A. MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Thực trạng về vấn đề đổi mới dạy học môn Lịch sử ở trường phổ thông
Năm 2013, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 8 (Nghị quyết số 29-NQ/TW) với nội dung Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết nêu rõ mục tiêu:
Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả
năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm
việc hiệu quả.
Trước đó, Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa
VIII đã khẳng định: Vai trò của môn Lịch sử, cùng với các môn học khác thuộc khoa học
xã hội trong việc hình thành nhân cách toàn diện cho thế hệ trẻ. Trong đó, môn Lịch sử
vốn có vị trí, ý nghĩa đặc biệt, từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh (HS) hiểu rõ
truyền thống dân tộc, tự hào với những thành tựu dựng nước và giữ nước của tổ tiên, góp
phần làm mỗi HS thêm tự hào, gắn bó, yêu mến quê hương và ý thức được nghĩa vụ của
mình đối với quê hương, đất nước. Từ đó, giúp HS xác định vị trí trong hiện tại, có thái
độ đúng với sự phát triển hợp quy luật của tương lai.
Tiếc rằng, trong nhiều năm môn học Lịch sử chưa được chú trọng, thậm chí nhiều
giáo viên (GV) và HS còn xem là môn phụ, HS chỉ học chiếu lệ, đối phó; một số trường
phổ thông tỏ ra thờ ơ với việc dạy và học Lịch sử, còn GV giảng dạy thiếu nhiệt tình.
Hơn nữa, chương trình và sách giáo khoa Lịch sử ở trường phổ thông mặc dù đã
có nhiều đổi mới song vẫn còn nặng nề, đầy ắp các sự kiện, năm, tháng; kiến thức được
lặp đi lặp lại trong sách giáo khoa các cấp làm cho người dạy và người học nhàm chán.
Sách giáo khoa Lịch sử ở THPT mang tính hàn lâm, chưa hấp dẫn người học, kiến thức
còn dàn trải, nặng nề, khiến HS phải nhớ quá nhiều mà ít có tính tổng hợp, ít khái quát
những vấn đề cơ bản. Hơn nữa, với thời lượng ít ỏi, rất khó có điều kiện khắc sâu, phát
triển tư duy của học sinh. Chương trình Lịch sử chủ yếu theo thông sử, mà thiếu đi sự
giáo dục Lịch sử nhẹ nhàng thông qua các câu chuyện Lịch sử, các nhân vật Lịch sử, các
cuộc tham quan...
Về phía GV, mặc dù được đào tạo cơ bản, có ý thức học tập nâng cao nghiệp vụ
song vẫn thường sử dụng các kỹ thuật, phương pháp dạy học truyền thống, nhiều GV
-1-
chưa đầu tư xứng đáng cho môn học, vẫn còn chú trọng truyền thụ kiến thức theo kiểu
thuyết trình xen kẽ hỏi đáp, giảng giải kiến thức, ít phát huy tính tích cực và phát triển tư
duy HS; chỉ khai thác những câu chuyện, thông tin, sự kiện, tình huống có sẵn ở sách
giáo khoa, chưa tự tìm tòi những điều mới để đưa vào bài giảng của mình sao cho phù
hợp, sinh động.
Với xu thế dạy học “lấy HS làm trung tâm”, tăng cường phát huy tính tích cực
trong học tập mà trọng tâm là ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, công nghệ
thông tin thật sự có ưu thế hơn hẳn các phương tiện truyền thống trong việc truyền tải
các sự kiện Lịch sử sống động, thu hút sự chú ý của HS. Thực tế, công nghệ thông tin đã
phát huy tác động tích cực đối với tình hình dạy và học Lịch sử trong thời gian gần đây.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là phương pháp và phương tiện truyền thống
đã không còn phát huy tác dụng tốt như trước nữa, đặc biệt là đối với các môn khoa học
xã hội như ngữ văn, Lịch sử…Hơn nữa, do điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng trường,
từng GV khác nhau, không phải lúc nào và ở đâu GV cũng có đủ các điều kiện cần thiết
để soạn và giảng dạy tất cả các bài học trong chương trình bằng bài giảng điện tử.
Vì vậy, GV Lịch sử cần thiết phải kết hợp song song hai loại phương pháp dạy
học truyền thống và hiện đại. Vấn đề là phải kết hợp như thế nào để đạt hiệu quả, phù
hợp với đặc thù bộ môn Lịch sử, điều kiện thực tế ở từng nơi và có thể phát huy tính tích
cực của HS, tạo sự lôi cuốn trong mỗi tiết học Lịch sử.
Xuất phát từ những lý do trên và từ tình hình thực tế giảng dạy của bản thân, tôi xin
trình bày kinh nghiệm về vấn đề “Góp phần đổi mới dạy học Lịch sử ở trường trung học
phổ thông” với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Lịch sử ở THPT
hiện nay.
1.2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
- Việc hình thành, củng cố vững chắc kiến thức mới cho HS trong dạy học Lịch sử
ở trường THPT được thực hiện qua nhiều phương tiện khác nhau, trong đó không thể
thiếu vai trò dẫn dắt của người thầy
- GV sử dụng kết hợp hiệu quả nhiều biện pháp, phương tiện trong dạy học Lịch
sử góp phần tạo hứng thú học tập cho HS và HS phải thực hiện một chu trình hoạt động
trí tuệ, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo và khái quát hóa, hệ thống hóa kiến thức, góp phần phát
triển tư duy sáng tạo của HS trên cơ sở nắm vững kiến thức cơ bản.
-2-
- Hứng thú học tập và tiếp thu Lịch sử góp phần vào thực hiện nhiệm vụ giáo dục
tư tưởng, tình cảm, nhân cách của HS. Trong quá trình vận dụng một cách sáng tạo
những quan điểm, kiến thức Lịch sử để giải quyết vấn đề đặt ra, HS tiếp cận với chân lý
– phản ánh được hiện thực – và qua đó xây dựng niềm tin vững chắc vào sự phát triển
hợp quy luật của Lịch sử.
- Tạo hứng thú sẽ thu hút HS tham gia tích cực vào tiết học, hào hứng suy nghĩ và đi
tìm câu trả lời cho những thắc mắc. Quá trình học tập sẽ trở nên sôi động, thu hút HS và
phát huy năng lực tư duy và rèn luyện kĩ năng bộ môn cho HS, góp phần đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng “tích cực hóa hoạt động nhận thức” của HS, phát huy tính tích cực
của HS trong quá trình học tập, góp phần thiết thực thực hiện chủ trương đổi mới phương
pháp giảng dạy và học tập trong trường phổ thông hiện nay.
1.3. Phạm vi nghiên cứu
Thông qua việc kết hợp sử dụng các giải pháp có hiệu quả trong dạy học Lịch sử,
truyền thụ tốt những kiến thức Lịch sử cho HS, giúp HS lĩnh hội kiến thức Lịch sử quê
hương một cách chủ động tích cực sáng tạo, đồng thời góp phần cải tiến dạy học Lịch sử
theo phương pháp mới.
Trong năm học 2013 – 2014, tôi bước đầu nghiên cứu và ứng dụng trong giảng
dạy Lịch sử lớp 10 – chương trình chuẩn tại trường THPT số 1 Tuy Phước.
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
2.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu cấp thiết trong cải cách giáo dục.
Việc đổi mới phương pháp dạy học phải gắn liền với đổi mới giáo dục nói chung, bao gồm
đổi mới hệ thống giáo dục, nội dung và phương pháp dạy học với chủ trương đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng “khuyến khích tự học”, “áp dụng những phương pháp
giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho HS năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực giải quyết vấn
đề”, “khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người
học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và các phương tiện hiện đại vào quá
trình dạy học”. Luật Giáo dục còn khẳng định “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học…đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS”.
Mọi hoạt động của con người luôn có mục đích. Việc đạt đến mục đích nhanh hay
chậm, kết quả có chất lượng cao hay thấp…bên cạnh vai trò quyết định của phương pháp,
-3-
cách thức hoạt động, thì trạng thái tâm lý, thái độ, ý chí của người đó trong quá trình hoạt
động cũng giữ vai trò hết sức to lớn. Hoạt động với tinh thần sảng khoái, gây hứng thú
chắc chắn sẽ đạt hiệu quả như mong muốn
Trong xu thế chung đổi mới phương pháp dạy học của toàn ngành giáo dục thì
vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Lịch sử càng trở nên cấp thiết, gây hứng thú
cho HS trong giờ học Lịch sử góp phần nâng cao hiệu quả bài học Lịch sử, hạn chế tình
trạng HS “tẩy chay” Lịch sử. Đó cũng là điều thể hiện kết quả lao động, tài năng sư
phạm của người GV. Hầu hết GV đều nắm được những phương pháp dạy học Lịch sử,
nhưng việc áp dụng một cách linh hoạt thì còn nhiều tồn tại. Trong đó, các phương pháp
như nêu vấn đề, trực quan, ứng dụng công nghệ thông tin…đều có tác dụng rất tốt trong
vấn đề khai thác kiến thức, đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử.
2.2. Phương pháp nghiên cứu và thời gian nghiên cứu đề tài
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu thuộc khoa
học Lịch sử và khoa học giáo dục: Thiết kế bài tập dạy học, Lý luận dạy học, phương
pháp điều tra xã hội học thông qua việc trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp...
2.2.2. Khách thể nghiên cứu
HS lớp 10, trường THPT số 1 Tuy Phước
2.2.3. Thời gian thực hiện
Năm học 2013 – 2014, giảng dạy 4 lớp 10A1, 10A2, 10A5, 10A6; lớp 10A2 và 10A5
chọn làm lớp thực nghiệm; lớp 10A1 và 10A6 chọn làm lớp đối chứng
-4-
B. NỘI DUNG
I. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu thực trạng dạy và học môn Lịch sử của GV và HS trong nhà trường,
đưa ra một số phương pháp nhằm kích thích sự hứng thú trong học tập ở HS, từ đó tìm ra
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực
- Thiết kế và sử dụng hệ thống tình huống có vấn đề, bài tập nhận thức trong dạy
học Lịch sử giúp HS tự vận dụng kiến thức, suy nghĩ, tìm tòi để giải quyết vấn đề. Qua
đó, HS hiểu về các vấn đề Lịch sử, về mối liên hệ mật thiết giữa Lịch sử địa phương với
Lịch sử dân tộc, Lịch sử dân tộc với Lịch sử thế giới, các vấn đề Lịch sử đồng đại, đương
đại. Đó là cơ sở để HS nhận thức sâu sắc bước phát triển chung Lịch sử dân tộc và Lịch
sử thế giới.
- Sử dụng phù hợp nhiều biện pháp tạo hứng thú cho người học sẽ tăng hiệu quả
của quá trình dạy học, tăng cường phát huy tính tích cực của HS và góp phần đẩy lùi tình
trạng “đọc chép” trong dạy học Lịch sử. Hơn nữa hoạt động tích cực của HS là cơ sở để
hiểu được những biểu tượng Lịch sử và các khái niệm, các sự kiện, hiện tượng được đúc
kết ở các bài học.
1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nêu ra những kinh nghiệm, biện pháp tiến hành thiết kế và sử dụng hệ thống
tình huống có vấn đề, các đồ dùng dạy học, bài tập nhận thức trong giảng dạy chương
trình môn Lịch sử lớp 10 (chương trình chuẩn).
- Tổ chức thử nghiệm phương pháp dạy học mới để gây sự hứng thú trong giờ học
Lịch sử. Qua đó, cung cấp kiến thức, giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, và
giúp các em có ý thức phấn đấu học tập tu dưỡng, rèn luyện nhân cách.
- Sử dụng các biện pháp có hiệu quả để nâng cao chất lượng giảng dạy môn Lịch
sử ở trường THPT số 1 Tuy Phước nói riêng, các trường THPT trên địa bàn tỉnh Bình
Định nói chung.
II. GIẢI PHÁP
2.1. Khởi động tiết học bằng tình huống có vấn đề
GV khởi đầu một tiết dạy, một bài dạy bằng một tình huống hay sẽ gây thích thú,
HS hứng khởi cho HS. Tạo tình huống có vấn đề bằng hệ thống câu hỏi hay, sinh động
để kích thích sự tò mò của HS, tác động ngay từ đầu vào nhu cầu khám phá, giải quyết
-5-
cái mới của HS. Một sự khởi động tiết học qua vấn đề GV nêu ra, HS cảm nhận được
rằng sẽ có nhiều điều thú vị đang ở phía trước. Tình huống có vấn đề đặt ra không nhất
thiết phải buộc HS trả lời mà đó có thể là cách bắt đầu bài dạy hay dùng để chuyển mục,
chuyển ý... làm cho bài dạy thêm sinh động, có hệ thống
Trong quá trình GV và HS giải quyết vấn đề đặt ra, lại xuất hiện những vấn đề
mới, những tình huống mới... làm cho tư duy HS luôn “động”, luôn ở trong trạng thái
một dòng chảy liên tục, đầy say mê và hứng thú
Ví dụ
Ví dụ 1: Khi dạy bài đầu tiên của Lịch sử lớp 10: “Sự xuất hiện loài người và bầy
người nguyên thủy”. Đây là bài đầu tiên của chương trình môn Lịch sử THPT, GV có thể
bắt đầu tiết học bằng hệ thống tình huống có vấn đề như sau:
- Hôm nay, chúng ta bắt đầu tìm hiểu về bộ môn lịch sử, vậy theo các em lịch sử
bắt đầu từ khi nào? (Lịch sử bắt đầu từ khi con người xuất hiện) Từ khi có ý thức, con
người không ngừng tìm hiểu về nguồn gốc của chính mình, loài người sinh ra từ đâu, từ
bao giờ và như thế nào?
Những câu hỏi liên tiếp nảy sinh đã tạo cho HS sự tò mò, muốn khám phá và giải
quyết mâu thuẫn giữa cái đã biết với cái chưa biết. Tiếp đó, GV gợi ý cho HS nhớ lại về
những điều đã được nghe, được học về sự xuất hiện loài người như theo Kinh thánh của
đạo Ki-tô vốn rất nổi tiếng, những thần thoại, truyền thuyết ở Trung Quốc, Ấn Độ và Hi
Lạp...cho HS tranh luận rồi GV đi đến kết luận rằng mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi tôn giáo
đều có cách lý giải riêng, khác nhau, vậy thì chỉ có hai khả năng: hoặc chỉ có một trong
số đó đúng, hoặc tất cả đều sai. Ngày nay, chúng ta đang sống trong thời kì hiện đại,
khoa học phát triển rực rỡ, đã làm sáng tỏ rất nhiều vấn đề mà trước đây chúng ta không
thể biết được. Vậy, chúng ta cùng xem, khoa học nói thế nào về sự xuất hiện của loài
người.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 13: “Việt Nam thời nguyên thủy”, đây là bài mở đầu cho
phần Lịch sử Việt Nam, GV có thể bắt đầu tiết học bằng một tình huống có vấn đề:
- Như chúng ta đã biết, khu vực Đông Phi, Đông Á là nơi phát hiện nhiều hóa
thạch của người tối cổ, được xem là cái nôi của loài người. Việt Nam chúng ta thuộc khu
vực Đông Á, nằm trên con đường nối liền từ Bắc Kinh đến Gia-va, những nơi đã phát
hiện vết tích người tối cổ, vậy theo các em, ở nước ta có người tối cổ sinh sống không?
Có diễn ra quá trình tiến hóa từ vượn thành người như các nước trong khu vực không?
-6-
Tiếp đó, GV gợi ý HS để trả lời những thắc mắc trên, chúng ta cần tìm ra vết tích
của người tối cổ trên lãnh thổ Việt Nam, để chứng minh rằng ở nước ta, loài người xuất
hiện từ rất sớm và cư dân nước ta có nguồn gốc bản địa.
2.2. So sánh đối chiếu các vấn đề, các sự kiện Lịch sử
Để giờ học thêm hấp dẫn, lôi cuốn HS khám phá các kiến thức mới và để HS liên
kết các chuỗi sự kiện Lịch sử, GV nên đưa các câu hỏi nhằm đối chiếu, so sánh các vấn
đề, các sự kiện có nét tương đồng và khác biệt để HS nắm bắt và nhận thức về Lịch sử.
Để thực hiện được điều này, GV nên hướng dẫn HS thực hiện phương pháp thảo luận
nhóm để phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS. Qua đó, rèn luyện kĩ năng đánh giá,
phân tích, nhận định về các vấn đề, các sự kiện Lịch sử để tìm ra quy luật phát triển
chung. Ví dụ:
Trong bài 4 – Lịch sử 10 “Các quốc gia cổ đại phương Tây – Hi Lạp và Rô-ma”,
GV hướng dẫn HS so sánh, đối chiếu về các thành tựu văn hóa mà nhân dân phương
đông và phương tây cổ đại đạt được. Từ đó, rút ra kết luận về sự phát triển đạt đến độ
khái quát cao, mang tính hệ thống, của các thành tựu văn hóa phương tây cổ đại, khẳng
định đến đây, các hiểu biết đã trở thành khoa học.
Trong bài 23- Lịch sử lớp 10 “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất
nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII”
- Em hãy so sánh về đội quân xâm lược nước ta của quân Xiêm và quân Thanh
cuối thể kỉ XIX
- Em hãy nhận xét xem trong cách đánh giặc của Quang Trung – Nguyễn Huệ trong
các cuộc kháng chiến chống quân Xiêm và quân Thanh có gì giống và khác nhau. HS thảo
luận để đi đến kết luận là cả hai lần quân Tây Sơn đều dựa vào yếu tố bất ngờ làm cho địch
không kịp trở tay, quân ta toàn thắng mà thiệt hại ít về người và của.
Như vậy, GV đã tạo được tính tích cực cho HS. Nhưng trong giờ học, không có
phương pháp nào là vạn năng cả, GV phải kết hợp nhiều phương pháp thì mới thành công.
Với biện pháp đối chiếu so sánh, ta có thẻ giúp HS hiểu biết sâu các vấn đề, các sự kiện
Lịch sử nhưng để lôi cuốn HS vào tiến trình bài học Lịch sử một cách say mê thì cần phải
dùng thêm biện pháp nữa. Đó là kể chuyện Lịch sử có liên quan đến bài học.
2.3. Kể chuyện Lịch sử có liên quan đến bài học.
Mỗi bài học Lịch sử thường gắn liền vớ những con người, những sự kiện cụ thể,
nên sẽ thường có những mẩu chuyện gắn liền với cong người, sự kiện ấy.
-7-
Phương pháp này xuất phát từ đặc điểm tâm lí lứa tuổi HS rất tò mò, muốn khám
phá cái mới lạ, vì vậy, thường HS không chú ý đến toàn bộ bài giảng được. Để tránh sự
nhàm chán cũng như thay đổi không khí học tập và khơi gợi sự chú ý của HS, GV nên
dánh chút thời gian để kể cho các em những câu chuyện về cuộc đời, sự nghiệp của các
danh nhân Lịch sử, mở rộng thêm một số sự kiện đã được đề cập đến trong bài học nhằm
minh họa cho bài học một cách sinh động hơn. Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp này,
GV cần phải chú ý đến việc phải lựa chọn, cân nhắc kĩ những mẩu chuyện sẽ kể, đó phải
là những mẩu chuyện ngắn, tình tiết không quá phức tạp và thể hiện được chủ đề, nội
dung có liên quan chặt chẽ đến bài học, làm rõ thêm những vấn đề của bài học. Ví dụ:
Khi dạy bài 10 – Lịch sử 10: “Thời kì hình thành và phát triển chế độ phong kiến
ở Tây Âu”. Khi giảng về sự suy yếu, khủng hoảng của chế độ chiếm hữu nô lệ, GV nên
kể chuyện về cuộc sống của người nô lệ và cuộc khởi nghĩa Xpac-ta-cút. Từ đó, HS hiểu
được về sự bóc lột dã man, siêu kinh tế và mất nhân tính của chủ nô đối với nô lệ và tính
chính nghĩa của những cuộc đấu tranh giai cấp đầu tiên trong Lịch sử xã hội loài người.
Bài 11- Lịch sử 10: “Tây Âu thời hậu kì trung đại”, khi dạy về các cuộc phát kiến
địa lí, giai cấp dành ít thời gian để kể về những khó khăn mà các nhà thám hiểm gặp phải
trên đường đi, đặc biệt là đoàn thám hiểm của Ma-gien-lăng. Từ đó, giúp HS có thái độ
trân trọng những thành quả của các cuộc phát kiến địa lí.
Bài 19 – Lịch sử 10: “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ XXV”, GV có thể kể về việc đoàn kết trong nội bộ quý tộc Trần, câu chuyện về quan hệ
giữa Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn và Thượng tướng thái sư Trần Quang Khải và
chuyện Trần Quốc Toản bóp nát quả cam. Từ đó, giúp HS thấy được sự nổ lực, quyết tâm
đoàn kết chống giặc trong toàn bộ quý tộc, tôn thất nhà Trần nói riêng, trong toàn thể
nhân dân nói chung.
Bài 21- Lịch sử 10: “Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỉ
XVI – XVIII”, GV kể những mẩu chuyện ngắn về sự ăn chơi sa đọa, làm hao người tốn
của dẫn đến nạn đất nước hỗn loạn, nhân dân lầm than của Lê Tương Dực, Lê Uy Mục,
đến nỗi được người đời đặt biệt danh là Vua quỷ, vua lợn. Từ đó, giúp HS thấy được, nhà
Lê dù có rất nhiều đóng góp cho dân tộc, giờ đây đã không còn tác dụng tích cực đối với
sự phát triển của đất nước và cần được thay thế bởi một triều đại khác tiến bộ hơn.
Mỗi bài Lịch sử có thể kể nhiều câu chuyện, kể cho HS nghe những câu chuyện
nhỏ nhưng ý nghĩa lại vô cùng lớn. Song điều lớn nhất mà người GV đạt được, đó là sự
-8-
lôi cuốn HS trong giờ học Lịch sử, tránh sự nhàm chán, nặng nề của việc đọc chép, khô
khan và làm cho HS thích học Lịch sử hơn. Nhưng muốn đạt được mục đích đó, người
GV phải lập kế hoạch một cách chu đáo, lựa chọn kĩ càng các mẩu chuyện sẽ kể và phải
rèn luyện kĩ năng kể chuyện một cách hấp dẫn, lôi cuốn HS.
2.4. Ứng dụng công nghệ thông tin làm cho tiết học thêm sinh động
Không thể phủ nhận rằng, ngày nay, với sự phát triển không ngừng của công nghệ
thông tin đã góp phần không nhỏ trong việc đổi mới dạy học Lịch sử. Chỉ với phần mềm
powerpoint kết hợp với tranh ảnh, phim lịch sử sưu tầm được sẽ giúp GV dễ dàng cho
HS đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, say mê và hứng thú trong học tập.
Ví dụ
Giảng dạy bài 23: “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ
Tổ quốc cuối thế kỉ XVIII”, trong mục Kháng chiến chống Xiêm, GV hoàn toàn có thể
dựa vào tài liệu, sử dụng những nét vẽ cong, các kí hiệu có sẵn trong power point đê thiết
kế một lược đồ chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút đầy sống động trong 4 slide như sau
Slide 1: Địa hình đoạn sông Rạch Gầm – Slide 2: Quân Tây Sơn mai phục và tấn công
Xoài Mút
khiêu khích quân Xiêm
Slide 3: Quân Xiêm đuổi theo và lọt vào Slide 4: Quân Tây Sơn bất ngờ quay lại phản
trận địa mai phục
công, tập kích quân Xiêm từ 4 hướng
-9-
Qua sơ đồ động trên, HS dễ dàng hình dung được chiến lược, chiến thuật được
Nguyễn Huệ sử dụng trong trận Rạch Gầm- Xoài Mút là đánh chặn đầu, khóa đuôi, đánh
tiêu diệt. Quan sát diễn biến trên sơ đồ, HS như hòa mình vào diễn biến trận đánh, hồi
hộp chờ kết quả, nhìn chăm chú, say mê. GV không cần tường thuật chi tiết, HS vẫn có
thể hiểu được và khắc sâu toàn bộ diễn biến trận đánh lịch sử
2.5. Tăng cường sử dụng tranh ảnh ngoài sách giáo khoa để dạy học Lịch sử
Không phải lúc nào và ở bất kì đâu, GV cũng có điều kiện để sử dụng các phương
tiện hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin trong tiết học được. Vì vậy, nếu biết khai
thác, sử dụng hiệu quả tranh ảnh có ý nghĩa rất quan trọng là gây hứng thú học tập và
nâng cao hiệu quả dạy và học Lịch sử. Điều này tưởng khá đơn giản nhưng trên thực tế
vì nhiều lí do khác nhau mà không phải GV nào cũng thực hiện đúng, đủ theo yêu cầu.
ĐDTQ trong dạy học Lịch sử rất phong phú, đa dạng và được phân thành nhiều
loại, xong về cơ bản có 3 nhóm chính sau: Nhóm ĐDTQ hiện vật: là những di tích Lịch
sử và cách mạng, các di vật khảo cổ học, di vật Lịch sử; Nhóm ĐDTQ tạo hình: bao gồm
nhiều loại như đồ phục chế, mô hình, tranh ảnh, sa bàn… ; Nhóm ĐDTQ quy ước: gồm
có các loại bản đồ, lược đồ, niên biểu, đồ thị, các loại phương tiện kĩ thuật …Như vậy,
trong điều kiện cho phép của hầu hết GV phổ thông chỉ có thể sử dụng nhóm ĐDTQ quy
ước và các loại tranh ảnh. Nhóm ĐDTQ quy ước trước nay đã được nhiều GV chú ý sử
dụng và có nhiều kinh nghiệm. Vì vậy, tôi cố gắng tăng cường sưu tầm và sử dụng tranh
ảnh cả trong và ngoài sách giáo khoa. Tranh ảnh Lịch sử có thể tìm kiếm trên mạng
Internet mà đặc biệt là trong trang www.violet.vn chỉ cần đăng kí một tài khoản thì có thể
tự do chia sẻ tất cả tư liệu cũng như bài giảng đến mọi người. Sau đó chọn những ảnh
mình chưa có, ảnh to và mang đi in màu. Giá cả in một tấm ảnh màu không đắt từ 20005000 tùy chất lượng và có thể thể hiện rõ giá trị của bức tranh so với các tranh trắng đen.
Ví dụ:
Bài 7- Lịch sử lớp 10: “Sự phát triển Lịch sử và nền văn hóa đa dạng của Ấn Độ”,
GV dành một ít thời gian nói về biểu tượng cho sức sáng tạo văn hóa của người Ấn Độ Lăng Ta-giơ Ma-han (Taj Mahan). GV kết hợp sử dụng những ca ngợi của người đương
thời và thời sau về công trình này và cho HS xem 2 tấm ảnh chụp lăng vào bình minh và
hoàng hôn, HS sẽ dễ dàng hiểu người ta ca ngợi lăng có thể đổi màu trong ngày là như
thế nào? Từ đó, HS biết được sự diễm lệ của công trình và hiểu được tại sao đây là một
trong những kì quan lớn của thế giới
- 10 -
Lăng Taj Mahan vào buổi sáng
Lăng Taj Mahan lúc hoàng hôn
Bài 8-Lịch sử lớp 10: cho HS xem ảnh khu đền tháp Pa-gan, Ăng-co, Thạt Luổng,
HS so sánh và nhận xét những nét độc đáo của mỗi công trình. Từ đó GV nhấn mạnh về
điểm khác biệt trong các nền văn hóa. Tuy cùng chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ
nhưng mỗi nước tiếp thu theo một cách riêng, mang đậm bản sắc dân tộc.
Chùa Swedadon ở Mianma
Chùa Vàng ở Thái Lan
Chùa thuyền ở Campuchia
Angkor Wat ở Campuchia
- 11 -
Khu đền Pa-gan ở Mianma
Khu đền tháp Borobudur ở Indonesia
2.6. Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập nhận thức
2.6.1. Một số yêu cầu chung đối với bài tập nhận thức lịch sử
Khi xây dựng bài tập lịch sử, cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Bài tập nhận thức phải thể hiện nội dung cơ bản của bài học lịch sử
- Bài tập nhận thức phải đảm bảo tính vừa sức đối với học sinh
- Đảm bảo tính đa dạng của việc thiết kế bài tập nhận thức
- Đảm bảo tính hệ thống trong việc thiết kế bài tập nhận thức
2.6.2. Các bước tiến hành thiết kế, xây dựng bài tập nhận thức lịch sử
Bước 1: Xác định mục đích thiết kế, xây dựng bài tập nhận thức lịch sử (nhằm cải
tiến, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử, nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn)
Bước 2: Nghiên cứu kĩ chương trình, sách giáo khoa Lịch sử, lựa chọn kiến thức
cơ bản cần thiết kế, xây dựng bài tập nhận thức.
Bước 3: Xác lập hệ thống bài tập phù hợp với kiến thức từng bài, chương
Bước 4: Xác định nguồn tài liệu sử dụng (SGK,sách giáo viên, tài liệu tham khảo)
Bước 5: Tiến hành thiết kế bài tập, đảm bảo các nguyên tắc, yêu cầu trên
Bước 6: Kiểm tra bài tập và lập kế hoạch sử dụng
- Trong thực tế, nội dung của một khóa trình dạy học được tạo thành bởi các yếu
tố: mục đích, nội dung, người dạy và phương pháp truyền thụ. Xác định được mục đích,
nội dung chính của bài, chương, hay của một khóa trình lịch sử; cho phép chúng ta thiết
kế được một bài tập sát hợp với đối tượng, của chủ thể nhận thức. Lịch sử xã hội loài
người diễn ra quanh co khúc khuỷu với nhiều sự kiện chồng chéo, do đó bài tập nhận
thức sẽ tạo cho HS cơ hội nắm bắt được sự kiện chính, cơ bản và chính xác. Bài tập nhận
- 12 -
thức phải phản ánh được nội dung chính của bài mới đem lại hiệu quả giáo dục cao, hơn
nữa, phải xây dựng nhiều loại bài tập để vận dụng cho phù hợp với đối tượng HS.
Tùy vào hoàn cảnh cụ thể của từng trường học, lớp học và đối tượng học sinh và
căn cứ vào thời gian cho phép, GV có thể sử dụng một trong các bài tập hoặc toàn bộ bài
tập nhận thức đã được thiết kế và trong quá trình sử dụng, GV cân nhắc kĩ nên sử dụng
những bài tập nào cho từng đối tượng học sinh để mang lại hiệu quả dạy học tốt nhất.
Ví dụ:
Xây dựng và sử dụng một số bài tập trong bài 29: Cách mạng Hà Lan và cách
mạng tư sản Anh. GV và HS chỉ tập trung tìm hiểu về cách mạng tư sản Anh nên có điều
kiện, thời gian tìm hiểu sâu, giải quyết các bài tập nhận thức như:
Bài tập 1: Thông qua những kiến thức đã học về cách mạng tư sản Anh, hãy nêu
và phân tích đặc điểm của cuộc cách mạng này?
- Trước hết, HS cần xác định lại tiến trình cách mạng tư sản Anh để nhận thức
rằng: bằng lực lượng của quần chúng, cách mạng đã đập tan chế độ phong kiến, xác lập
chế độ tư bản chủ nghĩa, mở đường cho sức sản xuất mới phát triển
- Cách mạng tư sản Anh được tiến hành dưới sự lãnh đạo của một liên minh giữa
giai cấp tư sản và quý tộc mới. Đặc điểm này nảy sinh trên cơ sở liên hệ về mặt kinh tế.
Hai giai cấp tuy có nguồn gốc khác nhau, nhưng lại có cùng lợi ích kinh doanh tư bản
chủ nghĩa, do đó cùng có kẻ thù chung là chế độ phong kiến lỗi thời, lạc hậu.
- Cách mạng tư sản Anh mang tính bảo thủ, không triệt để, không giải quyết yêu
cầu của quần chúng nhân dân, không thủ tiêu hoàn toàn chế độ phong kiến. Chính giai
cấp tư sản cũng không dám duy trì nền cộng hòa mà phải liên minh với quý tộc phong
kiến thiết lập nền quân chủ lập hiến.
- Cách mạng tư sản Anh diễn ra dưới hình thức một cuộc nội chiến, mang màu sắc
tôn giáo nhưng đằng sau lớp áo tôn giáo đó vẫn là một cuộc đấu tranh kịch liệt giữa tư
sản và phong kiến, giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và phản cách mạng.
Bài tập 2: Phân tích và đánh giá vai trò của giai cấp tư sản trong cuộc cách mạng
tư sản Anh ở thế kỉ XVII.
- Từ những thành tựu mà cách mạng tư sản Anh đạt được, tiến hành phân tích và
đánh giá vai trò của giai cấp tư sản trong cách mạng.
- Trong giai đoạn đầu (1642-1648): giai cấp tư sản Anh đã khẳng định khả năng
lãnh đạo cách mạng, khả năng tập hợp quần chúng nhân dân của mình. Họ đã chứng tỏ
- 13 -
được tính cách mạng, tính tiên phong, kiên quyết đấu tranh xóa bỏ chế dộ phong kiến,
xây dựng một xã hội mới.
- Trong giai đoạn sau (1649 – 1688): giai cấp tư sản Anh bộc lộ tính bảo thủ, thỏa
hiệp, không muốn lãnh đạo cách mạng đi đến tận cùng. Họ đã quay lưng lại với quần
chúng nhân dân lao động, không thực hiện những cam kết trước đó. Sự thiết lập nền
quân chủ lập hiến thực chất là sự thỏa hiệp, san sẻ quyền lực giữa giai cấp tư sản và giai
cấp phong kiến.
- Qua việc đánh giá vai trò của giai cấp tư sản Anh trong cách mạng, góp phần
khẳng định đây là cuộc cách mạng tư sản không triệt để. Nó chưa xóa bỏ hoàn toàn chế
độ phong kiến, chưa thiết lập chính quyền hoàn thiện của giai cấp tư sản, chưa giải quyết
vấn đề ruộng đất cho nông dân và chưa xây dựng nguyên tắc của nền dân chủ tư sản.
Mặc dù, giai cấp tư sản Anh đã chứng tỏ được khả năng lãnh đạo của mình nhưng tính
bảo thủ, nửa vời của họ đã không thể đưa cách mạng đến thắng lợi hoàn toàn.
Sử dụng một số bài tập trong bài 31: Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII.
Bài này được bố trí trong 2 tiết dạy, GV và HS có điều kiện tìm hiểu sâu sắc, đầy đủ hơn
về cuộc Đại cách mạng này
Bài tập 1: Phân tích vai trò của giai cấp tư sản và quần chúng nhân dân trong cách
mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII.
- Xác định tiến trình cách mạng Pháp để đánh giá vai trò của giai cấp tư sản và
quần chúng nhân dân trong cách mạng
- Vai trò của giai cấp tư sản: Trong cuộc cách mạng, giai cấp tư sản là lực lượng
lãnh đạo cách mạng, nhưng trong quá trình phát triển của cách mạng, giai cấp tư sản
Pháp lần lượt bị phân hóa sâu sắc thành nhiều phái: phái Lập hiến, phái Gi-rông-đanh,
phái Gia-cô-banh...Phái Lập hiến lãnh đạo cách mạng bùng nổ, nắm chính quyền, nhưng
khi đã thỏa mãn yêu cầu, quyền lợi của mình thì ngả về phía triều đình phong kiến,
chống lại nhân dân. Phái Gi-rông-đanh cũng từng bước bộc lộ tính thỏa hiệp, không làm
cách mạng đến cùng. Phái Gia-cô-banh dựa vào quần chúng nhân dân, đưa cách mạng
đạt đến đỉnh cao, nhưng sau đó cũng xa rời quần chúng...
- Vai trò của quần chúng nhân dân: nhân dân Pháp, dưới ánh sáng của tư tưởng
triết học Ánh sáng, đã hăng hái tham gia cách mạng, đóng vai trò quyết định trong quá
trình phát triển và kết quả của cách mạng. Họ luôn thể hiện vai trò quyết định trong lúc
cách mạng gặp khó khăn, là động lực chủ yếu đưa cách mạng tư sản Pháp đạt đến đỉnh
- 14 -
cao (các sự kiện 14/7/1789, mở đầu cuộc cách mạng; 10/8/1792, lật đổ phái Lập hiến,
2/6/1793, lật đổ phái Gi-rông-đanh...)
Bài tập 2: Hãy lý giải và nhận xét về cái chết của Lu-i XVI và Rô-be-xpi-e trong
cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII?
- Để làm được bài tập này, trước hết cần phải hiểu rõ hoàn cạnh cụ thể của từng
giai đoạn trong cách mạng tư sản Pháp.
- Về cái chết của Lu-i XVI: Lu-i XVI là đại diện cho thế lực phong kiến lỗi thời,
lạc hậu và bảo thủ bậc nhất châu Âu. Lu-i XVI đã kiên quyết bảo vệ đặc quyền của mình,
chống phá cách mạng, trở thành kẻ phản bội lại nền độc lập dân tộc của nước Pháp. Vì
vậy, cách mạng Pháp xử tử Lu-i XVI là hoàn toàn đúng và cái chết của Lu-i XVI đã thúc
đẩy cách mạng tư sản Pháp phát triển tới bước cao hơn.
- Về cái chết của Rô-be-xpi-e: Ông là lãnh tụ của phái Gia-cô-banh, là người có
đóng góp to lớn trong việc đưa cách mạng tư sản Pháp đạt đến đỉnh cao, là người anh
hùng của cuộc cách mạng. Rô-be-xpi-e đại diện cho tư sản vừa và nhỏ, cho quyền lợi của
nhân dân lao động Pháp. Những chính sách của Rô-be-xpi-e đã đi quá xa so với mục
đích của cuộc cách mạng tư sản (đánh đổ phong kiến, đưa giai cấp tư sản nắm quyền, mở
đường cho chủ nghĩa tư bản phát triển) nên bị chính giai cấp tư sản sát hại. Cái chết của
Rô-be-xpi-e đánh dấu thời kì thoái trào của cách mạng tư sản Pháp.
Bài tập 3: Thông qua những kiến thức đã học trong bài Cách mạng tư sản Pháp
cuối thế kỉ XVIII, em hãy:
III. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
- Về cơ bản, những phương pháp dạy học Lịch sử trên không quá mới mẻ, không
đòi hỏi quá cao đối với người dạy và người học và có khả năng áp dụng ở nhiều loại hình
trường lớp, nhiều đối tượng HS. Các biện pháp, kinh nghiệm trên có thể áp dụng trong
hầu hết các bài học Lịch sử để tạo hứng thú học tập cho HS
- Trong giáo dục nói chung, giảng dạy Lịch sử nói riêng, không có phương pháp
nào là vạn năng cả. Vì vậy, trong quá trình dạy học, GV nên kết hợp nhiều phương pháp
để đạt được hiệu quả bài học.
- Việc tạo hứng thú học tập sẽ tăng cường phát huy tính tích cực trong dạy học
Lịch sử, góp phần hoàn thành mục tiêu đổi mới toàn diện dạy học phổ thông ở nước ta.
- Việc sử dụng có hiệu quả các biện pháp để nhận thức Lịch sử sẽ giúp HS mở
rộng kiến thức đã học, hiểu sâu sắc hơn các vấn đề Lịch sử nhằm phát huy tính tích cực,
- 15 -
hứng thú, say mê học tập bộ môn của HS, góp phần làm môn Lịch sử trở nên thân thiết,
gần gũi hơn với HS.
IV. HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP
4.1. Hiệu quả đạt được
- Hầu hết các em đều nắm được bài và tạo được sự hứng thú, say mê trong học tập
bộ môn của HS (đây là yếu tố quan trọng tạo sự thành công của người GV trong một tiết
dạy Lịch sử).
- Mở rộng, cung cấp cho HS nhiều kiến thức mới, sinh động ngoài kiến thức của
sách giáo khoa, tăng cường liên hệ kiến thức lịch sử đã học với tình hình thực tiễn.
Để đánh giá hiệu quả của giờ học, tôi đã cho các lớp làm bài kiểm tra 15 phút.
Các lớp thực nghiệm và đối chứng được chia nhóm dựa trên mức độ đồng đều, tương
đương của các lớp học nằm cùng nhóm với nhau. Cụ thể như sau:
Nhóm 1: Lớp 10A2 (thực nghiệm) và 10A1 (đối chứng)
Nhóm 2: Lớp 10A5 (thực nghiệm) và 10A6 (đối chứng)
Lớp
Số HS
Kết quả thực nghiệm
Yếu, kém Tr. Bình
Khá
Giỏi
SL / %
SL / %
SL / %
SL / %
05
16
20
04
11,1%
35,6%
44,4%
8,9%
00
08
29
08
0%
17,8%
64,4%
17,8%
11,1%
17,8%
20%
8,9%
10A1 Đối chứng
45
Thực nghiệm
10A2
45
Mức
Chênh lệch
10A6 Đối chứng
11
45
24,5%
Thực nghiệm
03
10A5
45
6,6%
Mức
17,9%
Chênh lệch
Như vậy, với nhiều biện pháp thích hợp
19
42,2%
21
46,7%
4,5%
15
33,3%
18
40%
6,7%
00
0%
03
6,7%
6,7%
có thể góp phần gây hưng thú, nâng cao
hiệu quả dạy học Lịch sử, góp phần vào đổi mới dạy học Lịch sử chương trình lớp 10 nói
riêng và chương trình THPT nói chung, đem lại hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học,
nâng cao chất lượng bộ môn.
4.2. Một số kinh nghiệm
Sau khi vận dụng một số biện pháp nhằm nâng tạo hứng thú , phát huy tính tích
cực trong dạy học Lịch sử, bản thân tôi rút ra được một số kinh nghiệm sau:
- 16 -
- Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông
hiện nay thì giải pháp hàng đầu là gây hứng thú cho HS, giúp HS nhận thấy Lịch sử
không quá khô khan, tẻ nhạt mà đầy thú vị
- GV cần chủ động tổ chức những hoạt động để HS có điều kiện phát huy tính tích
cực chủ động sáng tạo, huy động vốn hiểu biết sẵn có để tham gia các hoạt động; chú ý
rèn luyện tư duy ngôn ngữ và khả năng sáng tạo ở HS.
- Trong dạy học Lịch sử việc liên hệ, so sánh các sự kiện đồng đại, đương đại là
hết sức cần thiết để HS hiểu sâu sắc những nội dung được đề cập đến trong bài học, góp
phần thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ môn học.
- 17 -
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Dạy và học Lịch sử giúp HS hiểu về mảnh đất và con người nơi mình sinh ra và
lớn lên, hun đúc niềm tự hào, giáo dục truyền thống, nhận thức sâu sắc thêm Lịch sử dân
tộc. Việc tạo hứng thú, phát huy tính tích cực của HS không chỉ giúp bài học Lịch sử trở
nên sinh động và hấp dẫn trong dạy học Lịch sử mà còn cung cấp, mở rộng kiến thức
Lịch sử cho HS. Vì vậy trong mỗi tiết học, bài học Lịch sử GV bộ môn nên tuỳ vào yêu
cầu nội dung bài học để có phương pháp giảng dạy có hiệu quả.
Hình thức tổ chức, phương pháp, biện pháp sử dụng và hướng dẫn HS trong quá
trình dạy học là yếu tố cơ bản quyết định sự thành công của việc tạo hứng thú, phát huy
tính tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Điều này đòi hỏi nỗ lực đổi mới
của GV, việc này cần được thực hiện thường xuyên, vận dụng một cách mềm dẻo, linh
hoạt, sáng tạo trong tất cả các khâu của quá trình dạy học bộ môn để đạt hiệu quả cao.
Việc xây dựng hệ thống bài tập Lịch sử là điều kiện quan trọng để sử dụng có hiệu
quả bài tập nhận thức trong quá trình dạy học bộ môn ở trường THPT. Tùy theo nội dung
của bài học, chương trình, yêu cầu, trình độ và điều kiện học tập cụ thể mà tiến hành
thiết kế nội dung bài tập cho phù hợp nhằm phát huy tính tích cực nhận thức của HS.
Việc khó nhất đối với GV Lịch sử hiện nay là nghèo nàn về tư liệu. Thiếu tư liệu,
phương tiện, công cụ thì khó có thể minh họa cho các sự kiện, quá trình lịch sử thêm sinh
động, khó gây hứng thú học tập cho HS, để nâng cao chất lượng dạy và học Lịch sử
Tóm lại, những giải pháp được đề ra trên đây đều đặt yêu cầu khá cao về phía
người dạy – GV nên để thực hiện được những giải pháp này đòi hỏi sự cố gắng của
người GV, phải chịu khó sưu tầm tranh ảnh, đọc sách để thu thập những mẩu chuyện
Lịch sử hay, có ý nghĩa và phải chuẩn bị bài dạy một cách sáng tạo, tránh nhàm chán.
Tôi mạnh dạn đề xuất những kinh nghiệm bản thân có được trong quá trình dạy
học và mong rằng mỗi người GV Lịch sử nên cố gắng hơn nữa để HS không quay lưng
lại với Lịch sử và cao hơn nữa là yêu thích Lịch sử, góp phần giải quyết những vấn đề
còn tồn tại trong nhiều năm qua trong giảng dạy và học tập Lịch sử. Qua đó, đưa môn
học Lịch sử nói riêng, khoa học Lịch sử nói chung về đúng vị trí vốn có của nó trong
giáo dục và trong đời sống xã hội. Với những kết quả bước đầu, tôi mong nhận được sự
góp ý, chỉ bảo của quý thầy cô để đề tài được hoàn thiện và có khả năng ứng dụng rộng
rãi, tạo nên sự chuyển biến về nhận thức và giảng dạy Lịch sử ở cấp THPT trong tỉnh.
Xin chân thành cảm ơn!
Người viết
- 18 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí giáo dục Bộ GD&ĐT số 44/11/2002 về công tác bồi dưỡng GV dạy
sách giáo khoa mới, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học.
2. Sách giáo khoa Lịch sử 10- Nhà xuất bản giáo dục- Phan Ngọc Liên chủ biên
(2011)
3. Sách giáo viên Lịch sử 10 – Nhà xuất bản Giáo dục (2011)
4. Tìm hiểu kiến thức Lịch sử 10- Nhà xuất bản Giáo dục (2009)
5. Phương pháp dạy học Lịch sử - Nhà xuất bản Giáo dục – Phan Ngọc Liên chủ
biên – (2007)
6. Chuyên đề bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên Lịch sử - Trường ĐH sư
phạm Huế (2011)
7. Tư liệu dạy và học môn Lịch sử 10 – Nhà xuất bản Hà Nội (2007)
- 19 -
- Xem thêm -