Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật dân s...

Tài liệu Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật dân sự Việt Nam

.PDF
128
460
96

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHA HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHA HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quế Anh HÀ NỘI - 2011 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU Chƣơng 1: 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN 7 SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU 1.1. Khái niệm nhãn hiệu và hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 7 1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu và phân biệt nhãn hiệu với các đối tượng khác 7 1.1.2. Phân loại nhãn hiệu 16 1.1.3. Khái niệm hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 20 1.1.4. Phân loại hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 29 Phân biệt hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu với các hành vi vi phạm pháp luật khác 33 1.2.1. Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu với xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại 33 1.2.2. Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu với xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý 33 1.2. 1.2.3. Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu với cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới nhãn hiệu 34 Chƣơng 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ 36 HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU 2.1. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 36 2.1.1. Hành vi xâm phạm nhãn hiệu thông thường 38 2.1.2. Hành vi xâm phạm nhãn hiệu nổi tiếng 47 2.2. Phương thức xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 55 2.2.1. Đối tượng bị xâm phạm 56 2.2.2. Yếu tố xâm phạm 57 2.2.3. Chủ thể thực hiện hành vi xâm phạm 65 2.2.4. Địa điểm thực hiện hành vi xâm phạm 66 2.3. Tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu gây ra 68 2.3.1. Khái niệm thiệt hại 69 2.3.2. Phân loại thiệt hại 70 2.3.3. Mức độ thiệt hại 77 2.3.4. Phương thức xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm nhãn hiệu 77 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG HÀNH VI XÂM PHẠM VÀ PHƢƠNG 84 HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU 3.1. Thực trạng và tác động của hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 3.1.1. Thực trạng hành vi xâm phạm 84 84 3.1.2. Tác động của hành vi xâm phạm 94 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 106 3.2.1. Phương hướng hoàn thiện các quy định về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 106 3.2.2. Phương hướng hoàn thiện các quy định về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 108 3.2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 110 3.2. KẾT LUẬN 113 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 115 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT SHCN : Sở hữu công nghiệp SHTT : Sở hữu trí tuệ DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Đơn khiếu nại về xâm phạm nhãn hiệu trong tổng số đơn khiếu nại về xâm phạm quyền SHCN từ năm 1995-2007 tại Cục SHTT 85 2.2 Số vụ xâm phạm quyền SHCN do Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ xử phạt vi phạm hành chính từ năm 1999-2002 86 2.3 Đơn đề nghị cơ quan hải quan phối hợp phát hiện, xử lý hàng hóa có dấu hiệu xâm phạm nhãn hiệu 87 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang 2.1 Đơn khiếu nại về xâm phạm nhãn hiệu trong tổng số đơn khiếu nại về xâm phạm quyền SHCN từ năm 1995-2007 tại Cục SHTT 85 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hàng ngày chúng ta tiếp cận với các thông tin: Theo đại diện của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), "Mỗi năm, giả mạo, ăn cắp bản quyền sản phẩm gây thiệt hại ít nhất 100 tỷ USD cho nền kinh tế toàn cầu" [60]; "trên chuyên cơ Air Force One của Tổng thống Hoa Kỳ cũng có gắn phụ tùng giả" [59]; theo số liệu tại Hội thảo "Hàng nhái và các biện pháp ngăn chặn" tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2003, "tại Việt Nam, hàng nhái, hàng giả đang gia tăng với tốc độ năm sau gấp 2,5 lần so năm trước" [21]; theo ông Trần Việt Hùng, Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ, mỗi năm, các lực lượng thực thi quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) đã "phát hiện và xử phạt khoảng 3.000 vụ vi phạm hành chính liên quan đến hàng giả, vi phạm quyền sở SHCN" [10]… Các số liệu trên chứng tỏ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) nói chung và xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu nói riêng đang trở thành một vấn nạn mà thế giới và Việt Nam đang phải đối mặt hàng ngày. Hành vi này gây thiệt hại nhiều mặt cho Nhà nước và xã hội. Ở Việt Nam, xâm phạm nhãn hiệu đang ngày càng mở rộng về phạm vi, tăng lên về quy mô, số lượng và phức tạp, tinh vi về tính chất. Trong khi đó, pháp luật điều chỉnh hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với với nhãn hiệu còn nhiều hạn chế như điều chỉnh muộn, không rõ ràng và kém hiệu quả. Mãi đến năm 1982, văn bản pháp luật đầu tiên quy định đúng bản chất của hành vi xâm phạm nhãn hiệu mới được ban hành. Sau đó, đã có nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh hành vi này nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế. Ngay cả các văn bản hiện hành quy định về hành vi này như Bộ luật Dân sự 2005, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 (sau đây gọi tắt là Luật SHTT 2005) và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng chưa hình thành nên một hệ thống pháp luật điều chỉnh hành vi xâm phạm nhãn hiệu hiệu quả. Trong khi đó, hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu là một đề tài mới và khó nên có rất ít các công trình nghiên cứu chuyên sâu, các chuyên gia hay cơ chế tham vấn chính thức để có thể sử dụng là nguồn tham khảo cho việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này. Vì vậy, các chủ thể kinh doanh, người tiêu dùng và các cơ quan thực thi mất đi cơ hội có được công cụ pháp lý hiệu quả để bảo vệ nhãn hiệu, các quyền và lợi ích hợp pháp của mình và đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, với mong muốn tìm hiểu bản chất pháp lý và thực trạng hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu nhằm tìm ra các giải pháp thích hợp giúp cho việc hoàn thiện pháp luật về xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu, tác giả đã lựa chọn đề tài này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu là một đề tài mới nên có rất ít luận án, luận văn, khoá luận và bài viết chuyên sâu về đề tài này. Có thể chia các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài làm ba nhóm sau: - Nhóm thứ nhất xem xét đề tài như một nội dung trong các đề tài lớn về hành vi xâm phạm quyền SHTT hoặc SHCN: + Bài viết: "Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và vấn đề xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp của Công ty Honda Việt Nam", của Vũ Lê Trung, đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 5 năm 2005; + Bài viết: "Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp - những vấn đề đặt ra từ thực tiễn", của Lê Việt Long, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5 năm 2005. - Nhóm thứ hai nghiên cứu đề tài như một phần liên quan mật thiết cấu thành nên các vấn đề về bảo hộ, bảo vệ, thực thi… quyền SHTT hoặc SHCN: + Luật văn thạc sỹ luật học: "Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hoá theo pháp luật Việt Nam", của Trần Nguyệt Minh, bảo vệ năm 2004 tại Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; + Luận văn thạc sỹ luật học:"Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu bằng biện pháp dân sự",của Vũ Thị Hương Giang, bảo vệ năm 2007 tại Đại học Quốc gia Hà Nội; + Bài viết: "Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong bối cảnh hội nhập và xây dựng nền kinh tế tri thức", của Trần Thanh Lâm, đăng trên thongtinphapluatdansu. wordpress.com ngày 27/09/2008. - Nhóm thứ ba nghiên cứu một hoặc một phần nội dung của đề tài: + Bài viết: "Xác định thiệt hại trong pháp luật về sở hữu công nghiệp", của Đinh Thị Mai Phương, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9 năm 2008; + Khoá luận: "Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở Việt Nam hiện nay", của Đặng Mai Anh, bảo vệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2008; + Khoá luận: "Xác định các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với các dấu hiệu dùng để phân biệt sản phẩm dịch vụ", của Vũ Thị Vân Nga, bảo vệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2008. Trong các công trình nghiên cứu trên, khoá luận của tác giả Đặng Mai Anh được coi là gần gũi với đề tài nghiên cứu nhất. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một khoá luận, tác giả Đặng Mai Anh chỉ trình bày các nội dung rất sơ lược, thiên về việc nêu hậu quả của hành vi xâm phạm và hệ thống cơ quan thực thi quyền SHCN. Với các công trình khác, đề tài có sự khác biệt rõ ràng. Vì vậy, với cách tiếp cận mới vừa có chiều sâu (làm nổi bật bản chất pháp lý của hành vi) vừa có chiều rộng (xem xét tổng thể hành vi trong mối quan hệ với các nội dung liên quan, mối quan hệ nhân quả giữa nguyên nhân, hành vi và hậu quả của hành vi và tương quan giữa quy định của Việt Nam với pháp luật của các nước và quốc tế về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu) có thể thấy tính mới vượt trội của đề tài. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu bài bản, khoa học đề tài sẽ bảo đảm cơ sở cho việc ứng dụng kết quả nghiên cứu vào trong công tác bảo vệ và thực thi quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Đó là các lý do chính thúc đẩy tác giả nghiên cứu đề tài này. 3. Mục đích và mục tiêu nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu, đánh giá pháp luật hiện hành quy định về hành vi này và thực trạng xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Từ mục đích trên, luận văn đặt ra các mục tiêu nghiên cứu sau: - Đưa ra khái niệm và phân tích các đặc trưng của hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu theo pháp luật dân sự Việt Nam; - So sánh hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu với các hành vi vi phạm pháp luật khác có nhiều điểm tương đồng với hành vi này; - Phân tích các quy định pháp luật về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu theo Bộ luật Dân sự 2005, Luật SHTT 2005 và các văn bản liên quan; - Phân tích nội dung hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu; - Đánh giá quy định về xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu, thực trạng hành vi trên và đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: là một dạng hành vi vi phạm pháp luật, cụ thể là hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, Luật SHTT 2005 và các văn bản liên quan. Phạm vi nghiên cứu: trên cơ sở đối tượng nghiên cứu có thể xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài như sau: - Tập trung phân tích khái niệm, bản chất pháp lý của hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, Luật SHTT 2005 và các văn bản liên quan trong tương quan với các nội dung liên quan, các điều ước quốc tế và pháp luật các nước; - Nghiên cứu thực tiễn hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu để phát hiện những bất cập trong pháp luật điều chỉnh hành vi và đưa ra phương hướng khắc phục. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - Lênin để làm sáng tỏ các vấn đề pháp lý trong mối liên hệ với các vấn đề kinh tế, xã hội. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: so sánh pháp luật, lịch sử, phân tích, tổng hợp… 6. Những điểm mới của luận văn Qua quá trình nghiên cứu pháp luật Việt Nam về hành vi xâm phạm quyền SHCN, so sánh các quy định này với các quy định tương ứng trong các điều ước quốc tế, pháp luật các nước và nghiên cứu thực trạng của hành vi xâm phạm nhãn hiệu, luận văn có các điểm mới sau: - Luận văn phân tích một cách khoa học hệ thống khái niệm về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu theo pháp luật dân sự Việt Nam; - Luận văn so sánh những quy định của các điều ước quốc tế và pháp luật của các nước nhằm mục đích làm rõ bản chất pháp lý của hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu theo pháp luật dân sự Việt Nam; - Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu và hiện trạng xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu; - Luận văn đã đưa ra được một số phương hướng hoàn thiện pháp luật về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Chương 2: Những quy định của pháp luật hiện hành về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Chương 3: Thực trạng hành vi xâm phạm và phương hướng hoàn thiện pháp luật về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Chƣơng 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU 1.1. Khái niệm nhãn hiệu và hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu và phân biệt nhãn hiệu với các đối tượng khác 1.1.1.1. Khái niệm nhãn hiệu Xuất phát từ bản chất là dấu hiệu để phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại của các chủ thể kinh doanh khác nhau, nhãn hiệu ra đời trên cơ sở nền sản xuất hàng hoá nên lịch sử hình thành và phát triển của nó gắn bó chặt chẽ với lịch sử hình thành và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Dưới góc độ khoa học pháp lý, khi đưa ra khái niệm nhãn hiệu, chúng ta không những phải chú ý đặc điểm trên mà còn phải xem xét khái niệm này theo các giai đoạn lịch sử, các trường phái, hệ thống pháp luật trên thế giới. Vào thời Cổ đại, các nhãn hiệu đầu tiên đã xuất hiện tại Ấn Độ cách đây 3.000 năm, tại Trung Quốc và La Mã cách đây 2.000 năm dưới dạng các chữ ký, dấu hiệu trên các sản phẩm thủ công, mỹ nghệ… đem giao lưu trong nước hoặc trao đổi giữa các nước và nó đặc biệt phát triển vào thời Trung đại. Theo TS. Đào Minh Đức trong bài "Thương hiệu-lôgô-nhãn hiệu", nhãn hiệu (brand) bắt đầu từ việc đánh dấu sản phẩm bằng cách đốt tro (to burn) của người Ai Cập và La Mã nhằm "bảo đảm tín nhiệm và khả năng mua lại sản phẩm của khách hàng" [34]. Như vậy, nhãn hiệu khi mới ra đời chỉ là dấu hiệu đơn giản dùng để phân biệt hàng hoá của các thương gia và nhà sản xuất hơn là có giá trị về mặt kinh tế. Ở thời hiện đại, dựa trên chức năng chỉ dẫn nguồn gốc và chức năng phân biệt của nhãn hiệu, người ta định nghĩa: "Một nhãn hiệu hàng hoá là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hoá của doanh nghiệp này với hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh" [62]. Dựa trên chức năng phân biệt, có thể định nghĩa "Nhãn hiệu là một dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá của một doanh nghiệp này với hàng hoá của những doanh nghiệp khác" [62]. Đây là cách tiếp cận tại Mục 1(1)(a) của Luật Mẫu WIPO về Nhãn hiệu hàng hoá, Tên thương mại và Cạnh tranh không lành mạnh cho các nước phát triển năm 1967 cũng là cách tiếp cận phổ biến trên thế giới và ưu việt hơn các cách tiếp cận trên. Nguyên nhân là mặc dù chức năng nguồn gốc và chức năng phân biệt có sự gắn bó chặt chẽ, nhưng trong tương quan so sánh với chức năng nguồn gốc, chức năng phân biệt là chức năng chính, dễ nhận biết, tiếp cận, ghi nhớ hơn và quan trọng hơn vì nó gắn bó chặt chẽ với việc phân biệt hàng hoá thông qua việc nhãn hiệu được sử dụng trên thực tế. Khoản 1, Điều 15, Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền SHTT (TRIPS) quy định: Bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu... Các dấu hiệu phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu. Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt, các Thành viên có thể quy định khả năng được đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng... Các Thành viên có thể quy định điều kiện để được đăng ký là nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được [79]. Đây là khái niệm rất rộng. Nhãn hiệu theo quy định trên bao gồm nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ, không giới hạn ở nhãn hiệu được nhìn thấy mà có thể cả các nhãn hiệu được cảm nhận thông qua các giác quan khác miễn là nó "có khả năng phân biệt" và "có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu". Chức năng phân biệt của nhãn hiệu của nhãn hiệu có thể đạt được từ chính bản thân dấu hiệu cấu thành nhãn hiệu hoặc đạt được qua quá trình sử dụng. Khoản 1, Điều 6, Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 2001 về quan hệ thương mại (BTA) định nghĩa: Nhãn hiệu được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của một người với hàng hoá, dịch vụ của người khác, bao gồm từ ngữ, tên người, hình ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp màu sắc, các yếu tố hình, hình dạng của hàng hoá hoặc hình dạng của bao bì hàng hoá [79]. Khái niệm nhãn hiệu của Cơ quan Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) đưa ra dựa trên quy định của Luật nhãn hiệu của Hoa Kỳ (Lanham Act): Nhãn hiệu hàng hoá (trademark) là bất kỳ từ ngữ, tên gọi, biểu tượng, hình vẽ hoặc bất kỳ sự kết hợp nào được sử dụng hoặc nhằm mục đích sử dụng trong thương mại để nhận biết, phân biệt hàng hoá của người sản xuất, kinh doanh này với hàng hoá của người sản xuất, kinh doanh khác và chỉ ra nguồn gốc của hàng hoá. Nhãn hiệu dịch vụ (service mark) là bất kỳ từ ngữ, tên gọi, biểu tượng, hình vẽ hoặc bất kỳ sự kết hợp nào được sử dụng hoặc nhằm mục đích sử dụng trong thương mại để nhận biết, phân biệt dịch vụ của nhà cung cấp này với dịch vụ của nhà phân phối khác và chỉ ra nguồn gốc của dịch vụ [82]. Nhìn chung, hai khái niệm trên đều đưa ra những đặc điểm chung nhất của nhãn hiệu được hầu hết các quốc gia và TRIPS điều chỉnh. Nhãn hiệu bao gồm nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ ở dạng hai chiều hoặc dạng ba chiều, có cả chức năng nguồn gốc lẫn chức năng phân biệt. Với các nội dung khác, luật pháp Hoa Kỳ đều có cơ chế điều chỉnh bổ sung. Về tính phân biệt của sản phẩm đạt được thông qua quá trình sử dụng, Luật pháp Hoa Kỳ cho phép các nhãn hiệu không đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ (thoả mãn ngay từ đầu tính phân biệt) như trường hợp mang tính mô tả sản phẩm, đang được sử dụng và được đăng bạ tại sổ đăng bạ phụ (supplemental register) có thể được thừa nhận là có tính phân biệt nếu người chủ sở hữu chứng minh được rằng qua quá trình khai thác, tuyên truyền và tiếp thị, ý nghĩa mang tính mô tả ban đầu của nhãn hiệu đã bị thay thế bởi khái niệm nhận biết nguồn gốc sản phẩm. Trong trường hợp ấy, nhãn hiệu có thể được tiếp tục đăng ký vào sổ đăng bạ chính (principal register) áp dụng với các nhãn hiệu đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ. Về các loại nhãn hiệu không trực tiếp "nhìn thấy được" bằng mắt thường, mặc dù không trực tiếp đề cập trong khái niệm trên nhưng vẫn được pháp luật Hoa Kỳ thừa nhận và USPTO thực tế đã cấp rất nhiều nhãn hiệu đăng ký cho các nhãn hiệu âm thanh và mùi vị. Hoa Kỳ là nước đầu tiên cấp đăng ký cho nhãn hiệu mùi vị là nhãn hiệu mùi thơm tươi mát của Plumeria dùng cho chỉ may và thêu ren vào năm 1990 [62]. Philip Kotler, chuyên gia marketting hàng đầu thế giới, tương tự như vậy cũng cho rằng: "Nhãn hiệu là tên, thuật ngữ, dấu hiệu, biểu tượng, hình vẽ hay sự phối hợp giữa chúng, có công dụng dùng để xác nhận hàng hoá, dịch vụ của người bán và phân biệt chúng với các hàng hoá, dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh" [12]. Như vậy, đa số các khái niệm hiện đại trên đều đề thể hiện ba nội dung: về thuật ngữ, nhãn hiệu theo nghĩa rộng bao gồm cả nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ; về chức năng, nhãn hiệu có cả chức năng nguồn gốc và chức năng phân biệt trong đó chức năng phân biệt là cơ bản; về dấu hiệu, nhãn hiệu có thể gồm các dấu hiệu hình, chữ hoặc kết hợp giữa chúng ở dạng hai hoặc ba chiều. Đối với pháp luật Việt Nam, khái niệm nhãn hiệu cũng có sự thay đổi qua các thời kỳ. Giai đoạn trước năm 1975, Dụ số 5 ngày 01/4/1952 về nhãn hiệu của chính quyền Bảo Đại quy định về "nhãn hiệu" hay "thương hiệu" dùng cho sản phẩm hay thương phẩm, Luật số 13/57 ngày 01/8/1957 của Nghị viện Việt Nam Cộng Hoà về nhãn hiệu sản xuất và thương hiệu quy định "nhãn hiệu sản xuất" dùng cho các sản phẩm kỹ nghệ hoặc canh nông, Nghị định số 175/TTg của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 03/04/1958 về thể lệ nhãn hiệu thương phẩm quy định về "nhãn hiệu thương phẩm" dùng cho thương phẩm. Tuy nhiên, "nhãn hiệu" ở đây nghiêng về khái niệm "nhãn hàng hoá" nhiều hơn và chưa có sự phân biệt rõ với "thương hiệu". Giai đoạn từ năm 1975-2004, Nghị định số 197/HĐBT ngày 4/12/1982 của Hội đồng Bộ trưởng về việc ban hành Điều lệ về nhãn hiệu hàng hóa, Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp 1989, Bộ luật dân sự 1995 và các văn bản hướng dẫn thi hành đều thống nhất quy định: Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. "Tính phân biệt" của dấu hiệu đăng ký làm nhãn hiệu không chỉ được xem xét trên cơ sở bản thân dấu hiệu mà còn thông qua quá trình dấu hiệu được sử dụng rộng rãi (Điểm a, khoản 2, Điều 3 của Nghị định 197/HĐBT). Mặc dù là khái niệm pháp lý đầu tiên phản ánh đúng bản chất của nhãn hiệu nhưng nó cũng bộc lộ rất nhiều hạn chế. Nội dung khái niệm rất hẹp khi xếp các nhóm dấu hiệu bị coi là không có khả năng phân biệt vào nhóm các dấu hiệu không được chấp nhận là nhãn hiệu hàng hoá. Quy định về dấu hiệu giống hoặc tương tự cũng rất hẹp vì nó chỉ áp dụng cho "cùng một loại hàng hoá". Trong giai đoạn này, Quyết định số 191/QCXN ngày 06/4/1994 của Cục trưởng Cục SHCN (nay là Cục SHTT) về việc ban hành Quy chế xét nghiệm nhãn hiệu hàng hoá (Quyết định 191/QCXN) là một văn bản quan trọng vì nó đã cơ bản khắc phục được những hạn chế trên. Theo Điều 1, Quy chế, "Nhãn hiệu dùng để chỉ dấu hiệu thoả mãn tiêu chuẩn bảo hộ và dùng để chỉ chung nhãn hiệu hàng hoá và dịch vụ". Tiếp đó Mục 19 và 21 đã gián tiếp phân loại rõ ràng hai nhóm dấu hiệu không được bảo hộ, xác định tính chất phân biệt của dấu hiệu không chỉ dựa vào sự giống (trùng) và tương tự gây nhầm lẫn giữa dấu hiệu với nhãn hiệu mà còn dựa vào tiêu chí cùng loại (trùng) và tương tự về hàng hoá (sản phẩm) thuộc danh mục nhãn hiệu bảo hộ, trong đó có tính đến trường hợp đặc biệt của nhãn hiệu nổi tiếng. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay, Bộ luật Dân sự 2005 và Luật SHTT 2005 ra đời đã đánh dấu bước tiến mới trong quy định về nhãn hiệu. Theo đó, "Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau" (Khoản 16, Điều 4) Nhãn hiệu được bảo hộ nếu thoả mãn các điều kiện bảo hộ chung (Điều 72) : "Dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc; và có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác". "Tính phân biệt" của dấu hiệu đăng ký làm nhãn hiệu có thể đạt được từ chính bản thân dấu hiệu hoặc thông qua quá trình nó được sử dụng (Điều 74). Khái niệm nhãn hiệu nói riêng và quy định về nhãn hiệu nói chung trong Luật SHTT 2005 về cơ bản là phù hợp với quy định của TRIPS, BTA và đa số các nước. Đồng thời các quy định này cũng thể hiện sâu sắc kết quả của việc hệ thống hoá các quy định trong các văn bản trước một cách khoa học, rõ ràng và đầy đủ hơn. Từ các khái niệm trên, tác giả đưa khái niệm nhãn hiệu như sau: nhãn hiệu là những dấu hiệu có thể nhìn thấy được dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các chủ thể khác nhau. Trong đó, hình thức nhãn hiệu (dấu hiệu) và chức năng của nhãn hiệu (phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan