ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ GIA THẮNG
HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT
CỦA CHÍNH PHỦ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở NƯỚC TA
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI-NĂM 2006
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG DỰ ÁN
LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1
2
8
1.1. Nhà nước pháp quyền và vai trò của hoạt động xây dựng pháp luật
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay
8
1.1.1. Khái niệm và các nội dung cơ bản được thừa nhận trong Nhà
nước pháp quyền
8
1.1.2. Vai trò của pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật trong
Nhà nước pháp quyền
11
1.2. Hoạt động lập pháp và vai trò của Chính phủ trong hoạt động xây
dựng các dự án luật
1.2.1. Khái niệm văn bản luật
14
14
1.2.2. Hoạt động lập pháp và vai trò của Chính phủ trong hoạt động
xây dựng dự án luật
1.3. Hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ
15
19
1.3.1. Một số nguyên tắc cơ bản của hoạt động xây dựng dự án luật
của Chính phủ
19
1.3.2. Quy định của pháp luật về hoạt động xây dựng dự án luật của
Chính phủ
20
1.4. Hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ ở một số nước trên
thế giới
31
1.4.1. Thái Lan
31
1.4.2. Nhật Bản
1.4.3. Trung Quốc
33
34
1.4.4. Hoa Kỳ
35
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT CỦA
CHÍNH PHỦ
2.1. Những thành tựu trong công tác xây dựng dự án luật của Chính phủ
39
39
2.1.1. Về nội dung
40
2.1.2. Về hình thức
43
2.2. Những hạn chế trong hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ
45
2.2.1. Về việc thể chế hoá chủ trương, đường lối, chính sách đổi
mới của Đảng
45
2.2.2. Về tính toàn diện, thống nhất, đồng bộ và khả thi của hệ
thống pháp luật
46
2.2.3. Về chất lượng soạn thảo các dự án luật
48
2.2.4. Về quy trình xây dựng văn bản luật
58
2.2.5. Về sự tham gia của nhân dân, các nhà khoa học vào quá trình
xây dựng pháp luật
67
2.3. Nguyên nhân hạn chế trong hoạt động xây dựng các dự án luật của
Chính phủ
70
2.3.1. Thiếu lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN, tư duy
pháp lý trong xây dựng luật còn chậm đổi mới
71
2.3.2. Thiếu giai đoạn phân tích chính sách lập pháp trước khi soạn
thảo luật
72
2.3.3. Về tổ chức xây dựng dự án
73
2.3.4. Về đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật
78
2.3.5. Về thời gian và kinh phí
79
Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Các quan điểm, nguyên tắc nâng cao chất lượng xây dựng dự án
81
luật của Chính phủ
81
3.1.1. Thể chế hoá kịp thời, đầy đủ và đúng đắn đường lối và chính
sách của Đảng
81
3.1.2. Chú trọng phát huy nội lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế
81
3.1.3. Bám sát thực tiễn Việt Nam đồng thời tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm quốc tế
82
3.1.4. Hoàn thiện hệ thống pháp luật khẩn trương, nhưng vững chắc
và coi trọng tới chất lượng
82
3.1.5. Dự tính các điều kiện bảo đảm hiệu lực của luật trong cuộc
sống
83
3.2. Các giải pháp chung
83
3.2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của hoạt động xây dựng pháp
luật
83
3.2.2. Bảo đảm và tăng cường tính tập trung, thống nhất trong chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ
84
3.2.3. Dân chủ hoá công tác lập pháp và thực hiện công khai, minh
bạch quy trình soạn thảo các dự án luật
85
3.2.4. Tăng cường trách nhiệm cá nhân của các thành viên Chính
phủ, của tập thể Chính phủ
85
3.2.5. Hoàn thiện quy trình soạn thảo dự án luật thuộc thẩm quyền
của Chính phủ
3.2.6. Hoàn thiện pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật
3.3. Các giải pháp cụ thể
86
86
88
3.3.1. Đổi mới việc lập chương trình xây dựng luật
88
3.3.2. Tuân thủ các quy định pháp luật về quy trình soạn thảo
89
3.3.3. Tăng cường trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, thành viên
Chính phủ và Trưởng BST
94
3.3.4. Nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định của Bộ Tư pháp và
hoạt động thẩm tra của Văn phòng Chính phủ
95
3.3.5. Thu hút sự tham gia của nhân dân, các tổ chức, cá nhân vào
việc xây dựng các dự án luật
97
3.3.6. Kiện toàn Ban Xây dựng pháp luật thuộc Văn phòng Chính
phủ
98
3.3.7. Xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác
xây dựng pháp luật
99
3.3.8. Đổi mới quy trình thông qua các dự án luật tại phiên họp
Chính phủ
100
3.3.9. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Chính phủ với Quốc hội và
UBTVQH trong việc soạn thảo, thẩm định và thông qua các
dự án luật
101
KẾT LUẬN
103
TÀI LIỆU THAM KHẢO
106
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu các chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
- BST:
Ban soạn thảo
- CTXDL,PL:
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
- Luật BHVBQPPL:
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
- NNPQ:
nhà nước pháp quyền
- SKLP:
sáng kiến lập pháp
- UBTVQH:
Uỷ ban thường vụ Quốc hội
- VPCP:
Văn phòng Chính phủ
- XHCN:
xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
NNPQ không chỉ là một học thuyết chính trị-pháp lý trong kho tàng văn
hoá tinh thần của nhân loại mà đã trở thành một thực tại ở các nước phát triển
cao và tồn tại như một quy luật tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Nhà nước
ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân” [2, tr. 14]. Trong NNPQ, yêu cầu về tính
tối cao của pháp luật được đặt lên hàng đầu, nghĩa là mọi cơ quan nhà nước, tổ
chức xã hội và công dân đều phải tuân thủ pháp luật trong mọi hoạt động của
mình. Pháp luật phải được ưu tiên áp dụng trên bất kỳ và tất cả các biện pháp của
chính quyền và được duy trì bằng sự tự nguyện của nhân dân chứ không phải bởi
một sự cưỡng bức bên ngoài. Để đáp ứng được những yêu cầu đó thì pháp luật
trong NNPQ phải thoả mãn các tiêu chí khách quan, hợp lý, công bằng, nhân
đạo, dân chủ…
Trong những năm qua, yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng
pháp luật nói chung và xây dựng các dự án luật nói riêng trong tiến trình xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng và Nhà nước ta rất
quan tâm. Chính phủ với vị trí là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đóng
vai trò quan trọng trong hoạt động xây dựng pháp luật với việc chịu trách nhiệm
soạn thảo trên 90% các dự án luật trình Quốc hội bên cạnh nhiệm vụ thường
xuyên là tổ chức thực thi pháp luật, quản lý điều hành đất nước. Do đó, làm thế
nào để các dự án luật của Chính phủ chuẩn bị vừa bảo đảm được tiến độ trong
CTXDL,PL vừa bảo đảm chất lượng của dự án là vấn đề cấp thiết đặt ra. Chương
trình tổng thể cải cách nền hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 do Thủ
2
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17 tháng 9
năm 2001 khẳng định việc “tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn
bản pháp luật, khắc phục tính cục bộ trong việc chuẩn bị, soạn thảo các văn
bản; đề cao trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình xây dựng thể chế;
phát huy dân chủ, huy động trí tuệ của nhân dân để nâng cao chất lượng văn
bản quy phạm pháp luật” và “nghiên cứu đổi mới phương thức, quy trình xây
dựng pháp luật từ khâu đầu cho đến khâu Chính phủ xem xét, quyết định hoặc
thông qua để trình Quốc hội” [20]. Chính vì vậy, một loạt các vấn đề lý luận
cũng như thực tiễn đặt ra trong việc hoàn thiện hoạt động xây dựng dự án luật
của Chính phủ cần được nghiên cứu, giải quyết, góp phần nâng cao hơn nữa chất
lượng hoạt động lập pháp của Quốc hội và công tác quản lý, điều hành đất nước
của Chính phủ.
2. Tình hình nghiên cứu
Theo dõi các công trình nghiên cứu hoặc tài liệu liên quan đến hoạt động
xây dựng dự án luật của Chính phủ, thấy như sau:
a, Một số đề tài khoa học cấp Bộ có liên quan như sau:
- Văn phòng Chính phủ có đề tài: “Nâng cao chất lượng các dự án luật,
pháp lệnh do Chính phủ chuẩn bị, trình Quốc hội, UBTVQH, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ, mã số 04/HĐ-NCKH, tháng 4/2006. Hà Nội” [51].
- Văn phòng Quốc hội có đề tài "Xây dựng tiêu chí đánh giá chất lượng dự
án luật, pháp lệnh", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội [53].
b, Một số sách tham khảo, luận án, luận văn, báo cáo có liên quan như sau:
- “Sự hạn chế quyền lực nhà nước” của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung [29];
- Báo cáo của Văn phòng Chính phủ về công tác xây dựng, ban hành văn
bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh [50].
c, Mét sè bµi viÕt chuyªn ®Ò ®¨ng t¶i trªn c¸c b¸o vµ t¹p chÝ gÇn ®©y:
3
- “Nhận diện NNPQ” của PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế [39];
- “Nghiên cứu NNPQ ở nước ta: góp phần nhìn lại và suy ngẫm” của
PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế [40];
- “Nâng cao chất lượng xây dựng các dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ
soạn thảo” của TS. Phạm Tuấn Khải [38];
- "Đánh giá chất lượng dự án luật, pháp lệnh hiện nay" của TS. Hoàng
Văn Tú [44];
- “Thực trạng và giải pháp khắc phục vấn đề “luật khung” ở Việt Nam”
của TS. Đinh Dũng Sỹ [42].
Ngoài ra, còn một số bài viết khác liên quan đến hoạt động lập pháp trên
một số tạp chí như: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. Những bài viết này, học viên đã sưu tầm
nghiên cứu, có thống kê và trích dẫn trong luận văn (xin xem phần tài liệu tham
khảo).
Nội dung các bài viết nói trên liên quan đến một hoặc một số mặt về xây
dựng dự án luật của Chính phủ. Luận văn đã có bình luận, đánh giá một số quan
điểm của các tác giả này, thể hiện sư ủng hộ hoặc không ủng hộ các quan điểm
đó hoặc bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau.
d, Về tài liệu tham khảo nước ngoài
Luận văn sử dụng một số tài liệu, bài viết giới thiệu quy trình lập pháp của
một số quốc gia trên thế giới như:
- “Tài liệu tham khảo về quy trình lập pháp của một số quốc gia trên thế
giới” của Quốc hội [37];
- “Báo cáo kết quả chuyến thăm và làm việc của Đoàn đại biểu Quốc hội
nước ta tại Vương quốc Thái Lan và Nhật Bản (từ ngày 14/2/2004 đến ngày
2/3/2004)” [36];
4
- “A Guide to the Office of Prime Minister”- The Office of the permanent
Secretary the Prime Minister's Office [54];
-Tạp chí Standardization March 2006 (ASTM), Tiếng Anh [55];
Các tài liệu tham khảo nói trên chủ yếu đề cập đến quy trình xây dựng luật
của của một số nước.
Tóm lại, liên quan đến hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam giai đoạn hiện nay có
thể tìm thấy ở một số đề tài khoa học, luận án tiến sỹ, thạc sỹ hoặc các bài viết
tại các tạp chí, báo chuyên ngành. Tuy nhiên, các công trình này hoặc nghiên
cứu ở phạm vi rộng quy trình xây dựng luật, pháp lệnh từ sáng kiến lập pháp cho
đến khi được Quốc hội thông qua, hoặc lại chỉ tập trung nghiên cứu một số khía
cạnh trong hoạt động xây dựng pháp luật. Do đó các vấn đề về hoạt động xây
dựng dự án luật của Chính phủ chưa được nghiên cứu sâu, toàn diện. Như vậy,
đề tài này không trùng lặp với các đề tài nghiên cứu trước đây về quy trình lập
pháp.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu luận văn nhằm mục đích:
- Làm rõ khái niệm NNPQ, pháp luật trong NNQP và vai trò của hoạt
động xây dựng pháp luật trong NNQP, tìm ra những yếu tố ảnh hưởng và những
hạn chế, bất cập trong hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ hiện nay.
- Đưa ra những quan điểm, nguyên tắc, các giải pháp chung cũng như giải
pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng xây dựng dự án luật của Chính phủ đáp
ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu bao gồm các quan hệ xã hội nói chung và các quan
hệ về xây dựng pháp luật trong NNPQ. Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn
5
đề lý luận và thực tiễn về hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ, tham
khảo quy trình lập pháp của một số quốc gia trên thế giới, từ đó có sự so sánh,
tổng hợp để rút ra những đề xuất, kiến nghị đối với hoạt động xây dựng dự án
luật của Chính phủ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các quan điểm của Đảng ta về
xây dưng NNPQ, về cải cách nền hành chính nhà nước, về hoàn thiện hệ thống
pháp luật và hoạt động lập pháp ở nước ta.
Phương pháp so sánh được áp dụng để so sánh quy trình lập pháp của một
số nước trên thế giới với Việt Nam, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trong
quá trình hoàn thiện hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ.
Phương pháp thống kê được sử dụng để tổng hợp các số liệu từ các báo
cáo về hoạt động xây dựng pháp luật của Chính phủ, báo cáo giám sát hoạt động
xây dựng pháp luật của Quốc hội, UBTVQH, là cơ sở để luận văn đưa ra những
nhận định và đề xuất.
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn được thực hiện trong thời điểm chủ trương xây dựng NNPQ là
nhiệm vụ chiến lược đã được thể chế hoá trong Hiến pháp, Chiến lược xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm
2020 vừa được ban hành, đất nước ta đang có những bước chuẩn bị tích cực để
gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi phải nhanh chóng xây
dựng, sửa đổi bổ sung và ban hành một loạt các đạo luật cho tương thích với yêu
cầu của hội nhập kinh tế-quốc tế.
Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo, phục vụ cho hoạt
động nghiên cứu cũng như trong thực tiễn xây dựng pháp luật.
6
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và kết luận, luận văn có
kết cấu gồm ba chương sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về hoạt động xây dựng dự án luật của
Chính phủ trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Chương 2. Thực trạng hoạt động xây dựng dự án luật của Chính phủ .
Chương 3. Một số kiến nghị nâng cao chất lượng hoạt động xây dựng dự
án luật của Chính phủ đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay.
7
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG
DỰ ÁN LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM
1.1. Nhà nước pháp quyền và vai trò của hoạt động xây dựng pháp luật
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay
1.1.1. Khái niệm và các nội dung cơ bản được thừa nhận trong Nhà nước
pháp quyền.
1.1.1.1. Khái niệm
Tổng kết quá trình phát triển lịch sử, nhân loại đã rút ra một phương thức
tổ chức quyền lực công cộng được coi là tối ưu và đáp ứng được các yêu cầu của
dân quyền. Phương thức đó được gọi là NNPQ. Theo đó, NNPQ là một phương
thức tổ chức và vận hành quyền lực công cộng (tồn tại dưới hình thức nhà nước
và pháp luật), dựa trên sự đúc kết những kỹ năng hợp lý và tinh thần dân chủ
trong quản lý xã hội.
Cần phân biệt NNPQ với kiểu nhà nước. Về thực chất, kiểu nhà nước nhấn
mạnh đến bản chất chính trị của quyền lực công cộng trong mối liên hệ chặt chẽ và
biện chứng với giai cấp thống trị và với phương thức sản xuất xã hội. Trong khi đó,
NNPQ là phương thức tổ chức và vận hành quyền lực công cộng theo các nguyên tắc
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; phục tùng tính tối cao của pháp luật; phân công
quyền năng; bảo vệ nhân quyền; dân chủ; công bằng. Đó là phương thức tổ chức nhà
nước và pháp luật sao cho những quyền lực công cộng ấy mang đúng bản chất của
dân, do dân và vì dân. Mặc dù giữa kiểu nhà nước và phương thức tổ chức nhà nước có
mối liên hệ hữu cơ, nhưng chúng vẫn có tính độc lập tương đối, để có thể coi như
hai đối tượng nghiên cứu chuyên biệt.
8
GS.TSKH Đào Trí Úc cho rằng “NNPQ đòi hỏi phải có sự thống nhất
giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức quyền lực
chính trị. Đó là hai yếu tố không thể thiếu được khi nói đến NNQP” [48].
PGS.TS Nguyễn Đăng Dung cho rằng: “NNPQ là một hình thức Nhà nước
được phân tích trong mối tương quan giữa Nhà nước và pháp luật. NNPQ thể
hiện tính dân chủ của nhân loại” [28].
Theo PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế, khái niệm về NNPQ có thể được thể
hiện trên những điểm cơ bản sau: NNPQ từ bản thân sự ra đời và sự hiện diện
trên thực tế đã cho thấy đây là những mô thức tổ chức nhà nước, là phương thức
tổ chức quyền lực nhà nước khoa học, hợp lý, kiểm soát lẫn nhau giữa các loại
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, hoạt động trên cơ sở pháp luật, vai trò
tương xứng với năng lực, có hiệu quả; pháp luật là phương tiện điều chỉnh quan
trọng hàng đầu, pháp luật mang tính pháp lý cao, tính khách quan, nhân đạo,
công bằng, tất cả vì lợi ích của con người [39, tr 16-17].
Các định nghĩa trên đã khai thác bản chất của NNPQ, đề cập tới mối quan
hệ hữu cơ giữa Nhà nước với pháp luật và nhấn mạnh đến nguyên tắc “tôn trọng
tính tối cao của pháp luật về pháp chế”.
Các định nghĩa trên đều giúp cho việc tiếp cận tới học thuyết NNPQ ở
những khía cạnh khác nhau, song chưa bao quát được đầy đủ các đặc điểm cơ
bản của học thuyết này. Tuy nhiên, NNPQ vốn là một vấn đề khó, do vậy khó có
thể có sự lý giải thống nhất hoàn toàn về nó.
Tuy có các định nghĩa, lý giải khác nhau về NNPQ nhưng trên những nét
chính và ở những mức độ nhất định, những yếu tố hợp thành chế độ pháp quyền
được vận dụng tương đối nhất quán. Bởi vì NNPQ chỉ là hình thức tổ chức
quyền lực nhà nước giúp cho việc thực hiện những mục tiêu mang tính bản chất
9
của mỗi chế độ chính trị. NNPQ bản thân nó không phải là bản chất của bất kỳ
một Nhà nước nào.
1.1.1.2. Một số nội dung cơ bản được thừa nhận trong NNPQ
a, Đề cao vai trò của pháp luật
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Các cơ quan, tổ chức và mọi
công dân đều phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật, nếu vi
phạm pháp luật thì đều bị xử lý. Đặc điểm này thể hiện quyền lực của pháp luật
và cũng từ quyền lực của pháp luật mà quyền của con người, quyền của công dân
được bảo đảm thực hiện tốt hơn. “NNQP là nhà nước bị hạn chế quyền lực, mà
phương tiện hạn chế của nhà nước này là các văn bản quy phạm pháp luật, đứng
đầu là bản hiến pháp” [29, tr. 88]. Trong trường hợp này, pháp luật là chuẩn
mực cho hoạt động của các cơ quan, tổ chức và mọi công dân, đồng thời là
chuẩn mực pháp lý cho việc phán xử hành động của các đối tượng này. Vì vậy,
hệ thống pháp luật phải hoàn chỉnh cả về nội dung lẫn hình thức. Trong hệ thống
pháp luật đó, Hiến pháp và các đạo luật của Quốc hội giữ vị trí cao nhất, là công
cụ chủ yếu để điều chỉnh các quan hệ xã hội và quản lý xã hội; cần hạn chế việc
ban hành văn bản dưới luật khi các đạo luật của Quốc hội thực hiện được vai trò
này.
b, Quyền con người, quyền công dân được đề cao và tôn trọng
Ghi nhận và bảo vệ quyền con người, quyền công dân là một nội dung rất
quan trọng của pháp luật trong xã hội hiện nay và cũng là một nội dung không
thể thiếu của thuật ngữ “pháp quyền”. Đặc điểm này làm cho tư tưởng về nhà
nước pháp quyền ngày nay khác với tư tưởng về nhà nước pháp luật trước đây,
đó là: chỉ đề cao vai trò, sức mạnh của pháp luật còn quyền con người bị coi nhẹ.
Thời đại ngày nay, quyền con người, quyền công dân mang đậm tính nhân văn
và nhân đạo, hướng tới vì con người và phục vụ con người.
10
c, Bảo đảm mối quan hệ trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân
- Nhà nước phải có trách nhiệm đối với công dân. Trách nhiệm của nhà
nước đối với công dân ngày càng lớn do quyền của công dân ngày càng được đề
cao và tôn trọng. Tuy nhiên, dù pháp luật đã quy định nhưng không có chủ thể
bảo đảm thực hiện thì các quyền đó cũng chỉ tồn tại trên giấy mà thôi. Do vậy,
nhà nước vừa là chủ thể làm ra pháp luật vừa phải có trách nhiệm bảo đảm cho
pháp luật được thực thi trên thực tế.
- Ngược lại, công dân trong xã hội pháp quyền không chỉ có quyền mà còn
phải có trách nhiệm đối với nhà nước. Trách nhiệm của công dân đối với nhà
nước là để bảo đảm hiệu lực quản lý của nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi để
nhà nước bảo đảm cho quyền của những công dân khác được thực hiện.
d, Tòa án phải độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà trong thực tiễn luôn còn hiện tượng
vi phạm pháp luật, xâm phạm đến vai trò của pháp luật, xâm hại đến quyền lợi
của công dân, nghĩa là ảnh hưởng đến cả hai khía cạnh của “pháp quyền”, làm
cho “pháp quyền” mất đi nội dung, ý nghĩa của nó. Do vậy, tòa án là thiết chế
không thể thiếu để bảo vệ sự nguyên vẹn của “pháp quyền”. Muốn thực hiện
được điều đó thì trong hoạt động xét xử, toà án không được chịu sự tác động của
bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào; đồng thời tòa án chỉ tuân theo những gì
pháp luật đã quy định.
1.1.2. Vai trò của pháp luật và hoạt động xây dựng pháp luật trong nhà nước
pháp quyền
Pháp luật có vị trí, vai trò quan trọng hàng đầu trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội trong NNPQ. Trong hệ thống pháp luật của NNPQ, các đạo luật
phải đóng vai trò chủ đạo, là hình thức chủ yếu của hệ thống pháp luật, các văn
bản dưới luật về nguyên tắc chỉ hướng dẫn thi hành luật, không được quy định
11
thêm về quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân là đối tượng điều chỉnh của đạo
luật. Sự thống trị của các đạo luật mang tính pháp quyền sẽ hạn chế được sự lạm
dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước, bảo đảm quyền cơ bản của công dân,
trật tự chung của xã hội. Trong mối quan hệ giữa pháp luật với Nhà nước trong
NNPQ, quyền lực nhà nước phải được đặt dưới quyền lực pháp luật, pháp luật
đứng trên Nhà nước để điều tiết Nhà nước. Điều này được C.Mác lý giải trong
tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Heghen” là do quyền lập
pháp là quyền thiết lập chế độ nhà nước nên nó cao hơn chế độ nhà nước. Một
nhà nước được hợp lý hoá phải được tổ chức trên cơ sở pháp lý do quyền lập
pháp thiết lập. Hiến pháp và các đạo luật tổ chức nên quyền lực công. Chính luật
Hiến pháp thiết lập nên chế độ nhà nước cho nên nó đứng trên Nhà nước, cao
hơn Nhà nước để ràng buộc quyền lực nhà nước. Một nhà nước không được tổ
chức và vận hành trong khuôn khổ của pháp luật là một nhà nước “đứng ngoài
vòng pháp luật”. Đây chính là những ý tưởng cốt lõi của một Nhà nước pháp
quyền. Trong một chế độ dân chủ, Nhà nước là do nhân dân thành lập ra. Quyền
lực của Nhà nước xuất phát từ nhân dân, do nhân dân trao cho [41, tr 8-14]. Mọi
hành vi của nhà nước đều không thể đi ngược lại lợi ích của những người đã tạo
ra nó, có nghĩa là ý chí của nhân dân phải cao hơn ý chí của nhà nước. Quyền lập
pháp được trao cho Quốc hội là người đại biểu của nhân dân, bản chất của lập
pháp là sự tự quy định của nhân dân nên luật pháp đứng cao hơn nhà nước, cũng
có nghĩa là ý chí của nhân dân đứng cao hơn ý chí của Nhà nước. Luật pháp ràng
buộc Nhà nước cũng có nghĩa là ý chí của nhân dân buộc Nhà nước phải phục
tùng. Tóm lại, chính vì pháp luật của NNPQ được xây dựng trong một chế độ
dân chủ đại diện cho ý chí của nhân dân nên pháp luật đó ràng buộc được Nhà
nước.
12
Theo PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế thì “Nhận diện NNPQ từ phương diện
lập pháp được thể hiện tập trung ở chất lượng, tính khoa học, nhân văn của các
sản phẩm lập pháp-các đạo luật pháp quyền và ở hiệu lực, hiệu quả của hoạt
động giám sát tối cao của Quốc hội” [39, tr. 18]. Để có được hệ thống pháp luật
đồng bộ, toàn diện, phù hợp với các điều kiện kinh tế-xã hội, đáp ứng những yêu
cầu, đòi hỏi của NNPQ thì vai trò của hoạt động xây dựng pháp luật nói chung
và hoạt động lập pháp nói riêng ở nước ta hiện nay có vai trò hết sức quan trọng.
Bởi vậy, "quy trình lập pháp được ví như công nghệ làm luật. Công nghệ cao thì
sản phẩm có chất lượng cao, công nghệ lạc hậu thì sản phẩm kém chất lượng"
[30].
Quy trình xây dựng luật và chất lượng của luật là hai mặt của một vấn đề,
chúng không thể tách rời nhau mà có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại
với nhau. Quy trình xây dựng luật là hình thức của hoạt động xây dựng luật, còn
chất lượng luật là phản ánh trung thực tính khoa học, hợp lý, hiệu quả của quy
trình xây dựng luật.
Hoạt động xây dựng luật là hoạt động phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của
nhiều chủ thể. Nếu hoạt động xây dựng luật không tuân thủ theo quy trình xây
dựng luật thì sẽ dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, thiếu thống nhất và sẽ ảnh hưởng rất
lớn tới chất lượng của các văn bản luật. Tính khoa học, tính pháp lý, tính dân chủ
của quy trình lập pháp không những nâng cao chất lượng của các đạo luật mà
còn là nhân tố bảo đảm cho công tác lập pháp được tiến hành thông suốt, hiệu
quả.
Mỗi giai đoạn trong quy trình xây dựng luật được tiến hành với nội dung,
nhiệm vụ khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại
và ảnh hưởng lẫn nhau nhằm đạt mục đích là ban hành một đạo luật có chất
lượng cả về nội dung và hình thức. Nâng cao hiệu quả của từng giai đoạn trong
13
quy trình xây dựng luật là vấn đề có ý nghĩa quyết định với chất lượng của mỗi
đạo luật. Tuy nhiên, ý nghĩa thực sự của quy trình xây dựng luật nói riêng cũng
như hoạt động xây dựng pháp luật nói chung không dừng lại ở việc cho ra đời
một văn bản luật, mà chính là tác dụng thiết thực của văn bản đó đối với xã hội.
Nói cách khác, chất lượng của luật không chỉ là kết quả mà còn là mục tiêu bao
trùm của quy trình xây dựng luật, là cơ sở đánh giá sự thành công của hoạt động
xây dựng pháp luật và thể hiện rõ trình độ lập pháp ở mỗi quốc gia.
Một quy trình lập pháp khoa học, hiệu quả là quy trình không chỉ giúp các
chủ thể có thể ban hành nhiều đạo luật hơn trong một thời gian hợp lý mà vẫn
đảm bảo chất lượng, thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, phản ánh
được điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội và được thể hiện dưới hình thức thống
nhất của kỹ thuật lập pháp.
1.2. Hoạt động lập pháp và thẩm quyền của Chính phủ trong hoạt động xây
dựng các dự án luật
1.2.1. Khái niệm văn bản luật
Điều 1 Luật BHVBQPPL năm 1996 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002
định nghĩa: "Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có quy tắc xử sự
chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
theo định hướng XHCN".
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: Hiến pháp, luật, nghị
quyết do Quốc hội ban hành; pháp lênh, nghị quyết do UBTVQH ban hành; nghị
quyết, nghị định do Chính phủ ban hành; quyết định, chỉ thị do Thủ tướng Chính
phủ ban hành; quyết định, chỉ thị, thông tư do Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang bộ ban hành; nghị quyết do Hội đồng Thẩm pháp Toà án nhân dân tối cao
ban hành; quyết định, chỉ thị, thông tư do Chánh án Toà án nhân dân tối cao,
14
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành; nghị quyết, thông tư liên
tịch do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc cùng với tổ chức
chính trị-xã hội ban hành; nghị quyết do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện,
cấp xã ban hành; quyết đinh, chỉ thị do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp
xã ban hành.
Văn bản luật là một loại văn bản nằm trong hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật nói trên. Theo quy định của Luật BHVBQPPL và Nghị định
161/2005/NĐ-CP (27/12/2005) quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật BHVBQPPL, văn bản luật có các đặc trưng sau đây:
- Do Quốc hội ban hành dưới hình thức là một đạo Luật;
- Theo trình tự, thủ tục do Luật BHVBQPPL quy định;
- Có chứa các quy tắc xử sự chung;
- Quy tắc xử sự chung được áp dụng nhiều lần đối với mọi đối tượng hoặc
một nhóm đối tượng, có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương;
- Quy tắc xử sự chung đó được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp như
tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, các biện pháp về tổ chức, hành chính, kinh
tế, trong trường hợp cần thiết thì Nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt
buộc thi hành đối với người có hành vi vi phạm.
Ngoài những dấu hiệu không thể thiếu nêu trên, văn bản luật còn khác văn
bản cá biệt ở những dấu hiệu về hình thức như cách ghi ký hiệu trong thể thức
của văn bản, ghi năm ban hành văn bản ở giữa số và ký hiệu văn bản.
1.2.2. Hoạt động lập pháp và vai trò của Chính phủ trong hoạt động xây dựng
dự án luật
Lập pháp, theo cách hiểu thông thường là chức năng xây dựng các Bộ luật,
đạo luật của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam (chúng ta thường gặp cách nói và viết Quốc hội: lập hiến, lập
15
- Xem thêm -