Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hình tượng con người cô đơn trong tiểu thuyết -thiên sứ- của phạm thị hoài...

Tài liệu Hình tượng con người cô đơn trong tiểu thuyết -thiên sứ- của phạm thị hoài

.PDF
36
986
102

Mô tả:

Bài tiểu luận văn Lê Minh Huệ – K54B Ngữ A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn xuôi Việt Nam thời đổi mới là một bộ phận văn học phong phú và đa dạng. Nhắc đến nó, hầu như bạn đọc nghĩ ngay đến Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Chu Lai, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Bình Phương, Bảo Ninh... và rất nhiều tên tuổi khác. PGS.TS Nguyễn Thị Bỡnh đó đánh giá: "Trong lịch sử văn học dân tộc, có lẽ chưa khi nào văn xuôi chiếm địa vị thống trị văn đàn như vậy. Những hiện tượng mới lạ gây dư luận ồn ào và kéo dài, những diễn biến phức tạp và bất ngờ của quá trình tiếp nhận văn học...chủ yếu diễn ra ở văn xuụi".(Nguyễn Thị Bình - Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975). Một trong những vấn đề được văn xuôi Việt Nam thời đổi mới quan tõm là tình trạng cô đơn của con người. Nằm trong mạch cảm hứng khám phá số phận con người mỗi nhà văn có những nét riêng biệt, đào sõu theo một hướng khác nhau khi cùng khai thác chủ đề cô đơn. Cái cô đơn mà Nguyễn Huy Thiệp nói đến chủ yếu là cái cô đơn bản thể luận. Trẻ con cô đơn là bởi không hiểu vì sao chỳng được sinh ra, cuộc đời chúng sẽ như thế nào. Người lớn cô đơn bởi họ đã chọn cho mình một đích sinh tồn mà họ biết rằng con đường đến đó thật đa đoan và họ phải bước đi một mình, mất tất cả tự do khi tới đích. Phan Thị Vàng Anh nói đến cả hai trạng thái tự cô đơn và bị cô đơn trong sáng tác của chị. Họ là những người trẻ tuổi luôn ở trạng thái hẫng hụt, chơi vơi, cô đơn vì không có điểm tựa tinh thần. Họ sống chông chênh, hờ hững. Đối với họ cuộc sống lúc nào cũng toát ra mựi vị đơn điệu, buồn chán, nhạt nhẽo. Cũn cái cô đơn của Phạm Thị Hoài nói đến là một kiểu lựa chọn hiện sinh, theo đó cô đơn là điều kiện của sự sinh tồn. Cái cô đơn gắn liền với ấn tượng về một thế giới khủng hoảng, con người tha hoá, vong bản, mất khả năng giao tiếp. Ở đó khuôn mặt riêng của mỗi người bị xoá nhoà, đó là những con người không có mặt. Phạm Thị Hoài được đánh giá là kết tinh đầy ấn tượng của đổi mới văn học. Ấn tượng về lối viết tỉnh táo, sắc lạnh nhưng thấm đẫm nỗi xót xa về một Bài tiểu luận văn Lê Minh Huệ – K54B Ngữ kiếp người, về thế giới phõn rã, không hoàn nguyên. Ấn tượng về những triết lí vừa có vẻ sõu sắc, vừa có vẻ cực đoan. Về những kết cấu độc đáo, những nhõn vật không giống ai. Về ngôn ngữ vừa sắc lạnh, trần trụi, vừa man mác trữ tình và giàu suy tư. Về một tinh thần cách tõn quyết liệt. Phạm Thị Hoài đã dọn ra "mún ăn tinh thần" có sức hấp dẫn thực sự, khẳng định hành trình đầy bản lĩnh của một nhà văn hiện đại. Hình tượng con người cô đơn trong tiểu thuyết "Thiên sứ" trở thành hình tượng độc đáo về thế giới hiện tại. Qua hình tượng này, tư tưởng nghệ thuật của nhà văn bộc lộ khá tập trung và sắc nét, chủ đề cô đơn qua đó đã trở thành một giá trị nhân văn mới mẻ làm giàu thêm hệ thẩm mĩ quen thuộc của văn học Việt Nam. Chúng tôi nghĩ rằng, dự cảm về sự cô đơn và nhu cầu biểu hiện nó xuất hiện sớm ở thơ sau 1975 với Xuõn Quỳnh, Ý nhi, Chế Lan Viên là những trường hợp tiêu biểu; càng ngày càng đậm lên thành cái nhìn phổ biến của những "cái tôi" trữ tình ráo riết đi tỡm mình giữa sự đụng độ gay gắt của các hệ giá trị với Nguyễn Quang Thiều, Đồng Đức Bốn, Vi Thuỳ Linh... Cũn trong văn xuôi, nó thấp thoáng sau những trăn trở của Nguyễn Minh Chõu về số phận người dõn, về sự huỷ diệt của chiến tranh, sau bi kịch lạc thời của người trí thức mà Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải trình bày; rồi hiện diện thường xuyên như vị khách quen trong sáng tác của Tạ Duy Anh, Đố Hoàng Diệu...sau này. Do khuôn khổ của một chuyên đề nên chúng tôi chọn Phạm Thị Hoài như một đại biểu của văn xuôi thời đại mới trong mạch tư tưởng về con người cô đơn. Đó là những lí do chỳng tôi chọn đề tài: Hình tượng con người cô đơn trong tiểu thuyết "Thiên sứ" của Phạm Thị Hoài như một bước khỏi đầu cho nỗ lực chiếm lĩnh những kinh nghiệm nghệ thuật mới. 2. Lịch sử vấn đề "Thiên sứ" - một tiểu thuyết của Phạm Thị Hoài in lần đầu trên tạp chí "Tác phẩm văn học" số 7, năm 1988 với chưa đầy 80 trang. Tác phẩm có 20 chương, viết theo lối độc thoại bằng lời của một nhõn vật 29 tuổi nhưng mang vóc dáng trẻ con – là nhõn vật Hoài. Cô bé Hoài trình bày những suy nghĩ, đúc kết của mình về thế giới xung quanh cô với đủ loại sự kiện, Bài tiểu luận văn Lê Minh Huệ – K54B Ngữ biến cố của cuộc sống thường nhật trong một thời điểm giao thoa giữa cơ chế bao cấp và cơ chế thi trường, các hệ giá trị văn hoá và đạo đức. Tác giả Phạm Thị Hoài sinh năm 1960 tại Hải Dương trong một gai đình nàh giáo. Từ 1977 đến 1983 học tại Đông Berlin, Đức; từ 1983 đến 1993 làm việc tại Viện sử học và Viện nghiên cứu tôn giáo Việt Nam; từ 1993 đến nay cùng gia đình định cư tại Berlin, Đức. Phạm Thị Hoài thuộc thế hệ nhà văn cầm bút đứng vào cao trào đổi mới của đất nước nói chung, của văn đàn nói riêng có các thuận lợi là "không vướng bận" những thành kiến cũ. Tõm huyết với văn chương của bà được bộc bạch: "Chỳng tôi đến với văn chương vừa có thuận lợi, vừa có khó khăn. Chỳng tôi được thừa hưởng một tài sản tinh thần rất lớn của dõn tộc và thế giới, nhưng cũng hoang mang vì không thể làm cái mà người ta đã làm... Vậy làm mỗi cõy bút phải biết lựa chọn cái mà mình có thể kiểm soát và làm chủ được. Tôi không có cách nào khác để kiểm soát hiện thực ngoài việc thiết lập các mô hình. Tác phẩm của tôi là những mô hình".(Kỷ yếu hội thảo khoa học "Chung quanh một số vấn đề thời sự văn học"). Có thể nói, trong giai đoạn đổi mới của văn xuôi Việt Nam sau 1975, Phạm Thị Hoài nổi lên như một cõy bút có cá tớnh, cả trong tác phẩm và cả trong những lập ngôn táo bạo, tạo ra không ít những tranh cói gay gắt và phức tạp. Với "Thiên sứ", nhà văn cũng gặp không ít những phiên toái, mặc dù như Nguyễn Thanh Sơn nói: "Một trận đòn hội chợ đã không kịp xảy ra". Giá như có "trận đòn" tập thể, công khai, "Thiên sứ" có thể tự hào là một trong những tác phẩm hiếm hoi khuấy động được cái ao văn học nước nàh vốn "rất đỗi bình yên, nhưng đẹp"(Nguyễn Văn Thọ). Theo khảo sát, có 4 bài báo trực tiếp lấy "Thiên sứ" làm đối tượng nghiên cứu chính: "Những đặc điểm của tiểu thuyết Thiên sứ" (Lại Nguyên Ân); "Thiên sứ của Phạm Thị Hoài" (Nguyễn Thanh Sơn); "Phạm Thị Hoài, Thiên sứ" (Thuỵ Khuê); "Đứa trẻ và thành phố trong Thiên sứ của Phạm Thị Hoài"(Đặng Thị Hạnh). Bài tiểu luận văn Lê Minh Huệ – K54B Ngữ Ngoài ra, cũn có một số bài dùng "Thiên sứ" để minh hoạ cho những nhận định về phong cách Phạm Thị Hoài, tiêu biểu là: "Hai tác giả trong một nền văn xuôi đang đổi mới" (Hoàng Ngọc Hiến), "Những bước đi đầu của cõy bút Phạm Thị Hoài" (Văn Giá), "Một vài nhõn xét về quan niệm hiện thực trong văn xuôi nước ta từ sau 1975" (Nguyễn Thị Bình)... Trong cuộc hội thảo "Chung quanh một số vấn đề thời sự văn học" tổ chức tại ĐHSPHN (8/12/1988), Phạm Thị Hoài là một trong nữhng tác giả được dư luận chú ý với những ý kiến đánh giá khích lệ, trong đó nổi bật alf tham luận của 2 nàh nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến và Văn Giá. Anatoli A. Sokolov - một nhà nghiên cứu nước ngoài, trong bài viết về văn hoá và văn học Việt Nam những năm đổi mới đã dẫn Phạm Thị Hoài như một cõy bút tiên phong tự đổi mới mình: "thứ văn xuôi khác thường, mang tớnh xấc xược xét về hình tượng và phong cách của Phạm Thị Hoài gõy ra ở bạn đọc người Việt những dư luận trái ngược nhau: từ sự ca tụng tõng bốc quá đáng đến hoàn toàn không chấp nhận và bác bỏ quyền tồn tại". Nhà nghiên cứu khắng định tớnh mới mẻ của tác phẩm: "Trên thực tế tiểu thuyết Thiên sứ (mà ở nước nào đó là truyện ngắn) là rất khác thường và không đặt vừa được vào truyền thống tự sự của văn xuôi Việt Nam nửa sau thê kỉ XX... khó mà nói một cách xác định rằng thứ văn xuôi của Phạm Thị Hoài là thực nghiệm văn học, là văn học đặc tuyển (Elite) hoặc cái gọi là văn học đi trước... Văn xuôi Phạm Thị Hoài như đã nói ở trên, đặc trưng ở cách chiếm lĩnh văn hoá học đối với thực tại". Hình ảnh cô dơn trong văn xuôi đương đại là đề tài đã được nhiều người đề cập đến, trong đó hình tượng con người cô đơn trong sáng tác của Phạm Thị Hoài cũng được quan tõm đáng kể. Có thể dẫn ra một vài ý kiến như: Tác giả Văn Giá trong "Bước đi ban đầu của cõy bút Phạm Thị Hoài" đã nhận xét: "Thiên sứ" là thế giới nhõn vật của sự cô đơn. Các nhõn vật lao vào hành động, sống quyết liệt để rồi cuối cùng rơi vào tình trạng cô đơn. Về những vấn đề đặt ra trong tác phẩm Phạm Thị Hoài, Lê Thị Hường coi: "Cô đơn là ám ảnh thường xuyên của nhõn vật, trở thành chủ đề nổi bật. Bài tiểu luận văn Lê Minh Huệ – K54B Ngữ Phạm Thị Hoài thường sử dụng môtớp im lặng, ngôn ngữ bất đồng, nhõn vật đắm chỡm trong những suy tư riêng". Trần Thị Mai Nhi cũng cho rằng: "Văn của Phạm Thị Hoài quả thực là một hỗn mang, ở đó chằng chịt kênh, nhiều chiều, nhiều dạng hình: lí trí, tư duy khoa học, bản năng, trực giác, linh cảm, hiện thực, mơ tưởng...", ở đó "hạnh phúc chỉ có cảm giác. Lấy gì bảo hiểm cho cảm giác". Không chỉ giới nghiên cứu phê bình văn học mà có không ít luận văn tốt nghiệp, báo cáo khoa học của sinh viên cũng lựa chọn sáng tác của Phạm Thị Hoài làm đề tài để tập dượt nghiên cứu khoa học. Báo cáo khoa học "Cái cô đơn trong tiểu thuyết Thiên sứ của Phạm Thị Hoài", sinh viên Nguyễn Hải Hậu CLC-K52 viết: "Cuốn tiểu thuyết Thiên sứ của Phạm Thi Hoài gõy cho ta ấn tượng về sự cô đơn, lạc lõng của con người trong xã hội hỗn loạn, xô bồ, chạy theo đồng tiền, uy tín, danh dự, quyền lực và những bậc thang giá trị xã hội...". Đỗ Thị Mĩ Phương CLC-K50 trong bài tập niên luận "Ám ảnh cô đơn trong truyện ngắn của Phạm Thị Hoài" cho rằng: truyện ngắn của Phạm Thị Hoài "ám ảnh cô đơn như một sự phủ định tớnh lạc quan của quan hệ người với người trong xã hội đương thời, đồng thời thể hiện sự thức tỉnh cá nhõn, khát vọng tìm kiếm và vươn tới những gì tốt đẹp hơn". 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hình tượng con người cô đơn trong văn xuôi thời đổi mới, được nhận diện qua "Thiên sứ" của Phạm Thị Hoài. Phạm vi nghiên cứu được xác định trên yêu cầu: sự thể hiện hình tượng con người cô đơn trong sáng tác của Phạm thị Hoài qua "Thiên sứ". 4. Các phương pháp nghiên cứu Chỳng tôi sẽ tiến hành trên cơ sở vận dụng phối hợp chủ yếu các phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp miêu tả - Phương pháp thống kê - Phương pháp so sánh Bài tiểu luận văn Lê Minh Huệ – K54B Ngữ - Phương pháp phõn tích tổng hợp B. PHẦN NỘI DUNG Chương I KHÁI QUÁT VỀ HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI CÔ ĐƠN TRONG VĂN HỌC 1. Khái niệm cô đơn Theo tư điển Tiếng việt: "cô đơn" được hiểu là "chỉ có một mình, không nương tựa được vào đõu". Theo chiết tự Hán, chữ "cô" nghĩa gốc là "mồ côi cha sớm", sau chuyển là "trơ trọi một mình", "không ai giúp đỡ" và cũng có nghĩa là sự "vượt khỏi vị trí vốn có của vật này so với vật khác". Cao hơn hay thấp hơn đều khiến nó trở nên trơ trọi. Chữ "đơn" có nghĩa là "lẻ", "riêng" và chỉ có "một". "Cô đơn" hợp nghĩa chỉ sự lẻ loi, đơn chiếc, cô độc của con người. Từ góc độ triết học "cô đơn" thuộc về vô thức. Tức "cô đơn" tồn tại như bản năng của con người "tập trung những ý hướng, những động cơ, những ham muốn vĩnh viễn và bất biến mà ý nghĩa của chúng được quyết định bởi bản năng cũn ý thức thì không thể biết được". Con người ngay từ khi sinh ra đã mang sẵn trong mình nỗi cô đơn. Tiếng khóc của đứa trẻ sơ sinh chứng tỏ điều đó. Nó là nỗi cô đơn bản thể, cô đơn tiền định. Theo C.Mác "Bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội". Khi sự tổng hoà bị phá vỡ, một quan hệ nào đó bị đứt góy, là có thể xuất hiện trạng thái cô đơn. Về mặt tõm lí, cô đơn là trạng thái con người cảm thấy lẻ loi, hụt hẫng khi bị cắt đứt khỏi sợi dõy liên hệ với cộng đồng. Cô đơn như một trạng thái tõm lí bao gồm các cấp độ: Thứ nhất, nó tồn tại dưới dạng những xúc cảm cô đơn, những rung động rời rạc, riêng lẻ, thoáng qua. Bài tiểu luận Lê Minh Huệ – K54B Ngữ văn Thứ hai, nó tồn tại dưới dạng cảm giác cô đơn. Đõy là một quá trình tõm lí, xuất hiện khi có các sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh tác động trực tiếp vào con người. Thứ ba, nó tồn tại dưới dạng tõm trạng, được hiểu là những biểu hiện tõm lí tồn tại trong khoảng một thời gian tương đối ổn định và trực tiếp chi phối người mang tõm trạng đó về nhiều mặt. Có thể qui về hai cơ chế điển hình của nỗi cô đơn: Tự cô đơn tức là con người lớn lên đã thấy cô đơn mà không hề lí giải vì sao, nó là "sự sai khiến của dòng chảy thần thánh trong từng huyết quản của con người". Nó thuộc về cội nguồn bản thể. Bị cô đơn là tình trạng được xem xét trong mối tương quan với hoàn cảnh, với cộng đồng xã hội xung quanh. Nó không phụ thuộc vào ý thức và ý muốn của con người. Ở đõy "cô đơn" là bị loại ra khỏi cộng đồng do sự chênh lệch. Cá nhõn tự ý thức về mình và tự loại mình ra khỏi cái chuẩn chung, đứng lệch đi, thấp hơn hoặc cao hơn. Từ góc độ khoa học nhõn văn, "cô đơn" là một trạng thái đáng thương của con người, đồng thời cũng là ý thức đặc biệt về giá trị của mỗi cá nhõn. Có thể hiểu "cô đơn" vừa chỉ sự lẻ loi, đơn chiếc tự bản thể, vừa là trạng thái tõm lí của con người cảm thấy lẻ loi, đơn chiếc khi rơi vào hoàn cảnh bị cắt đứt sợi dõy liên hệ với cuộc đời. 2. Hình tượng con người cô đơn trong văn học Việt Nam Hình tượng con người cô đơn trong văn học là sự kết tinh "ý đồ tư tưởng" của nhà văn. Mặc dù có chức năng bộc lộ quan điểm và tư tưởng của người ấy hay không lại phụ thuộc vào tài năng của tác giả. Hình tượng con người cô đơn trong văn học đã đi một quóng đường dài từ Tõy sang Đông, từ cổ đến kim với vô số cách nhận thức và phản ánh khác nhau, mang theo thông điệp của nhà văn về thế giới, về con người, trở thành một giá trị nhõn văn độc đáo. Bài tiểu luận Lê Minh Huệ – K54B Ngữ văn Có thể khẳng định, hình tượng con người cô đơn xuất hiện ngay từ Văn học Việt Nam trung đại. Chịu ảnh hưởng sõu sắc của ý thức hệ phong kiến, văn học trung đại đề cao tớnh trật tự, đề cao chức năng xã hội "văn dĩ tải đạo", "thi dĩ ngôn chí", nhưng những tài năng lớn như Nguyễn Trói, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuõn Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Phạm Văn Thái, Nguyễn Khuyến bao giờ cũng là những cá tớnh mạnh mẽ "vượt khung thời đại". Cá tớnh đã khiến họ đứng ngoài trật tự chung để cuối cùng những lúc riêng tư nhất, họ nhìn thấu sự cô đơn của mình. Người nhập thế như Nguyễn Trói cũng có lúc phải đi ở ẩn. Người khao khát phò vua giúp nước như Nguyễn Du rồi phải khóc thầm "Bất tri tam bách dư viên hậu – Thiên hạ hà nhõn khấp Tố Như?". Người ngông như Nguyễn Công Chứ thì nói phẫn: "Kiếp sau xin chớ làm người – Làm cõy thông dứng giữa đời mà reo". Sự bừng tỉnh của ý thức cá nhõn đầu thế kỉ XX đã làm nên một cuộc cách mạng lớn trong văn học Việt Nam. Xung quanh "cái tôi" cá nhõn, văn học đã khám phá biết bao giá trị mới. Chủ đề về con người cô đơn vốn manh nha từ văn học trung đại lúc này trở thành mối quan tõm lớn hơn, ám ảnh hơn. Nam Cao được coi là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tõm lí, ông đã thành công xuất sắc khi diễn tả những bị kịch cô đơn. Lóo Hạc, Chí Phèo phải chăng đều là nạn nhõn của tình trạng cô đơn, bị bỏ rơi, bị khước từ. Họ là tiếng kêu của nỗi cô độc hay là lời khích lệ hóy dám chấp nhận cô đơn để được là mình? Dù hiểu theo cách nào thì với văn xuôi giai đoạn 30 – 45 , vấn đề cô đơn cũng trở thành một nội dung thẩm mĩ đáng chú ý. Đến giai đoạn 45 – 75, cô đơn hầu như là một chủ đề kiêng kị. Sự nghiệp cách mạng và kháng chiến đòi hỏi văn học đề coa ý thức cộng đồng, khẳng định con người đoàn thể tập thế. Thái độ khắt khe của dư luận với những tác phẩm có õm hưởng buồn như "Màu tớm hoa sim" của Hữu Loan, "Vòng trắng" của Phạm Tiến Duật... giải thích vì sao chủ đề cô đơn không có chỗ trên sõn khấu văn học thời đại. Bài tiểu luận Lê Minh Huệ – K54B Ngữ văn Sau 75, đất nước hoà bình và đi vào quĩ đạo đổi mới, ý thức cá nhõn xuất hiện trở lại. Văn học được giải phóng khỏi chức năng tuyên truyền, cổ vũ để mở rộng khả năng khám phá cuộc sống và con người, để trở về với chớnh nó - một khao học về con người. Những biến động lớn lao, cảm quan bất an trước một thời điểm nhiều xáo trộn, rạn vỡ đã là cơ số cho sự quan tõm đến trạng thái cô đơn và hình tượng con người cô đơn, chứng tỏ văn học đang thực sự quan tõm đến con người - đến đời sống tinh thần con người. Chủ đề cô đơn đã góp phần làm mới diện mạo văn học. Người ta cảm nhận rừ quan niệm về con người và văn chương đã thay đổi nhiều so với văn học ba mươi năm chiến tranh. Ý vị cô đơn tấm đượm dòng thơ mang cảm hứng thế sự và đời tư, phảng phất trong những bài thơ triết lí về bản thể người. Trong văn xuôi, đề tài chiến tranh, đề tài nhìn lại cải cách ruộng đất, đề tài hôn nhõn, gia đình, đô thị, khi hiện thực được phơi mở ở nhiều mặt khuất tối là bao giời cũng thấp thoáng hình ảnh con người cô đơn. Nguyễn Khải với nhiều nhõt vật "lạc thời"; Chu Lai, Bảo Ninh khắc hoạ những nhõn vật bị chấn thương tinh thần bởi chiến tranh, đánh mất mối liên hệ với hiện tại, Tạ Duy Anh... có những trang viết ám ảnh về hành trình cô độc của những cá thể người trong cuộc xô dạt dữ dằn của thời cuộc. Trong đề tài của chúng tôi tập trung khảo sát nỗi cô đơn của những con người bất hoà với môi trường sống khi các giá trị truyền thống bị phá sản, khi các quan hệ trong xã hội bị rời rạc, lỏng lẻo; những con người kiếm tìm hoặc chạy trốn và một số phương thức nghệ thuật biểu hiện hình tượng con người cô đơn trong "Thiên sứ" của Phạm Thị Hoài – ngòi bút tiêu biểu cho những thành công của văn xuôi thời đổi mới và trong thế giới nghệ thuật nổi bật chủ đề cô đơn. Bài tiểu luận văn Lê Minh Huệ – K54B Ngữ Chương II TỪ Ý THỨC ĐỔI MỚI VĂN HỌC ĐẾN QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI CÔ ĐƠN CỦA PHẠM THỊ HOÀI QUA "THIÊN SỨ" 1. Từ ý thức đổi mới văn học Những năm cuối thập niên 80, nhu cầu nội tại của văn học bắt gặp bầu không khí dõn chủ của xã hội tạo thành cuộc chuyển biến mạnh mẽ trên văn đàn. Tên tuổi nhiều nhà văn nối nhau xuất hiện đem lại cho sinh hoạt văn học không khí sôi nổi, hấp dẫn. Đặc biệt là tinh thần dõn chủ, cởi mở trong tiếp nhận đã tác động mạnh mẽ đến những đổi mới của văn học. Phạm Thị Hoài chế giễu cay nghiệt công thức cũ: "Các nhà văn trước thế kỉ XX không sợ lặp lại chính mình, như những đám tang không bao giờ sợ lặp đi, lặp lại cùng một nghi lễ mà mọi người đều biết rừ". Bà đả phản không thương tiếc tớnh bảo thủ trong truyền thống sáng tác và tiếp nhận văn chương ở Việt Nam: "Cái đầu của nàh văn Việt thì hoan nghênh một sự hài hoà kết hợp mà lòng thì nghiêng về truyền thống". Là một nhà văn gai góc, đầy cá tớnh, Phạm Thị Hoài tuyên bố chối từ "bộ đồng phục tinh thần" mà các thế hệ trước đã quen: "Tôi từ chối không đúng vào bất kì thế hệ nào. Tôi từ chối bất kì bộ đòng phục quá chật, hoặc quá rộng nào"(Thiờn sứ). Khi cầm bút, giống như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài đã không chon con đường quen thuộc dễ dói mà trăn trở tỡm lối viết khác, tỡm một "cách ứng xử" của riêng mình. Lúc mới xuất hiện, Phạm Thị Hoài như một "kẻ xa lạ" trong văn học Việt Nam. Hành trình của bà "đơn độc". Nhưng chớnh cái cô đơn đích thực ấy là phép ứng xử "lễ" nhất, văn hoá nhất của Phạm Thị Hoài với tư cách một nhà văn, một tri thức khao khát can dự vào đời sống dõn tộc bằng nghệ thuật ngôn từ. Coi trọng yêu cầu "viết như thế nào" là sự lựa chọn có ý thức của người cầm bút - Phạm Thị Hoài đã đề cập đến cái tôi cô đơn nghệ sĩ trong tư cách Bài tiểu luận văn Lê Minh Huệ – K54B Ngữ người sáng tạo qua "Thiên sứ". Đấy là tinh thần phổ biến của văn chương hiện đại mà các bậc thầy của thế kỉ XX đã chứng minh. 2. Từ cảm quan về tính phi lí, bất ổn trong đời sống hiện đại Văn học trước cái nhìn hiên thực bằng cái nhìn lí tưởng hoá nên hiện thực được trình bày như một tiến trình hợp lí tuyệt đối. Sau 1975, xu hướng dõn chủ hoá xuất hiện định vị lại giá trị cá nhõn. Hiện thực trong văn chương trở thành hiện thực của những trải nghiệm riêng, nó mang tớnh phức tạp đa dạng. Trong hiện thực xã hội, trước tình thế đáng buồn của cuộc sống: cơ chế bất ổn, nhiều bất công, tình trạng văn minh thấp kém, không có điểm tựa tinh thần, con người luôn cảm thấy bất an nên nhiều giá trị mất thiêng, người có ý thức sẽ cô đơn. Đọc Phạm Thị Hoài thấy những cảm giác bất an trước hiện thực hỗn độn, nhiều đổ vỡ, nhiều hoài nghi. Sự "lệch pha" giữa cá nhõn với cộng đồng đẩy con người vào trạng thái hoang mang. Trong "Thiên sứ" sự đói khổ, căn bệnh duy ý chí, những dục vọng thấp kém giết chết tình người, giết chết cái đẹp. Tình nhõn ái, sự thơm thảo, sự tin cậy cũng bị khước từ...một thế giới phủ thảm qui định cung cách ứng xử của con người. Bạo lực, lưu manh, bài bạc, buôn lậu lên ngôi... Xã hội trong "Thiên sứ" là một xã hôi lộn xộn, cái đẹp bị bao võy xõu xé, trôi nổi và bị tha hoá. Chị Hằng, bé Hon là thõn phận cái đẹp bị lạc lõng giữa cuộc đời xô bồ, hỗn loạn, phi nhõn tớnh. "Thiên sứ" là "sự chết yểu của tình yêu trong bối cảnh xã hội vội vã chạy theo đồng tiền, với những nguỵ trang của con người trong cử chỉ, trong ngôn ngữ đến lợm giọng". Nhõn vật của Phạm Thị Hoài phản ánh cảm quan về tớnh phi lí, bất ổn của thực tại, một thực tại giải dối đến khó tin. Sự nổi loạn của nhõn vật Hoài là phản ứng mạnh mẽ trước cái "giả", trước "những cỗ máy rò rỉ", những mô hình người cứng nhắc... Cảm quan về hiện thực phi lí khiến nhà văn chọn những chi tiết phi lí để trình bày tư tưởng của mình về đời sống. Hình ảnh "người không mặt", những "mô hình I", "mô hình II"...không phải để người đọc tin là có thật những con người như thế mà là một sự cảnh báo về lối sống nhạt nhẽo, vô nghĩa, tầm Bài tiểu luận văn Lê Minh Huệ – K54B Ngữ thường. Ẩn đằng sau những con người "không mặt", những mô hình được đánh số là sự phê phán quyết liệt lối ống "giả". Những giá trị thiêng liêng như tình yêu, bạn bè, cuộc sống,... vốn là điểm tựa vững chói để con người tỡm đến cũng vẫn chất chứa bao điều bất trắc. 3. Đến quan niệm về trạng thái cô đơn của con người Có thể thấy, cô đơn là một biểu hiện quan trọng tiểu thuyết về con người nhỏ bé, hữu hạn. Trong "Thiên sứ" con người có thể "được sinh ra" mà cũng có thể "bị sinh ra", có thể vừa sinh ra đã tuyệt vọng "bỏ đi" như "con chim trốn tuyết": "nụ cười và mụi hụn của bé Hon lạc lõng giữa trần gian "u xám, lạnh lùng". Phạm Thị Hoài cắt nghĩa cô đơn là kết quả của tớnh phi lí trong cuộc sống nhõn gian đầy ngẫu nhiên, may rủi. Đó là cái cô đơn của Hoài khi thấy "người ta tranh giành, chửi rủa, bới nó, mạt sát nhau để trở nên sạch sẽ", và nhất là khi khao khát tình yêu nhưng người yêu - một công dõn mẫu mực, bí thư đoàn phường, luôn đúng giờ, luôn lịch sự, lại chưa bao giờ nhận ra "màu mắt Hoài biến ảo", "mười ngón tay mỗi ngón một giọng thì thầm". Cuộc sống quẫn quá khiến cho người mẹ trở nên bẳn gắt, người bố co mình trong mặc cảm kém cỏi, cũn Hoài mói thổn thức: "Tôi lớn lên chưa từng biết mùi vị cỏi hụn của mẹ". Cho đến mói sau này cô gái nhạy cảm ấy vẫn chỉ biết "bát canh nhạt, nước mưa mặn". Chị Hằng có đến 599 ke săn đón, cầu cạnh nhung không một ai trong số họ hiểu chị mong ước điều gì. Trong trường hợp này, con người không muốn nhưng "bị cô đơn" vì rơi vào hoàn cảnh không như ý muốn. Bên cạnh đó, con người trong sáng tác của Phạm Thị Hoài luôn có cảm giác bị tù túng, nó luôn cố vùng vẫy để thoát khỏi những định kiến, những ràng buộc của cuộc đời, những hành trình sắp sẵn, vì chống trả nên đơn độc. Đó là cái cô đơn của sự lựa chọn. Để tồn tại trong xã hôi đầy phi lí, con người phải chấp nhận cô đơn để được là mình, để không chịu ảnh hưởng, chi phối của ai như Hoài, nhà thơ Ph. Các nhõn vật của Phạm Thị Hoài chấp nhận cô đơn, coi cô đơn như một gái trị sống. Như vậy. dù rơi vào trường hợp nào đi nữa thì cô đơn cũng là điểm phổ biến trong cuộc sống nhõn loại. Cô đơn vì nó có ý thức. Bài tiểu luận văn Lê Minh Huệ – K54B Ngữ Chương II NHỮNG DẠNG THỨC CHỦ YẾU CỦA CON NGƯỜI CÔ ĐƠN TRONG "THIÊN SỨ" 1. Những con người bất hoà với môi trường sống 1.1 Khi các giá trị truyền thống bị phá sản 1.1.1 Các giá trị gia đình Gia đình là mái ấm bình yên của con người trên hành trình sống nhọc nhằn vất vả, nhiều vấp ngã, thăng trầm. Nhưng gia đình hiện đại lại có phần khác. Ta bắt gặp trong "Thiên sứ" của Phạm Thị Hoài là một gia đình đã trở nên liên kết lỏng lẻo, mỗi thành viên là một tiểu vũ trụ khép kín. Cô bé Hoài sống trong một gia đình điển hình cho sự lỏng lẻo đó. Từ nhỏ Hoài đã cảm thấy xa lạ với người thõn. Giấc mơ ở tuổi dậy thì về một gia đình hạnh phúc với "Người vợ dịu dàng, chẳng bao giờ hỏi tại sao, người chồng âu yếm chẳng bao giờ phàn nàn" nảy sinh do cô bé sớm phải chững kiến không khí ngột ngạt gia đình. Hoài biết rừ vị "bát canh nhạt", vị "nước mưa mặn", biết quá nhiều trận cói vã của bố mẹ, chỉ "chưa từng biết mùi vị cỏi hụn của mẹ". Gia đỡnh cô không được xõy dựng bằng tình yêu thương, sự õu yếm mà từ những thứ rất giả dối mang tên "uy tín", "danh dự". Hoài thấy người bố giống như một cỗ máy: "Cố máy của bố đơn điệu, hình như càng đơn điệu, càng khó hỏng". Trong gia đỡnh Hoài tất cả người lớn đều là những "cỗ máy bị tuột xích", chẳng ai giống ai, chẳng ai hiểu ai: "Mỗi người một phong độ". Chị Hằng (chị sinh đôi của Hoài) xinh đẹp, thông minh, lấy chồng giàu có, sang trọng. Nhưng đọc những dòng nhật kí chị Hằng viết về chồng mình, người đọc có cảm giác như chị đang viết về một ai đó xa lạ. không kiên quan gì đến chị. Là cái đẹp bị săn đuổi, Hằng không có cảm giác hạnh phúc vì không am hiểu khát khao thầm kín của chị. Chị chỉ có một nơi duy nhất để chia sẻ là đứa em mói mói tuổi mười bốn. Bài tiểu luận Lê Minh Huệ – K54B Ngữ văn Phạm Thị Hoài đã dành những dòng rưng rưng, thương xót, giàu chất thơ nhất để viết về bé Hon – Thiên sứ pha lê, tinh khiết, nồng nàn. Lọt lòng mẹ với nụ cười hài nhi thánh thiện, nụ cười cầu thõn với tất cả, thiến sứ pha lê ấy rơi vào một thế giới chỉ là những gầm ghè, cỏu bẩn. Nụ cười và những cái hôn là thứ "xa xỉ" trong thế giới ấy. Bé Hon ra đi giữa những vô tõm đáng sợ của người cha: "Thụi thì của thiên trả địa". Bé Hon là sự lạc lõng của khát vọng thõn ái, thương yêu trong cái không gian chật hẹp, thiếu vắng tình người. Như "con chim trốn tuyết", Thiên sứ phải ra đi, khép lại hành trình lóng du miên viễn vào thế giới loài người để yêu thương, để cho thơm thảo mà chỉ nhận về sự ghẻ lạnh, tục tằn. Cái chết của bé Hon "nhiều hơn nỗi mất mát", là "sự cảnh tỉnh" về tình trạng xói mũn, nhõn tớnh. Những trang viết về bé Hon toả thứ ánh sáng dịu dàng, đọng lại dư vị xót xa, man mác về thõn phận cô đơn của cái đẹp nguyên sơ. 1.1.2 Các giá trị chốn học đường Cô bé Hoài là một sản phẩm của môi trường nông thôn nghèo nàn. Người đọc biết Hoài chủ động khước từ lối sống bầy đàn. Hoài không tham dự vào chuyển động của đám đông. Hoài đã không có được sự thanh thản, vô tư như bạn bè cùng tuổi ở độ tuổi đến trường. Ngay từ đầu cô bé đã nhận ra sự "khác dấu" của mình trong tập thể. Những cô bé, cậu bé lớp năm đã biết "tẩy chay", "chế nhạo" Hoài. Hoài nhận ra tính man rợ, bầy đàn, định kiến chết người với những gì vượt trội. Hoài phản kháng bằng cách: "ngày càng lầm lì, ngày càng chiếm điểm tuyệt đối trong mọi môn học, ngày càng khao khát cảm thông ". Biến cố đầu tiên trong đời khi trời mưa vào lớp khiến Hoài bị kết án " có lẽ đầu óc em khụng bỡnh thường". Thực ra không phải Hoài không có nhu cầu hoà đồng với tập thể. Hoài đã thừa nhận "ngày càng khao khát cảm thông". Nhưng chọn lối đi đơn độc là tình thế bất đắc dĩ, cô bé sớm nếm mựi cô đơn khi cũn chưa thật ý thức được tính Bài tiểu luận Lê Minh Huệ – K54B Ngữ văn chất bi đát của một xã hội đang khủng hoảng, đổ vỡ. Không phải chỉ ở thế giới người lớn mà nó len lỏi cả vào những tõm hồn "thần tiên". Hoài dũng cảm khước từ trật tự chung "tôi khước từ các loại bậc thang dẫn qua hệ thống các trường đại học và kim thỏp cỏc địa vị xã hội". Đấy là lựa chọn mang tính bi kịch bởi để được là mình, cô bé đành chịu cô đơn! Ta giật mình khi nhận ra rằng hoá ra trong cái xã hội hiện đại, cùng với sự phát triển kinh tế, con người đang có những khủng hoảng khôn lường. Sự khủng hoảng ấy không loại trừ "tuổi học đường". Những băn khoăn, trăn trở của học trò về cách hành xử, đáng buồn thay lại chỉ rơi vào số ít. Thực chất những mặc cảm, thất vọng của chúng là biểu hiện của nhõn cách. Các em cô đơn chính vì các em khao khát được khẳng định mình, khẳng định cái đẹp, khẳng định chân lí. Cô đơn trở thành nỗi ám ảnh với những tõm hồn trong trắng trên bước đi ban đầu của trẻ thơ. 1.2 Các quan hệ xã hội Có lẽ ấn tượng nhất khi đọc tiểu thuyết "Thiên sứ" là nỗi ám ảnh về thế giới của những con người lẻ loi, lạc lõng như cô bé Hoài, bé Hon, chị Hằng, nhà thơ Ph... Tất cả, đều hoặc lựa chọn cho mình lối sống cô đơn, hoặc bị đẩy vào trạng thái cô đơn. Cô bé Hoài – nhõn vật chớnh của "Thiên sứ" - tự chọn một ngoại hình "dị dạng" khác thường, một rào cản trong việc hoà nhập với thế giới bình thường của chị Hằng, anh Hạc, anh Hùng. Nhưng vẻ "dị dạng" của Hoài không phải để nói lên cái bất toàn của con người, mà là sự thực hiện triệt để ý thức khước từ gia nhập vào thế giới người lớn đầy giả dối, vô cảm. Nhón quan hay triết lí hành động của Hoài có thể túm gọn trong hai từ "khước từ" và "phủ nhận". Trong tác phẩm ta gặp không ít tuyên ngôn xử thế của Hoài, chẳng hạn như "tôi khước từ đám đông cuồng tín, phản ứng thuần sinh vật", hay "tôi khước từ quan hệ họ hàng với các nhân vật xa lạ kia, khước từ những sản phẩm confection may hàng loạt". Trong mắt mọi người Hoài là kẻ xa lạ. Bởi lẽ những con người được coi là bình thường ấy không hiểu nỗi khát Bài tiểu luận Lê Minh Huệ – K54B Ngữ văn vọng về tình yêu, về lòng cảm thông, sự õu yếm, hơn hết là sự chõn thành trong tõm hồn Hoài. Hoài vĩnh viễn mang trong mình một vết thương đặt tên là "nỗi buồn", nói đúng hơn là "nỗi cô đơn". Nhưng cái cô đơn của Hoài không gõy xót xa, thương cảm. Bởi lẽ chính Hoài đã chọn cho mình lối sống ấy – "khước từ", thậm chí "phủ nhận" trạng thái sống bầy đàn xung quanh. Hình tượng Hoài - kẻ lạc lõng trong thế giới bày đàn, nơi mỗi người một bản sao, mang những "bộ đồng phục" tinh thần của xã hội, là một cá tớnh, một bản lĩnh, không chịu bào mũn. Chớnh sự cô đơn, lạc điệu đã làm nên ý nghĩa tồn tại của nhõn vật. Qua đõy, Phạm Thị Hoài gửi gắm quan niệm cô đơn là điều kiện tồn tại trong xã hội hiện đại. Cũng như Hoài, chị Hằng là hiện thõn của cái đẹp. Cái đẹp của nhành hoa Cẩm chướng không gai sớm bị vấy đục bởi dục vọng đê tiện của một kẻ giả danh cao thượng. Gã thầy giáo bán đứng V.Huygô đã cướp sự trinh trắng của Hằng để chị không có thể nhìn đời bằng con mắt tin cậy được nữa. "Lễ cầu hôn" là sự săn đuổi cái đẹp. "Đám cưới" là lễ hội ồn ào, hỗn loạn "không phải dành cho chị". Hằng không tỡm thấy "chuyển động của vectơ cùng hướng", bởi chị cần thứ ngôn ngữ tình yêu, õu yếm, cảm thông – thứ ngôn ngữ bản năng trong trái tim con người mà ngôn ngữ của những kẻ cầu hôn thì sặc mựi tiền bạc. "Chị không phản đối, cũng không tham dự tấn trò lố bịch diễn ra quanh mình, như thế ấy là cô dâu khác, một số phận khác chẳng liên quan". Đám cưới kết thúc bằng những giọt nước mắt "ướt đầm mái tóc đuôi sam của bé Hoài" và những tiếng khóc thảng thốt "chị sợ...chị sơ...". Chi Hằng là nỗi bất an của con người trong xã hội vụ lợi, tha hoá đức tin. Tõm trạng lẻ loi, cô đơn của chị Hằng không chỉ được cảm nhận qua cái nhìn của Hoài mà cũn là sự tự cảm nhận, tự ý thức của chớnh nhõn vật. Chi Hằng là nhõn vật bi kịch. Số phận của chị để lại bao dư vị chua xót! Các nhân vật khác của tác phẩm như Quang lùn, anh Hạc, anh Hùng, thầy Hoàng, anh chàng bơm xe, ... đều gợi ra cảm quan về một thế giới tan rã, nơi mỗi người đều vùng vẫy theo một cách khác nhau, vô nghĩa theo những cách Bài tiểu luận Lê Minh Huệ – K54B Ngữ văn khác nhau. Kết thúc "Thiên sứ" là ấn tượng về nỗi cô đơn: "Anh ta ngúng mói, ngúng mói vô vọng rồi bỏ đi, hoà làm một với cô đơn". Phải chăng dấu hết cho tác phẩm, một dấu chấm hư vô là dự báo của nhà văn về kết cục của trạng thái sống vô hồn, vô cảm?. 2. Những con người kiếm tìm hoặc trốn chạy Khác với nhõn vật cô đơn của Bảo Ninh, Chu Lai, Nguyễn Viện - những con người đánh mất hiện tại vì quá khứ chiến tranh đeo bám, phải "ăn mày dĩ vóng", phải lang thang "tỡm lại thời gian đã mất" do chiến tranh, nhõn vật cô đơn của Phạm Thị Hoài đi tìm ý nghĩa cuộc sống ở hiện tại. Kiếm tỡm cái đẹp giữa cuộc đời phàm tục, dù ảo tưởng hay tỉnh táo cũng cô đơn. Dường như cô đơn đối với họ là sự chấp nhận. Nó là một sự lựa chọn có ý thức, gắn với niềm kiêu hónh cá nhõn. Những người này coi cô đơn là giá trị nhõn cách. Những con người theo đuổi cái đẹp "thanh cao, hoang tưởng" giữa cừi "dung tục" như chị Hằng mơ một tình yêu lớn, như bé Hon mơ một thế giới chỉ có "mụi hôn thơm ngậy mùi sữa" và những nụ cười thõn thiện, như Hoài mơ con người đều là Hocmo A... Ở "Thiên sứ", nhà thơ Ph: "đam mê, lạnh lùng, cách biệt", anh nói: "Hành trình của tôi đơn độc, tôi không cần khán giả"; "Ph. nhà thơ chỉ biết lặng lẽ giữa đám gà trống xoè tiếng gáy tung toé mãn nguyện trên nắp cống siêu thực của đời thường nuốt chửng nào áo cơm, nào kỳ tích mộng mơ, chàng trai cứ trò chuyện tay đôi với tầng cao để chịu thua cả đứa trẻ lên ba nạt nộ". "299 phò mã tương lai – Ph không tham dự, như anh vẫn lánh xa các cuộc thi thố, hội hè, trưng bày và đánh giá...". Ph xuất hiện trong tác phẩm không tuổi tác, không dáng hình, không xuất xứ, mà ám ảnh khôn nguôi. Ngay cả cái tên cũng không đầy đủ, bị kí hiệu như một cách đánh số. Ph như một bản ngã khác của bé Hoài, một người dám khước từ tất cả, chỉ sống với cái "ego" của chính mình. Anh là hiện thõn của cô đơn sống với "số phận âm thầm tủi nhục của kẻ mộng mơ cuối cùng còn sót lại giữa thế kỉ này". Bài tiểu luận Lê Minh Huệ – K54B Ngữ văn Hằng – Ph là cuộc gặp gỡ giữa nhà thơ và cái đẹp. Chỉ có nhà thơ mới hiểu những khát khao sáng tạo của Hằng. "Họ sinh ra là thuộc về nhau" nhưng lại không thể đi đến tận cùng. Mỗi người là một đường thẳng – hai đường thẳng cứ song song không có chỗ gặp nhau. Hằng đã đốt 300 lần lá bùa có tên Ph, đã khước từ chia sẻ số phận õm thầm của Ph. để mói mói có được vì tiếc nuối. Nhà thơ Ph. đã không tỡm đến Hằng bởi anh "không tham dự, lánh xa các cuộc thi thố, hội hè, trưng bày và định giá các phụ tùng đời sống, món nấu không thể thiếu trong bữa tiệc trung lưu". Họ mất nhau để rồi trở thành ám ảnh trong suốt cuộc đời nhau. Phạm Thị Hoài đã miêu tả nỗi cô đơn của Ph. bằng chính những vần thơ Ph. làm - những õm hưởng dịu dàng, miên man, mơ hồ, vô định. Chương 15 mang tên "Thơ Ph." là hiện diện của Ph. "anh đã vấp ngã vào bán kính lớn của hành trình elip dẫn tới cơn sáng hỗn độn, chữ nghĩa cuồn cuộn trút từng mảng niagra xuống bình minh rung động nơi em đã đi qua không một lần ngoảnh lại đó vựi trí nhớ vào đống mật mạ ròng rã con nước apocaluptic qua ý nghĩ không đầu, không cuối thật ra chỉ là một trí thức trong ngày tàn bạo này không chỉ riêng em..." một thứ văn xuôi chảy tràn trên trang giấy không tuõn theo lôgic thông thường. Ph. đã chơi một cuộc chơi bất tận của những con chữ. Chữ trong thơ Ph. là sự hoà trộn giữa thơ và phi thơ. Cõu thơ của Ph. không "dẹt như bãi bể buổi sáng thuỷ triều đã chết trong yên tĩnh", mà là thứ văn xuôi "thậm phồn", siêu thơ, siêu văn xuôi. Thơ Ph. có phải là nỗi đau vô tận, là khát khao tình yêu với người con gái đẹp đến cháy bỏng, da diết? Cõu thơ dài, dài "như thể anh yêu em", như dũng chảy bất tận của tình yêu lặng thầm mà mónh liệt trong Ph. Thơ Ph. cũng cô đơn như chớnh thõm phận Ph. vì nó không được đón chờ. Ph. là người "không chung hành trình với bất cứ ai", chỉ có ba việc ở trên đời "làm thơ, yêu đương và mơ mộng". Tác giả đã gửi gắm trong lời tự bạch của Ph. quan niệm về người nghệ sĩ: "Tôi không thể núi gỡ khỏc hơn ngoài vũ trụ duy nhất, vũ trụ con người tôi, diễn giải tương quan của nó với các ông gọi là chế độ làm việc của người khác", "Tôi không đọc thơ cho ai nghe thử, cho ai Bài tiểu luận Lê Minh Huệ – K54B Ngữ văn nghe vui. Tôi không quan tâm đến công chúng, dù đó là một công chúng có tự thói quen đọc nhật báo và đủ thứ tạp chí từng đăng tải thơ ông, hay công chúng có tự hạn hẹp mình ở mức từ chối nhật báo và các phương tiện truyền thông hiện đại". Quan niệm văn chương của Ph. mang tớnh cách nổi loạn, phản truyền thống. Theo đó hành trình sáng tạo là hành trình đơn độc. Nhà thơ chỉ sáng tạo bằng nhu cầu tự thõn, không phụ thuộc vào độc giả. Sáng tạo như thế là hành động tự do tuyệt đối và cũng là hnàh trình cô độc tuyệt đối. Ph. là mẫu nhà văn hiện đại. Tất nhiên cái cô độc của Ph. là sự lựa chọn, là kết quả của hành động khước từ gia nhập chiều chuyển động của số đông. Nó là cái cô đơn đích thực. Qua mấy dạng thức tiêu biểu của con người cô đơn, có thể thấy, từ ý thức sõu sắc về trách nhiệm của người cầm bút, trách nhiệm của một nhà văn đương đại, Phạm Thị Hoài đã đem đến cho người đọc những quan niệm rất độc đáo về con người và về văn chương. Chớnh bà đã chối bỏ "bài hát đồng người" chấp nhận trở thành môt "người khác", để có được một cách ứng xử riêng với văn chương. Phạm Thị Hoài đi sõu vào chủ đề cô đơn, nỗi cô đơn bản thể, nỗi cô đơn của những con người vừa bị cộng đồng chối bỏ, vừa chủ động tách khỏi cộng đồng để được là người "có mặt". "Thiên sứ" đã là đậm nét nhu cầu tự vấn của người trí thức và ít ra với hình tượng con người cô đơn, văn học đã trở về với chớnh nó: là khoa học về con người, là sự tự biểu hiện của con người. Với những gì vốn có của con người, cô đơn, sợ cô đơn, bị cô đơn vẫn là một ám ảnh. Hình tượng con người cô đơn trong "Thiên sứ" của Phạm Thị Hoài thực sự là một hình tượng nghệ thuật có sức ám ảnh. Bài tiểu luận văn Lê Minh Huệ – K54B Ngữ Chương IV MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT KHẮC HOẠ HÌNH TƯỢNG CON NGƯỜI CÔ ĐƠN TRONG "THIÊN SỨ" CỦA PHẠM THỊ HOÀI 1. Lời độc thoại nội tâm như lời tự bạch, tự vấn Để bộc lộ đời sống tinh thần, làm hiện rừ con người bên trong nhõn vật nhà văn hiện đại ưa dùng độc thoại nội tõm. Với chủ đề cô đơn, kỹ thuật này cũng trở nên đắc dụng. Có thể nói với Phạm Thị Hoài độc thoại nội tõm là một trong những thủ pháp hữu hiệu nhất giúp nhà văn mô tả mặt từ bên trong, thõm nhập vào ý thức tự vấn của nhõn vật. Qua độc thoại nội tõm, nhõn vật xác lập một cái nhìn riêng về thế giới. Phạm Thị Hoài giúp chỳng ta nhận ra con người thường xuyên có nhu cầu tự vấn, nghĩa là con người trong khát vọng vượt thoát những khuôn khổ cũ để định giá lại mọi giá trị, mọi thứ quan hệ để tỡm điểm tựa cho mình; xác lập nhõn cách, nhõn vị riêng của mình. Những đoạn tự luận chính là dòng độc thoại nội tõm của bé Hoài, bàn về tác phẩm "Ruồi Trâu" và "Thép đã tôi thế đấy" và chương mang tên "Đám tang". Độc thoại của nhõn vật Hoài khiến người đọc có cảm giác như tiểu thuyết Phạm Thị Hoài là sự nối dài các tiểu luận của bà. Hoài muốn lật tung mọi giá trị, muốn bóc trần các thứ vỏ bọc bên ngoài để làm lộ ra cái giá trị tầm thường của bao nhiêu huyền thoại. Hoài trở nên cô đơn cũng vì sự khác người trong cách đánh giá này. Chỗ gần gũi giữa Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài là đều dùng độc thoại nội tõm để triết lí và tự vấn về cuộc sống, về vật chất, bắt người đọc cùng với nhõn vật phải soi mình lại. Nhưng từ điểm nhìn của nhõn vật, những tư tưởng của nhà văn không mang tớnh áp đặt, khiên cưỡng mà nó vang lên như tiếng lòng thành thực, tin cậy và bức xúc, đau đớn của chớnh nhõn vật. Phạm Thị Hoài có khi dùng hình thức tự luận, lại có khi dùng hình thức nhật kí để khắc hoạ dòng độc thoại nội tõm. Nhật kí chị Hằng thực ra không
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan