tiễn công tác xét xử của ngành Tòa án. Hoạt động xét xử của Tòa án là một thiết chế phức tạp đòi hỏi phải có những quy định của pháp luật có tính chất đồng bộ và phải có sự kiểm tra, giám sát thƣớng xuyên để đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng pháp luật. Trong pháp luật tố tụng dân sự, thủ tục giám đốc thẩm có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra và phát hiện những sai lầm trong công tác xét xử, đồng thời sửa chữa những sai lầm đó đói những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Sự hình thành của thủ tục giám đốc thẩm dân sự gắn liền với lịch sử tố tụng dân sự Việt Nam qua các thời kỳ. Với đặc thù lịch sử của nƣớc ta, có thể nghiên cứu sự hình thành của thủ tục giám đốc thẩm qua các giai đoạn sau đây. 1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1981 Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Hiến pháp 1946, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc, trong đó có ngành Tòa án. Chƣơng VI của Hiến pháp 1946 đã quy định tổ chức, hoạt động của các cơ quan tƣ pháp từ Điều 63 đến Điều 69. Tuy nhiên bản Hiến pháp này chỉ mới quy định về nguyên tắc tổ chức và xét xử của các Tòa án bởi trong giai đoạn này, khi hệ thống pháp luật của nƣớc ta còn chịu nhiều ảnh hƣởng của pháp luật chế độ cũ nên không thể ngay lập tức thay đổi đƣợc ý thức pháp luật của nhân dân. Vì vậy ngày 10/10/1945, Nhà nƣớc ta đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành của chế độ cũ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn quốc (trừ khi các luật lệ này chống lại Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa). Mặc dù tạm thời giữ lại những luật lệ cũ, tuy nhiên Sắc lệnh này không đề cập đến việc cho phép áp dụng pháp luật tố tụng, điều này thể hiện rõ nét tƣ tƣởng xây dựng pháp luật tố tụng một cách độc lập của Nhà nƣớc ta. Các văn bản pháp quy về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, Toà án đƣợc ban hành sau đó nhƣ: Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945 về 13 thành lập Toà án quân sự, Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 về tổ chức Toà án và ngạch thẩm phán, Sắc lệnh số 51/SL ngày 14/7/1946 quy định thẩm quyền của các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong Toà án, Sắc lệnh 112/SL ngày 28/6/1946 bổ sung Sắc lệnh số 51/SL, Sắc lệnh 130/SL ngày 19/7/1946 về thể thức thi hành án, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tƣ pháp và luật tố tụng, Sắc lệnh số 159/SL ngày 7/11/1950 quy định vấn đề ly hôn... Đây là một số văn bản đầu tiên của Nhà nƣớc ta, làm nền tảng cho việc xây dựng pháp luật về tố tụng nói chung và pháp luật về tố tụng dân sự nói riêng sau này. Trong các văn bản trên, có nhiều quy phạm xác định cách thức tổ chức Toà án, thẩm quyền của Toà án Sơ cấp, Toà án đệ nhị cấp, Toà Thƣợng thẩm, thủ tục xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, thi hành án... Tuy nhiên, các văn bản thời đó đều không có quy định nào về thủ tục và thẩm quyền xét lại bản án và quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật nhƣng phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật trong việc xét xử vụ án. Trong suốt quá trình tạm thời áp dụng hệ thống luật lệ của chế độ cũ, việc xét xử của ngành Tòa án nhân dân đã góp phần quan trọng duy trì trật tự, trị an và an toàn xã hội, bảo đảm cho các quan hệ xã hội trong đó có các giao lƣu dân sự đƣợc ổn định và phát triển một cách bình thƣờng. Thông qua công tác tổng kết kinh nghiệm để định ra đƣờng lối xét xử nói chung và đƣờng lối giải quyết tranh chấp dân sự nói riêng, công tác xét xử đã bộc lộ nhƣợc điểm là mặc dù qua hai cấp xét xử nhƣng vẫn có những bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật mà vẫn bị phát hiện có sai lầm. Đó là những sai lầm do áp dụng không đúng pháp luật hoặc vi phạm các quy định, nguyên tắc của pháp luật tố tụng dân sự trong các giai đoạn điều tra, xem xét đánh giá chứng cứ khi xét xử. Từ thực tiễn xét xử nói trên, Nhà nƣớc ta đã nhận thấy rằng nếu không có một quy chế thích hợp trong tố tụng để kiểm tra, giám sát và quan trọng hơn là để sửa chữa, khắc phục những sai lầm thì không thể đảm bảo tính thống nhất đối với việc áp dụng pháp luật trong phạm vi cả nƣớc. 14 Do bộ máy tổ chức Tòa án lúc đó đang trong quá tình hoàn thiện nên chƣa có điều kiện để rà soát lại toàn bộ các bản án, quyết định của Tòa án dân sự địa phƣơng đã có hiệu lực pháp luật, việc áp dụng hệ thống pháp luật cũ cũng đã bộc lộ nhiều điểm bất cập. Sau năm 1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Nhà nƣớc đã ban hành một số văn bản chấm dứt việc áp dụng luật lệ cũ ban hành trƣớc năm 1945 nhƣ Thông tƣ 19/VHH ngày 30/6/1955 , Thông tƣ số 2140/TT-VHH/HS ngày 06/12/1955 của Bộ tƣ pháp. Tiếp đó, hệ thống cơ quan tƣ pháp từ Trung ƣơng đến địa phƣơng dần dần đƣợc củng cố, từng bƣớc hoàn thiện, trình độ quản lý Nhà nƣớc, ý thức pháp luật đƣợc nâng cao, Toà án các cấp bắt đầu từng bƣớc thực hiện hoạt động xét xử. Từ thực tiễn xét xử bắt đầu phát sinh những bản án, quyết định sai lầm của Toà án, nhân dân khiếu nại nhiều mà Nhà nƣớc chƣa có quy định nào để xử lý. Trƣớc tình hình đó, Chính phủ đã giao cho Bộ tƣ pháp nghiên cứu và ra Thông tƣ số 312 ngày 12/2/1958 yêu cầu các cấp Toà án phải xem xét giải quyết các khiếu nại, đồng thời có kế hoạch khắc phục sai lầm đối với những bản án đã xét xử, Thông tƣ quy định: “Đối với việc đã xử rồi... nếu thấy sai hoặc đúng không rõ ràng thì tuỳ từng trường hợp có kế hoạch giải quyết thích đáng (báo cáo cấp trên đề nghị kháng cáo hay xin xử lại hoặc đặt vấn đề điều tra, xác minh lại)”. Đến năm 1959, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành một số văn bản nhằm tăng cƣờng hoạt động của Toà án nhân dân nhƣ: Nghị định số 381-TTg ngày 20/10/1959 của Thủ tƣớng Chính phủ quy định nhiệm vụ quyền hạn của Toà án nhân dân tối cao, theo đó: “Toà án nhân dân tối cao có quyền xử lại những vụ án đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện có sai lầm”. Đến cuối năm 1959, Hiến pháp 1959 đã có quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao, Điều 103 quy định nhƣ sau:"Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự và Tòa án đặc biệt". 15 Nhìn chung, giai đoạn trƣớc năm 1960 các văn bản quy định về thủ tục tố tụng còn rất ít. Từ năm 1959, sau khi ban hành Hiến pháp và Luật hôn nhân và gia đình, Nhà nƣớc đã ban hành các Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 và Pháp lệnh quy định về tổ chức của hai cơ quan này. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 đã quy định cụ thể hơn về việc xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, theo đó Toà án nhân dân tối cao - Cơ quan xét xử cao nhất của nước Việt Nam sẽ có thẩm quyền xét lại hoặc giao cho Toà án nhân dân cấp dưới xét lại những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật những phát hiện có sai lầm (Điều 21). Tuy nhiên, về cơ sở lý luận và nếu phân tích nhiệm vụ giám đốc thẩm theo quy định tại Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 thì cần phải có sự phân biệt giữa giám đốc thẩm và giám đốc việc xét xử. Giám đốc xét xử là sự kiểm tra hoạt động của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dƣới nhƣ kiểm tra, phát hiện sai lầm, giải quyết việc khiếu nại, tố cáo của công dân và các cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức xã hội đối với bản án đã có hiệu lực pháp luật. Thông qua công tác giám đốc việc xét xử, Tòa án tối cao đã tổng kết kinh nghiệm, hƣớng dẫn Tòa án các cấp áp dụng những quy định của hệ thống pháp luật, uốn nắn và khắc phục những sai lầm và đề xuất kháng nghị khi có những căn cứ theo quy định của pháp luật [7, tr. 9]. Giám đốc thẩm ở góc độ lý luận và thực tiễn đƣợc coi là một thủ tục đặc biệt để sửa chữa những sai lầm trong các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án địa phƣơng. Tuy nhiên căn cứ để làm phát sinh trình tự giám đốc thẩm dân sự là kháng nghị của ngƣời có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nhƣ vậy, nếu coi giám đốc xét xử là hoạt động có tính kiểm tra, thanh tra không bị lệ thuộc vào việc có hay không có kháng nghị thì thủ tục tục giám đốc thẩm lại phụ thuộc vào việc có kháng nghị hay không có kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. 16 Đến năm 1961, Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức của Toà án nhân dân tối cao và tổ chức của các Toà án nhân dân địa phƣơng đã quy định: Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ: “Xét và báo cáo lên Toà án nhân dân tối cao những vụ án do Toà án mình hoặc Toà án cấp dưới đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng phát hiện có sai lầm”. Tƣơng tự, Chánh án Toà án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ƣơng hoặc đơn vị hành chính tƣơng đƣơng và Chánh án Toà án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tƣơng đƣơng có nhiệm vụ: “Xét và báo cáo lên Toà án nhân dân cấp trên hoặc đơn vị hành chính tương đương những vụ án do Toà án mình đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng phát hiện thấy có sai lầm”. Căn cứ vào việc xét và báo cáo của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, các Chánh án Toà án nhân dân theo quy định này, các Toà án sẽ có thẩm quyền xử lại vụ án nhƣ sau: Toà dân sự của Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền: “Xử lại những vụ án do Toà mình hoặc Toà phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giao cho xử lại”. Toà án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ƣơng hoặc đơn vị hành chính tƣơng đƣơng có thẩm quyền: “Xử lại những vụ án do Toà án mình hoặc Toà án cấp dưới đã xử mà bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nhưng Toà án nhân dân tối cao giao cho xử lại”. Từ năm 1961 đến năm 1976, Nhà nƣớc ta còn ban hành một số văn bản về thẩm quyền của Toà án và về tố tụng dân sự, nhƣ: Thông tƣ số 2421/TC ngày 2/12/1961 của Toà án nhân tối cao về việc thực hiện chế định Hội thẩm nhân dân, Thông tƣ số 02/TC ngày 20/02/1966 của Toà án nhân dân tối cao hƣớng dẫn về thực hiện thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện trong tình hình mới, Thông tƣ số 39/NCLP ngày 21/01/1972 của Toà án nhân dân 17 tối cao hƣớng dẫn việc thụ lý, di lý, xếp và tạm xếp những việc kiện hôn nhân và gia đình và tranh chấp về dân sự, Thông tƣ số 06/TATC ngày 25/02/1974 của Toà án nhân dân tối cao hƣớng dẫn về công tác điều tra trong tố tụng dân sự, Thông tƣ số 25/TATC ngày 30/11/1974 của Toà án nhân dân tối cao hƣớng dẫn việc hoà giải trong tố tụng dân sự, Bản hƣớng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo Thông tƣ số 96/NCLP ngày 08/02/1977 của Toà án nhân dân tối cao, Thông tƣ số 40-TATC ngày 01/6/1976 của Toà án nhân dân tối cao hƣớng dẫn chế độ án phí, lệ phí và cấp phí tại Toà án nhân dân. Có thể thấy giai đoạn này khái niệm về “thủ tục giám đốc thẩm” chƣa chính thức xuất hiện mặc dù quy định tại các văn bản nêu trên về việc xét xử lại những vụ án đã có hiệu lực pháp luật gần giống với tính chất của một hoạt động giám đốc thẩm. Thực chất, đây không phải là thủ tục giám đốc thẩm theo cách hiểu hiện nay, trong giai đoạn này, khi có kháng nghị của Toà án hoặc Viện kiểm sát về một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật thì Toà án sẽ xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm hoặc sơ thẩm. Tuy nhiên, các văn bản này chính là nền tảng quan trọng cho việc phát triển chế định thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam sau này. 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1989 Sau khi Hiến pháp năm 1980 đƣợc ban hành, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1981 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đƣợc Quốc hội thông qua đánh dấu sự phát triển mới về tổ chức và thẩm quyền của Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Khái niệm về thủ tục giám đốc thẩm đƣợc chính thức xuất hiện trong hai đạo luật này. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1981 quy định về giám đốc thẩm nhƣ sau: 18 Đối tƣợng xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm là: “Những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật được xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, nếu thấy có vi phạm pháp luật...”. Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền: “Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương”. Chánh án Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền: “Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân các cấp”. Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền: “Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà án nhân dân địa phương”. Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao:”Là tổ chức xét xử cao nhất theo thủ tục giám đốc thẩm với nhiệm vụ giám đốc thẩm những quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao”. Điều 13 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định khi thực hiện công tác xét xử, các viện kiểm sát nhân dân có quyền: “Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp dưới, khi thấy có vi phạm pháp luật... Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân các cấp theo thủ tục giám đốc thẩm khi thấy có vi phạm pháp luật...”. Nhƣ vậy, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân đã xác định rõ thủ tục xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhƣng có vi phạm pháp luật là thủ tục giám đốc thẩm, đồng thời quy định cụ thể về thẩm quyền kháng nghị, xét xử... Về thủ tục giám đốc thẩm hình sự, dân sự, ngày 01/02/1982 Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tƣ pháp đã ban hành Thông tƣ liên bộ số 01/TTLB, nội dung hƣớng dẫn về thủ tục giám đốc thẩm 19 hình sự, dân sự ở Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng và cấp tƣơng đƣơng. Đến năm 1988, Nhà nƣớc ta tiếp tục ban hành Luật sửa đổi bổ sung các Luật tổ chức Toà án, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân với việc sửa đổi và bổ sung khá nhiều quy định về thủ tục giám đốc thẩm nhƣ các quy định về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, các quy định về phân định thẩm quyền giám đốc thẩm giữa các Toà chuyên trách của Toà án nhân dân tối cao, giữa Toà án nhân dân tối cao với Toà án nhân dân cấp tỉnh và thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm. Nói chung, các văn bản tố tụng ban hành trong giai đoạn này đã thể hiện sự phân biệt thủ tục giám đốc thẩm với thủ tục tái thẩm, mở rộng quyền kháng nghị cho Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh và Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh. Ngoài ra, thẩm quyền của trong thủ tục giám đốc thẩm tại giai đoạn này đƣợc quy định khá chi tiết, tuy nhiên để thực hiện những thẩm quyền đó cần phải có quy định cụ thể về căn cứ, trình tự, thủ tục, thời hạn giám đốc thẩm. Đây chính là những điều còn thiếu trong những quy định về thủ tục giám đốc thẩm giai đoạn này. Rõ ràng với thiếu sót này có thể thấy thủ tục giám đốc thẩm vẫn đƣợc quy định rất chung chung, không đầy đủ, các quy phạm nằm rải rác, xen kẽ, các thậm chí nhiều văn bản còn quy định chƣa thống nhất dẫn đến việc thực thi rất khó khăn. Mặt khác, hệ thống pháp luật của nƣớc ta giai đoạn này lại chƣa có một văn bản chuyên ngành về tố tụng dân sự, bộ máy tƣ pháp lại đang đƣợc hình thành, củng cố nên các quan hệ pháp luật về tố tụng dân sự không đƣợc điều chỉnh trong một văn bản có phạm vi điều chỉnh riêng. Chính vì những lý do trên mà thủ tục giám đốc thẩm dân sự giai đoạn này chỉ đƣợc quy định là một loại hoạt động thuộc thẩm quyền của Toà án. Tuy nhiên, 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan