Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội - lý luận và thực tiễn áp dụ...

Tài liệu Hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội - lý luận và thực tiễn áp dụng luận văn ths. luật

.PDF
112
501
82

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ NGỌC THÙY HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ NGỌC THÙY HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Luyện Hµ néi - 2011 MỤC LỤC TRANG Trang phụ bìa LỜI CAM ĐOAN Mục lục DANH MỤC CÁC BẢNG MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÌNH 7 PHẠT TÙ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 1.1. Khái niệm; đặc điểm tâm, sinh lý của người chưa thành niên 7 1.1.1. Khái niệm 7 1.1.2. Đặc điểm tâm, sinh lý người chưa thành niên 8 1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội và hình thức xử lý người chưa thành niên phạm tội 12 1.2.1. Khái niệm 12 1.2.2. Hình thức xử lý người chưa thành niên phạm tội 13 1.2.2.1. Nguyên tắc xử lý 13 1.2.2.2. Hệ thống biện pháp xử lý chính thức 15 1.3. Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội 18 1.3.1. Nguyên tắc thứ nhất 21 1.3.2. Nguyên tắc thứ hai 22 1.3.3. Nguyên tắc thứ ba 24 1.3.4. Nguyên tắc thứ tư 27 1.3.5. Nguyên tắc thứ năm 30 1.4. Tìm hiểu hình thức xử lý người chưa thành niên phạm tội của Liên hợp quốc và một số nước trên thế giới 31 1.4.1. Các quy định quốc tế về tư pháp người chưa thành niên 31 1.4.1.1. Can thiệp mà không sử dụng đến quá trình tố tụng tư pháp và can thiệp trong quá trình tố tụng tư pháp 37 1.4.1.2. Độ tuổi và trẻ em có xung đột với pháp luật 40 1.4.2. Quy định của một số quốc gia trên thế giới về vấn đề quyền của người chưa thành niên phạm tội 44 QUY ĐỊNH ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI 49 Chương 2: NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Quy định áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội 49 2.1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích hình phạt 49 2.1.2. Các loại hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội 56 2.1.2.1. Hình phạt cảnh cáo 57 2.1.2.2. Hình phạt tiền 58 2.1.2.3. Hình phạt cải tạo không giam giữ 61 2.1.3. 64 Hình phạt tù có thời hạn và thực tiễn áp dụng với người chưa thành niên phạm tội 2.1.3.1. Khái niệm, đặc điểm 64 2.1.3.2. Hình phạt tù áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội 67 2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội ở nước ta giai đoạn 2006 - 2010 73 2.3. Nhận xét, đánh giá về quy định áp dụng hình phạt tù đối 79 với người chưa thành niên phạm tội và thực tế áp dụng 2.3.1. Ưu điểm 79 2.3.2. Hạn chế 81 2.3.3. Nguyên nhân 84 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP 86 LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 3.1. Quan điểm chung 86 3.1.1. Quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung và các quy định về xử lý người chưa thành niên phạm tội nói riêng 87 3.1.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội phải thể hiện nguyên tắc nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong đường lối xử lý người phạm tội 88 3.1.3. Bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định về hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội của pháp luật hình sự Việt Nam với sự tiếp thu hợp lý các quy định của luật pháp quốc tế 89 3.2. Các giải pháp, kiến nghị 91 KẾT LUẬN 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Số người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng các loại hình phạt trên cả nước từ tháng 10 năm 2006 đến tháng 09 năm 2010 74 2.2 Số người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng hình phạt tù tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội từ tháng 10 năm 2006 đến tháng 9 năm 2010 74 2.3 Số người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng hình phạt tù tại Toà án nhân dân quận Tây Hồ từ tháng 10 năm 2006 đến tháng 9 năm 2010 75 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI được một thập kỷ, toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là xu hướng chung của thế giới. Những tác động của nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế của Việt Nam, một trong những nước đang phát triển, được cộng đồng quốc tế đánh giá là có tiềm năng trong khu vực Đông Nam Á và Châu Á. Sự phát triển của khoa học - công nghệ và kinh tế đã kéo theo sự phát triển nhiều mặt của đời sống xã hội mà nổi bật là vấn đề nhân quyền, đặc biệt là quyền trẻ em. Cộng đồng quốc tế nói chung và Việt Nam nói riêng luôn quan tâm sâu sắc đến trẻ em, bởi vì trẻ em là tương lai của thế giới "Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai". Từ khi gia nhập Liên hợp quốc, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ động tham gia các Công ước quốc tế về bảo vệ quyền trẻ em như Công ước về Quyền trẻ em 1989, Nguyên tắc tối thiểu chuẩn về quản lý người chưa thành niên (Nguyên tắc Bắc Kinh) 1985, Nguyên tắc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước đoạt tự do (UNJDLS) 1990, Hướng dẫn về phòng ngừa tội phạm chưa thành niên 1990 (Hướng dẫn Riyadh)… Đồng thời nội luật hóa, xây dựng những chính sách pháp luật phù hợp như Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Luật Phòng, chống bạo lực gia đình; Bộ luật Lao động; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Hình sự; Luật Hôn nhân và gia đình… với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em cũng như quy định trách nhiệm của cha mẹ, gia đình và các tổ chức xã hội. Tuy nhiên, hiện nay, một hiện tượng đang xảy ra phổ biến tại các nước trên thế giới là tình hình tội phạm là người chưa thành niên ngày càng gia tăng. Mỗi quốc gia đều giải quyết vấn đề người chưa thành niên phạm tội theo những mức độ, cách thức khác nhau tùy thuộc vào những điều kiện, tập 1 quán, pháp luật của mỗi nước. Một hoạt động mà các nước trên toàn cầu đang nỗ lực thực hiện là tìm mọi cách đảm bảo hệ thống tư pháp người chưa thành niên tuân thủ theo đúng luật pháp quốc tế về quyền con người. Để đảm bảo tính công bằng và nghiêm khắc của pháp luật hình sự cũng như yêu cầu bảo vệ trẻ em một cách tốt nhất, thì vấn đề xử lý tội phạm là người chưa thành niên luôn là yêu cầu cấp thiết đặt ra với mỗi quốc gia. Đặc biệt, vấn nạn người chưa thành niên phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng ngày càng nhiều và có xu hướng gia tăng nhanh chóng. Việt Nam không nằm ngoài tình trạng chung đó. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi bổ sung một số điều năm 2009 đã dành một chương riêng quy định đối với người chưa thành niên phạm tội, với mục đích phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng phạm tội do người chưa thành niên gây ra. Đồng thời, dung hòa chính sách bảo vệ và chăm sóc trẻ em với tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật hình sự. Việc thực hiện chúng trong thực tiễn có hiệu quả là mục tiêu quan trọng nhất. Tuy nhiên, những chính sách pháp luật đó được áp dụng như thế nào lại là vấn đề không đơn giản, đặc biệt là việc quyết định hình phạt tù khi xét xử đối với người chưa thành niên phạm tội. Bởi đối tượng bị xử lý là những người được quan tâm đặc biệt và hình phạt tù, một loại hình phạt nghiêm khắc, tước đoạt tự do luôn được quốc tế nhấn mạnh chỉ như là biện pháp cuối cùng. Đã có một số công trình nghiên cứu về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội nhưng nghiên cứu ở dạng khái quát, tổng thể hoặc ở một địa phương cụ thể. Chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội. Vì vậy, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả nghiên cứu đề tài "Hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội - Lý luận và thực tiễn áp dụng". 2. Tình hình nghiên cứu 2 Hình phạt tù là hình phạt chính và là hình phạt nghiêm khắc nhất áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, loại hình phạt được quốc tế khuyến cáo chỉ áp dụng như là biện pháp cuối cùng và được pháp luật hình sự Việt Nam quy định là nên hạn chế áp dụng. Vì là hình phạt chính nên hình phạt tù áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 69, Điều 74 Chương X "Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội" của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009. Trên phương diện lập pháp và trên phương diện lý luận, hình phạt tù áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tương đối cụ thể. Tuy nhiên, là một hình phạt nằm trong hệ thống hình phạt áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội nên hình phạt tù được các tác giả nghiên cứu chung với các loại hình phạt khác hoặc được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu chung về trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên. Cụ thể, luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần Văn Dũng nghiên cứu "Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội trong luật Việt Nam" năm 2003; luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Văn Dũng nghiên cứu "Hoàn thiện quy phạm pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, đấu tranh với hành vi phạm tội của người chưa thành niên" năm 1996; luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Kiểm nghiên cứu "Hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội: Lý luận và thực tiễn áp dụng" năm 2010. Hình phạt tù chưa được nghiên cứu chuyên sâu để giải đáp được những vướng mắc trong việc áp dụng trong thực tiễn xét xử. Trong khi đó, trước yêu cầu của quốc tế về việc bảo vệ quyền trẻ em, thực tiễn xét xử người chưa thành niên phạm tội và việc áp dụng hình phạt tù với đối tượng đặc biệt này, việc có một công trình nghiên cứu sâu về loại hình phạt nghiêm khắc nhất với người chưa thành niên phạm tội là rất cần thiết. Đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người nghiên cứu và thực thi pháp luật hình sự. 3 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu Mục đích của đề tài là nhằm tìm hiểu chính sách xử lý hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội, đặc biệt là việc áp dụng hình phạt tù, hình thức tước bỏ tự do, biện pháp nghiêm khắc nhất, đảm bảo dung hòa pháp luật hình sự với chính sách bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Đồng thời, tìm hiểu việc áp dụng những chính sách này trong thực tiễn. Từ đó, đưa ra những đề xuất và kiến nghị cụ thể đến các biện pháp và sáng kiến mang tính khả thi để góp phần hoàn thiện pháp luật, tìm ra các giải pháp nhằm cải thiện tình hình hiện tại về người chưa thành niên phạm tội ở Hà Nội, thủ đô nghìn năm tuổi của Việt Nam, một thành phố vì hòa bình. Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, luận văn có phạm vi nghiên cứu là xem xét và giải quyết một số vấn đề xung quanh hình phạt tù, lý luận và thực tiễn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, nội dung nghiên cứu cụ thể là: - Khái niệm, đặc điểm tâm, sinh lý của người chưa thành niên phạm tội. - Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam. - Các quy định quốc tế về tư pháp người chưa thành niên. - Quy định áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam và thực tế áp dụng. - Các giải pháp hoàn thiện các quy phạm trong phạm luật hình sự Việt Nam về hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội. Phạm vi của đề tài được giới hạn trong 5 năm, từ năm 2006 đến năm 2010. Địa bàn nghiên cứu tập trung ở Thủ đô Hà Nội. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4 Với mục đích và phạm vi nghiên cứu nêu trên, trong luận văn này tác giả tập trung vào giải quyết những nhiệm vụ chính sau: - Phân tích và xây dựng khái niệm người chưa thành niên, người chưa thành niên phạm tội, các đặc điểm tâm, sinh lý cơ bản của người chưa thành niên và hình phạt tù. - Khái quát một số quy định của quốc tế về tư pháp người chưa thành niên. - Khái quát lịch sử xây dựng chính sách xử lý người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam. - Phân tích nội dung và những quy định áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2009. - Thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội. Từ đó, phân tích một số tồn tại xung quanh việc quy định và áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội. - Đề xuất hoàn thiện các quy định về hình phạt tù áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, điều tra xã hội học, nghiên cứu lịch sử cũng như phương pháp khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự, xã hội học pháp luật… Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn 5 Luận văn đã làm rõ khái niệm, bản chất pháp lý và hình thức áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội trên cơ sở xem xét những quy định của luật pháp quốc tế, pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, đồng thời đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng trong thực tiễn. Ngoài ra, đối tượng áp dụng hình phạt tù được nghiên cứu trong luận văn là người chưa thành niên phạm tội - một đối tượng đặc biệt. Vì vậy, để góp phần nhân đạo hóa hơn nữa chính sách hình sự của Nhà nước ta, phù hợp với các yêu cầu của thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự của các nước cũng như các quy định của quốc tế, tác giả kiến nghị sửa đổi một số quy định khi áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội. Đây là công trình nghiên cứu sâu về loại hình phạt tù áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội, có ý nghĩa lý luận sâu sắc, là tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy và cho cán bộ thực tiễn áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội. Chương 2: Quy định về hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÌNH PHẠT TÙ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 1.1. KHÁI NIỆM; ĐẶC ĐIỂM TÂM, SINH LÝ CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 1.1.1. Khái niệm Điều 1 Công ước quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc phê chuẩn ngày 20 - 11- 1989 đã định nghĩa về trẻ em như sau: "Trẻ em được xác định là người dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn". Quy tắc tối thiểu chuẩn của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 29 – 11 - 1985 nêu: "Người chưa thành niên là trẻ em hay người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật cụ thể bị xét xử vì phạm pháp theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn" (Quy tắc số 2.2 mục a). Quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do (Quy tắc Havana) thông qua ngày 14-12-1990 nêu cụ thể: "Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và không được tước quyền tự do của người chưa thành niên" (Quy tắc 2.1 mục a). Như vậy, có thể khẳng định rằng, khi đưa ra khái niệm về trẻ em hay người chưa thành niên, pháp luật quốc tế dựa vào đặc điểm tâm, sinh lý hay sự phát triển thể chất, tinh thần thông qua việc xác định độ tuổi. Kể cả khái niệm trẻ em và khái niệm người chưa thành niên đều giới hạn là dưới 18 tuổi, đồng thời đưa ra khả năng mở cho các quốc gia tuỳ điều kiện kinh tế - xã hội, 7 văn hóa truyền thống của mình có thể quy định độ tuổi đó sớm hơn. Nội dung các quy tắc trên có tính đến sự đa dạng và cơ cấu pháp luật của các quốc gia, phản ánh mục đích và tinh thần của tư pháp người chưa thành niên, đề ra những nguyên tắc mong muốn và thông lệ đối với việc quản lý những người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Theo đó, pháp luật Việt Nam cũng quy định độ tuổi đủ 18 tuổi là căn cứ để xác định người đó đã thành niên. Điều 18 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định "Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên". Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam quy định "Trẻ em quy định trong Luật này là công dân dưới 16 tuổi". Vì vậy, người chưa thành niên được xác định là người dưới 18 tuổi. 1.1.2. Đặc điểm tâm, sinh lý người chưa thành niên Sở dĩ Nhà nước ta có những chính sách riêng cho đối tượng phạm tội là người chưa thành niên vì xuất phát từ tính đặc thù của đối tượng này. Chủ thể của tội phạm là những người tuổi đời còn ít, kinh nghiệm sống chưa nhiều, hiểu biết pháp luật và các chuẩn mực xã hội còn hạn chế. Đặc biệt, đây là lứa tuổi đang có sự biến đổi mạnh mẽ về tâm, sinh lý và là giai đoạn quan trọng của quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Người chưa thành niên đang ở giai đoạn dậy thì, xảy ra những biến động mãnh liệt về tâm lý của mỗi con người, cũng là thời kỳ then chốt của phát triển tâm lý. Đương nhiên, quá trình phát triển tâm lý có quan hệ chặt chẽ với điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa mà những người chưa thành niên đang sống và cũng liên quan đến quá trình phát dục, thành thục về sinh lý. Bước vào thời kỳ này, họ phải đối phó với những thay đổi to lớn trong môi trường học tập và rất nhiều yêu cầu mới của xã hội. Con người đứng trước những thay đổi sinh lý hình thái rất đột ngột, như cao vổng lên, sức mạnh cơ bắp, kinh nguyệt, di tinh, vỡ giọng… tất nhiên sẽ dẫn đến hàng loạt những 8 biến động tâm lý. Ở thời kỳ này, đặc trưng tâm lý còn vương chút trẻ con lại có những mầm mống mới nhú của tâm lý người lớn. Qua giai đoạn này có sự thay đổi căn bản về tâm, sinh lý nên thường mong muốn người lớn tôn trọng mình, luôn muốn khẳng định mình đã trưởng thành và không chấp nhận sự can thiệp quá sâu của người lớn vào đời sống cá nhân. Tuy nhiên, họ thường có xu hướng cường điệu trong khi tự đánh giá. Hoặc đánh giá thấp cái tích cực, tập trung phê phán cái tiêu cực, hoặc lại đánh giá quá cao nhân cách của mình, tự cao tự đại. Ở lứa tuổi này, nếu không quan tâm sát sao thì sẽ tạo cho họ cơ hội vi phạm các chuẩn mực hành vi, chuẩn mực đạo đức và vi phạm pháp luật. Bởi thời kỳ này bộc lộ cá tính rất mạnh, sự tự quan sát, tự đánh giá, tự thể hiện, tự đôn đốc, tự khống chế… đều được tăng cường. Ở thì kỳ này bắt đầu có cảm nghĩ mình là người lớn, thầm lặng cảm thấy mình đang dần thành người lớn. Vì tự ý thức được như thế nên tính tự giác cũng được nâng cao, nôn nóng tìm kiếm cái cốt lõi của cuộc sống. Ý thức xã hội được tăng cường mau chóng, rất nhạy bén với mọi biến động của xã hội, dám nói lên ý kiến và nhận định của bản thân và khát khao được người khác đánh giá, hết sức quan tâm đến sự phát triển sở thích cá nhân. Ở tuổi này, dễ bị ảnh hưởng ở hoàn cảnh bên ngoài, bởi tính nết, tình cảm. Bên cạnh đó, xã hội hiện đại ẩn chứa nhiều mặt trái kích thích người chưa thành niên phạm tội: Những trò chơi điện tử bạo lực với những cảnh bắn súng, chém giết…; phim hành động bạo lực không chỉ chiếu ở rạp phim, băng đĩa mà còn cả trên truyền hình hằng ngày. Những yếu tố này, khiến chúng hoài nghi và cảm thấy xung quanh bất ổn, muốn bảo vệ bản thân. Trạng thái tâm lý đó kéo khoảng cách giữa hành động ảo và hành động phạm tội gần nhau hơn và khiến chúng bắt chước theo. Người chưa thành niên còn "có xu hướng thiếu khả năng kiềm chế do các quá trình hưng phấn của vỏ não mạnh và chiếm ưu thế, các quá trình ức chế có điều kiện bị suy giảm" [11, tr. 91]. Do vậy, nhiều khi họ không làm chủ được cảm xúc của mình, không kiềm chế được xúc động mạnh, dễ bị kích động, dễ bị tức, cáu kỉnh, mất bình tĩnh… nên dễ phạm sai lầm. Ở lứa tuổi 9 này còn xuất hiện hiện tượng "khủng hoảng" về tâm lý. Sự khủng hoảng có thể dẫn đến những "xung đột" nhất định. Những "khủng hoảng" và những "xung đột" này nếu không được giải tỏa kịp thời, đúng đắn sẽ dẫn đến các hành vi bạo động hoặc sống buông thả, bất cần. Nhu cầu giao tiếp và mở rộng mối quan hệ bạn bè là một điểm đặc trưng của lứa tuổi chưa thành niên. Trong hoàn cảnh giao tiếp tự do, rỗi rãi, trong tiêu khiển, trong việc phát triển nhu cầu, sở thích… người chưa thành niên hướng vào bạn bè nhiều hơn là hướng vào cha mẹ. Họ thích giao du bạn bè, thích túm năm tụm ba. Nếu không có sự quản lý chặt chẽ của gia đình, nhà trường thì họ dễ bỏ học, đi lang thang. Vì vậy, dễ có khả năng họ có những hành vi phạm tội. Nhóm bạn xấu cũng xuất hiện từ đây. Đa số những người vi phạm pháp luật ở độ tuổi chưa thành niên đều có hiện tượng bỏ học, đi lang thang. Lứa tuổi này rất dễ bị lôi kéo bởi bạn bè xấu. Bởi ở lứa tuổi này, tính tình có sự bộc lộ hết sức mạnh mẽ, rất không ổn định, rất dễ chuyển từ cực này sang cự kia. Sở dĩ gọi là lưỡng cực trong tính nết của người chưa thành niên là do họ có biểu hiện trong tính tình khẳng định và phủ định, tích cực và tiêu cực, khẩn trương và buông lỏng, hoạt động và lập lờ, yêu và ghét, vui vẻ và chán nản, hấp tấp và bình tĩnh, cáu bẳn và bình ổn... Tính hai cực có nguồn gốc ở cơ chế sinh lý, nhưng nó có nguyên nhân xã hội. Nếu phân tích theo cơ chế sinh lý thì tính nết là kết quả của hoạt động phối hợp của vỏ đại não và thần kinh giao cảm dưới lớp vỏ đó. Ở tuổi dậy thì chức năng nội tiết phát triển rất mau lẹ, nhưng tác dụng ức chế của vỏ não thì chưa tới mức hoàn hảo, nên có đặc trưng là tính nết ở tuổi này rất thất thường. Còn nếu phân tích theo nguyên nhân xã hội thì đối với những người chưa thành niên có nhiều nhu cầu rất mãnh liệt, ra sức muốn biểu hiện sức lực của mình. Nhưng chưa có được nhận thức đầy đủ với tính cách phức tạp của xã hội, chưa thấu hiểu tính hợp lý và tính khả thi trong hành vi của bản thân cũng như chưa xác lập được một 10 nhân sinh quan đúng đắn, nguyện vọng và hiện thực không sao thống nhất được, nên dẫn họ đến những xao động rất lớn trong tính tình. Sự nhận thức ở người chưa thành niên còn rất hạn chế, trình độ học vấn chưa hoàn thiện, vốn kinh nghiệm và hiểu biết xã hội còn ít, sự thông hiểu và chấp hành các chuẩn mực hành vi, chuẩn mực xã hội và pháp luật chưa cao. Tuy nhiên, ở lứa tuổi này những điều kiện về mặt trí tuệ, nhân cách và xã hội để xây dựng một hệ thống quan điểm riêng đã được hình thành. Đặc biệt là sự phát triển của tư duy lý luận và tư duy trừu tượng nên các em có khả năng lĩnh hội nhanh những vấn đề được giáo dục. Bởi đây là thời kỳ hoàng kim để phát triển trí lực, họ chuyển từ ghi nhớ máy móc sang phần ghi nhớ có ý nghĩa và bắt đầu nhớ được từng phần theo ý nghĩa sang ghi nhớ có ý nghĩa toàn bộ như về tư duy, tư duy lấy tôi làm trung tâm đã phát triển tới tư duy logic, trừu tượng. Về mặt học tập, động cơ, thái độ, hứng thú và năng lực học tập đều được nâng cao. Vì các môn học nhiều thêm, nội dung đã phân biệt, nên tư duy trừu tượng logic được dịp phát triển. Khả năng phân tích, tổng hợp, suy luận, phán đoán cũng được nâng cao. Do thân hình lớn vổng lên, chuyển hóa trong cơ thể mạnh mẽ, tinh lực dồi dào, hiếu động luôn chân luôn tay, tựa như toàn thân chỗ nào cũng dư thừa sức lực, nhất là trong những hoạt động tranh đua, cùng với sự tự ý thức hơi quá và lòng tự tôn hừng hực, tạo nên sự bất kham, mọi trường hợp đều muốn bộc lộ nguyện vọng mãnh liệt của bản thân. Trong đặc điểm tâm, sinh lý của người chưa thành niên phạm tội thì có hai khuynh hướng nổi bật liên quan tới việc thực hiện tội phạm và khả năng giáo dục cải tạo họ. Họ dễ bị kích động, thúc đẩy vào việc thực hiện tội phạm nhưng cũng dễ uốn nắn, cải tạo, giáo dục thành người có ích cho xã hội. Những biểu hiện về nhận thức, tình cảm, hành động của lứa tuổi chưa thành niên phạm tội là rất yếu kém. Để giáo dục, cải tạo những đối tượng này, 11 cần có sự quan tâm sát sao, tỷ mỷ của gia đình, nhà trường, các tổ chức đoàn thể, chính quyền địa phương và của toàn xã hội. Trong đó sự giáo dục của gia đình đóng một vai trò rất quan trọng. Bởi gia đình là môi trường tự nhiên cho sự phát triển của người chưa thành niên. Trong gia đình, họ được học tập các chuẩn mực và giá trị văn hóa. Gia đình có trách nhiệm đầu tiên trong việc nuôi nấng, bảo vệ, giáo dục, chăm sóc người chưa thành niên. 1.2. KHÁI NIỆM NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ HÌNH THỨC XỬ LÝ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 1.2.1. Khái niệm Trong pháp luật hình sự Việt Nam, người chưa thành niên phạm tội chỉ bao gồm những người đã đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm. Điều 12 Bộ luật Hình sự quy định: 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [31]. Điều 68, Chương X: Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội, Bộ luật Hình sự quy định: "Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu tránh nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định của các Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này" [31]. Căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm và trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của một số nước khác, Bộ luật Hình sự Việt Nam đã xác định tuổi chịu trách nhiệm hình sự đầy đủ là đủ 16 tuổi trở lên và tuổi 12 chịu trách nhiệm hình sự hạn chế là đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Dù pháp luật quy định người đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, song những người phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người chưa thành niên nên họ vẫn được hưởng chính sách xử lý hình sự của Nhà nước đối với người chưa thành niên phạm tội. TSKH.GS. Lê Cảm và TS. Đỗ Thị Phượng đưa ra khái niệm người chưa thành niên phạm tội tương đối đầy đủ và lập luận việc quy định trong luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm xác định tính chất phạm tội với hành vi do người chưa thành niên thực hiện và tạo điều kiện cho việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên sao cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ đã thực hiện trên cơ sở những đặc điểm về tâm, sinh lý của họ vào thời điểm họ phạm tội. Từ lý do trên, các tác giả đưa ra khái niệm: "Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ, do hạn chế bởi các đặc điểm về tâm sinh lý và có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm" [6, tr. 9]. Theo đó, năm dấu hiệu cơ bản về người chưa thành niên phạm tội dưới khía cạnh pháp lý hình sự là: 1) Từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi; 2) Có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do sự hạn chế bởi các đặc điểm tâm sinh lý; 3) Đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội; 4) Hành vi mà người chưa thành niên thực hiện là hành vi bị pháp luật hình sự cấm; 5) Có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong thực hiện hành vi đó. 1.2.2. Hình thức xử lý người chưa thành niên phạm tội Người chưa thành niên phạm tội, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm của họ, có thể bị xử lý bằng các biện pháp chính thức là hành chính hoặc hình sự hoặc các biện pháp không chính thức. 1.2.2.1. Nguyên tắc xử lý 13 Một nguyên tắc tối cao trong việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là phải luôn quan tâm, bảo đảm lợi ích tốt nhất cho các em. Theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (tại các điều 7, 23, 24, 26) thì người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính chỉ bị phạt cảnh cáo; người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi trở lên vi phạm hành chính thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền với mức phạt không quá một phần hai mức phạt đối với người thành niên hoặc bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở chữa bệnh. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải đáp ứng được mục đích chính là giáo dục, giúp đỡ các em sửa chữa sai lầm và trở thành người có ích cho xã hội. Tinh thần này được thể hiện từ trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 (Điều 58) và Bộ luật Hình sự năm 1999 (Điều 69). Theo đó, việc xử lý người chưa thành niên vi phạm nói chung và phạm tội nói riêng chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Các em được gia đình, nhà trường và xã hội giáo dục, giúp đỡ để sửa chữa sai lầm, có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng quy tắc của đời sống xã hội và sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Việc tổ chức giáo dục trẻ em vi phạm pháp luật chủ yếu được thực hiện tại cộng đồng hoặc đưa vào trường giáo dưỡng. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Đây là một trong những nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 69 Bộ luật Hình sự. Ngoài những điều kiện miễn trách nhiệm hình sự áp dụng chung, người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi trở lên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan