Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật Việt ...

Tài liệu Điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam

.PDF
109
316
84

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ HẢI NHƯ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2009 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ HẢI NHƯ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành Mã số : Luật dân sự : 60 38 30 luận văn thạc sĩ luật học Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quế Anh Hà nội - 2009 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: Khái quát chung về nhãn hiệu và điều kiện bảo hộ quyền sở hữu 5 công nghiệp đối với nhãn hiệu 1.1. Khái quát chung về nhãn hiệu 5 1.1.1. Khái niệm 5 1.1.2. Chức năng 7 1.1.3. Phân loại 10 1.1.4. Phân biệt nhãn hiệu với một số chỉ dẫn thương mại khác 16 1.1.4.1. Phân biệt nhãn hiệu với tên thương mại 16 1.1.4.2. Phân biệt nhãn hiệu với chỉ dẫn địa lý 19 1.2. Khái quát chung về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 21 1.2.1. Cơ sở xây dựng điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 21 1.2.2. Khái niệm điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 23 1.2.3. ý nghĩa của điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 24 1.2.4. Điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật một số quốc gia trên thế giới 25 1.2.5. Quá trình hình thành và phát triển của các quy định 28 pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ quyền 32 sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 2.1. Những dạng dấu hiệu có khả năng được bảo hộ 32 2.2. Điều kiện về khả năng phân biệt của dấu hiệu 34 2.2.1. Khả năng tự phân biệt của dấu hiệu 38 2.2.2. Khả năng phân biệt thông qua sử dụng 47 2.2.3. Khả năng phân biệt với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ 51 2.2.3.1. Khả năng phân biệt của dấu hiệu với nhãn hiệu khác 51 2.2.3.2. Khả năng phân biệt với các đối tượng khác của quyền sở hữu trí tuệ 69 2.3. Điều kiện bảo vệ lợi ích cộng đồng Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM 75 82 HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU 3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 82 3.1.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trong giai đoạn thẩm định hình thức 83 3.1.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu trong giai đoạn thẩm định nội dung 87 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu 94 KẾT LUẬN 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT LSHTT : Luật Sở hữu trí tuệ NHHH : Nhãn hiệu hàng hóa NHTT : Nhãn hiệu tập thể SHCN : Sở hữu nghiệp SHTT : Sở hữu trí tuệ công DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu từ năm 2000 đến năm 82 bảng 3.1 2008 3.2 Kết quả thẩm định hình thức đơn đăng ký nhãn hiệu 84 3.3 Kết quả thẩm định nội dung đơn đăng ký nhãn hiệu 88 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) nói chung và nhãn hiệu nói riêng đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Quyền SHCN được bảo hộ là cơ sở pháp lý đảm bảo quyền và lợi ích của nhà sản xuất, kinh doanh, góp phần ngăn chặn và phòng ngừa hành vi xâm phạm quyền, hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ phía các chủ thể khác. Tuy nhiên, khác với tài sản thông thường, để được bảo hộ quyền SHCN, chủ sở hữu nhãn hiệu cần thực hiện thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thực tế cho thấy rằng, tuy các dấu hiệu được lựa chọn để sử dụng cho sản phẩm, dịch vụ rất phong phú, đa dạng song chúng chỉ có thể được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiệu khi và chỉ khi thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định. Hiện nay, các chủ thể kinh doanh tại Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của việc đăng ký nhãn hiệu nhưng chưa được trang bị kiến thức về điều kiện bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Có rất nhiều doanh nghiệp thiết kế nhãn hiệu không có khả năng tự phân biệt, trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng của chủ thể khác... Thậm chí có những doanh nghiệp phải gánh chịu những thiệt hại lớn về kinh tế khi đã tiến hành sản xuất, chào bán sản phẩm mang nhãn hiệu trên thị trường rồi mới nhận được thông báo từ chối cấp văn bằng bảo hộ. Bởi vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu cụ thể các điều kiện bảo hộ là yếu tố quan trọng không thể thiếu đối với mỗi cá nhân, tổ chức trong quá trình xây dựng nhãn hiệu. Ngoài ra, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đã và đang đặt ra những thách thức trong việc hoàn thiện điều kiện bảo hộ nhãn hiệu bởi một hệ thống quy định đầy đủ và toàn diện chính là phương thức hữu hiệu bảo vệ thành quả trí tuệ của doanh nghiệp, xây dựng niềm tin cho các cá nhân, tổ chức nước ngoài, thu hút đầu tư và là công cụ đắc lực để phát triển kinh tế. Với mong muốn nghiên cứu có hệ thống các quy định về điều kiện bảo hộ nhãn hiệu góp phần định hướng cho các chủ thể kinh doanh trong việc thiết kế, phát triển và đăng ký những dạng dấu hiệu có khả năng được pháp luật bảo hộ đồng thời đưa ra những kiến giải góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật SHTT, tác giả mạnh dạn chọn "Điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam" làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Ở Việt Nam, trước khi Bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời, do các yếu tố về lịch sử, xã hội và kinh tế, vai trò của pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) chưa thực sự được chú trọng, sự quan tâm của xã hội đối với lĩnh vực này rất hạn chế. Khoảng vài năm gần đây, bắt đầu xuất hiện ngày một nhiều hơn các công trình nghiên cứu, các sách, báo, tạp chí đề cập đến các khía cạnh của bảo hộ quyền SHTT nói chung và quyền SHCN đối với nhãn hiệu nói riêng. Điển hình như: "Pháp luật về sở hữu trí tuệ- thực trạng và hướng phát triển trong những năm đầu thế kỷ XXI" (Đề tài cấp Bộ, Bộ Tư pháp, 2000); "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoàn thiện khung pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong xu thế hội nhập quốc tế và khu vực" (Đề tài Đại học Quốc gia, 2002); "Nhãn hiệu hàng hóa trong pháp luật dân sự" (PGS.TS Đinh Văn Thanh, Luật gia Đinh Thị Hằng, Nxb Công an nhân dân, 2004); Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Luật: "Những vấn đề pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam"; Luận án tiến sĩ của tác giả Lê Mai Thanh: "Những vấn đề pháp lý về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam". Vấn đề này cũng được đề cập tới trong các hội thảo khoa học, bài báo và tạp chí chuyên ngành. Tuy nhiên, các công trình trên chưa tập trung nghiên cứu chuyên sâu về các khía cạnh cụ thể của bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Có thể nói, điều kiện bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu chưa từng được nghiên cứu một cách có hệ thống dưới góc độ một đề tài riêng, độc lập. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ về mặt lý luận, thực tiễn áp dụng các điều kiện bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu nhằm đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật. * Nhiệm vụ Với mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu như sau: - Khái quát chung về bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu và điều kiện bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu. - Phân tích các quy định cụ thể pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu trên cơ sở so sánh, đối chiếu với quy định của điều ước quốc tế và một số quốc gia trên thế giới. - Phân tích thực trạng áp dụng các quy định điều kiện bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu tại Việt Nam, từ đó đề xuất kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Trên cơ sở đó, liên hệ với quy định của một số quốc gia trên thế giới đồng thời đối chiếu so sánh với yêu cầu thực tiễn, yêu cầu của các cam kết quốc tế. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như: thu thập thông tin, thống kê, phân tích, so sánh… cũng được triệt để sử dụng nhằm tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu. 6. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ về phương diện lý luận trong khoa học chuyên ngành pháp luật dân sự, cụ thể hóa nội dung cơ bản của các điều kiện bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu. Một số kiến giải trong luận văn có ý nghĩa thực tiễn trong việc hoàn thiện khung pháp luật và cơ chế bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu đồng thời góp phần hướng dẫn các chủ thể kinh doanh thiết kế, phát triển và đăng ký những dạng dấu hiệu có khả năng được pháp luật bảo hộ. Luận cứ khoa học và thực tiễn được trình bày có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, phục vụ công tác chuyên môn của cán bộ ngành, trang bị kiến thức pháp lý cho doanh nghiệp trong việc xây dựng và bảo vệ nhãn hiệu. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU VÀ ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN HIỆU 1.1.1. Khái niệm Thuật ngữ nhãn hiệu hàng hóa (NHHH) được sử dụng lần đầu tiên trong một văn bản pháp luật quốc tế về bảo hộ quyền SHCN là Công ước Pari năm 1886. Tiếp đó, vào năm 1994, Hiệp ước luật nhãn hiệu được ký kết với mục tiêu đơn giản hóa và hài hòa hóa các quy định về thủ tục và yêu cầu hành chính của hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc gia và khu vực. Mặc dù không đưa ra một khái niệm cụ thể nhưng thông qua việc liệt kê các nhãn hiệu được áp dụng, Hiệp ước đã khẳng định các đặc tính bản chất của nhãn hiệu: "được cấu tạo bởi các dấu hiệu nhìn thấy được". Cũng tại Điểm b Khoản 1 Điều 2 của Hiệp ước quy định "Hiệp ước này không áp dụng đối với nhãn hiệu là ảnh chụp ba chiều và nhãn hiệu vô hình, cụ thể là nhãn hiệu âm thanh và nhãn hiệu mùi". Tuy nhiên, nhãn hiệu ba chiều sẽ được thừa nhận "với điều kiện là chỉ có những bên ký kết chấp nhận việc đăng ký nhãn hiệu ba chiều mới bắt buộc phải áp dụng Hiệp ước này đối với các nhãn hiệu đó". Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền SHTT (Hiệp định TRIPS) đã mang lại cho SHTT những đóng góp to lớn khi đưa ra khái niệm hoàn chỉnh về nhãn hiệu tại Khoản 1 Điều 15: Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình họa và tổ hợp các sắc màu cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa. Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ tương ứng, các thành viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được [26]. Như vậy, khái niệm nhãn hiệu đã được mở rộng phạm vi và cụ thể hơn rất nhiều so với Hiệp ước Luật nhãn hiệu. Trên cơ sở điều ước quốc tế đã ký kết và đáp ứng tình hình thực tiễn của đất nước, Bộ luật Dân sự Việt Nam đã định nghĩa: "Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc kết hợp của các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc" [36, Điều 785]. Có thể nói, quy định này đã thể hiện tính mở bởi việc sử dụng cụm từ "có thể là" hoàn toàn mang tính chất gợi ý, không bắt buộc. Khoản 1 Điều 6 Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã đưa ra khái niệm cụ thể và gắn với các chuẩn mực quốc tế hơn: Nhãn hiệu hàng hóa được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một người với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác bao gồm từ ngữ, tên người, hình ảnh, chữ cái, chữ số, tổ hợp màu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa. Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ, nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận [25]. Khi Luật SHTT (LSHTT) năm 2005 ra đời, lần đầu tiên thuật ngữ "nhãn hiệu" được sử dụng trong các văn bản pháp luật quốc gia bởi lẽ trước đây "nhãn hiệu hàng hóa" được hiểu là bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ. Điểm 16 Điều 4 LSHTT định nghĩa: "Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau" [35]. Như vậy, bất kỳ dấu hiệu nào thỏa mãn điều kiện phân biệt hàng hóa/dịch vụ cùng loại của các chủ thể khác đều được coi là nhãn hiệu. Tính mở và tính khái quát của quy định cho phép các loại dấu hiệu mới có thể được cấp văn bằng bảo hộ. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển không ngừng của khoa học và công nghệ, với sự xuất hiện ngày càng phong phú của các dạng dấu hiệu. Tuy nhiên, đặt trong trong bối cảnh của Việt Nam, quy định trên sẽ gây khó khăn cho quá trình áp dụng thống nhất pháp luật. Bởi vậy, Khoản 1 Điều 72 LSHTT đã thu hẹp phạm vi bảo hộ bằng việc quy định: "Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây: Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc" [35]. Việc quy định tách rời thành hai điều luật khác nhau là không cần thiết và có khả năng gây hiểu lầm cho các chủ thể khi lựa chọn các dấu hiệu đăng ký nhãn hiệu. Theo chúng tôi, có thể hợp nhất hai quy định này trong một khái niệm chung: Nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể kinh doanh khác nhau được thể hiện dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc. Nhìn chung, định nghĩa về nhãn hiệu trong pháp luật SHTT Việt Nam và các quốc gia trên thế giới có sự khác nhau nhất định nhưng đều phản ánh được đặc điểm mang tính bản chất của nhãn hiệu, đó là tạo khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các chủ thể khác nhau. 1.1.2. Chức năng Trong kinh doanh, nhãn hiệu luôn được coi là tài sản có giá trị nhất, là yếu tố quan trọng nhất trong chiến lược phát triển của mỗi doanh nghiệp. Điều này được lý giải bởi những chức năng đặc trưng, riêng có của nhãn hiệu. * Chức năng phân biệt Cách đây 4000 năm, thợ thủ công ở Trung Quốc, Ấn Độ và BaTư đã sáng tạo ra phương thức sử dụng chữ ký hoặc biểu tượng để phân biệt sản phẩm. Tuy đó chỉ là dấu hiệu tương đối thô sơ, đơn giản nhưng đã chứng tỏ rằng nhãn hiệu được hình thành để thực hiện chức năng phân biệt. Và kể từ đó tới nay, nó tiếp tục đóng vai trò là chức năng cơ bản và quan trọng nhất. Giả sử rằng chúng ta sống trong một thế giới mà mọi sản phẩm không sử dụng nhãn hiệu mà chỉ được dán danh mục thành phần cấu tạo, ngày sản xuất hay quảng cáo về đặc tính ưu việt, công dụng của sản phẩm. Khi đó, người tiêu dùng sẽ mất thời gian trong việc đọc và xử lý tất cả những danh mục chi tiết đó trong khi cũng khó có thể chắc chắn rằng thông tin của sản phẩm nào đáng tin cậy nhất. Nhãn hiệu ngay từ khi hình thành đã được coi như một hình thức tốc ký cô đọng và khái quát truyền đạt các thông tin về sản phẩm, dịch vụ, là dấu hiệu đầu tiên và dễ dàng nhất để phân biệt sản phẩm, dịch vụ của các cơ sở kinh doanh khác nhau. Ngày nay, với sự đa dạng của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường và vô vàn các thông tin khác nhau, người tiêu dùng luôn đứng trước muôn vàn sự chọn lựa. Sự tương tự về bề ngoài của các sản phẩm có thể che dấu sự khác biệt về đặc tính và chất lượng và họ cần một phương pháp để nhận biết sự khác biệt giữa các loại hàng hóa, dịch vụ. Nhãn hiệu được coi là con đường tắt làm khách hàng nhớ tới doanh nghiệp cũng như các sản phẩm của họ một cách nhanh nhất và có hiệu quả đồng thời giúp người tiêu dùng giảm chi phí, thời gian tìm kiếm thông tin về những sản phẩm, dịch vụ có giá trị, chất lượng như mong muốn. Khi mua một sản phẩm hay sử dụng một dịch vụ, người tiêu dùng thường quan tâm tới việc ai là người sản xuất hoặc ai là nhà cung cấp. Ví dụ: mua quần áo gắn nhãn hiệu "Việt Tiến", người ta biết ngay Tổng công ty may Việt Tiến là nhà sản xuất hay khi mua sản phẩm mang nhãn hiệu "Samsung", người ta biết do Công ty Samsung cung cấp và phân phối. Khách hàng có thể yên tâm về xuất xứ của sản phẩm và xác định được chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý khi xảy ra vi phạm, tranh chấp. * Chức năng đảm bảo chất lượng của sản phẩm, dịch vụ Một nhãn hiệu có đẳng cấp, đã được chấp nhận sẽ tạo ra sự tin cậy đối với khách hàng. Đại đa số người tiêu dùng đều không muốn mình là người thử nghiệm đối với một nhãn hiệu mới trong khi họ đã có sự trải nghiệm, hài lòng về một nhãn hiệu khác cho loại hàng hóa tương tự. Một nhãn hiệu được người tiêu dùng được người tiêu dùng chấp nhận và tin tưởng sẽ góp phần tạo ra lợi nhuận rất lớn cho chủ sở hữu. Tata - quan chức điều hành cao cấp của một tập đoàn ấn Độ đã khẳng định: "Khi nền kinh tế phát triển và người tiêu dùng có sức mua lớn hơn, dân chúng không mua sản phẩm. Họ mua một lời hứa. Nhãn hiệu chỉ là sự diễn đạt một lời hứa" [30, tr. 153]. "Lời hứa" về chất lượng không được bảo đảm sẽ ảnh hưởng tới niềm tin của người tiêu dùng và "lòng trung thành" của họ không phải là bất biến. Nếu chủ sở hữu nhãn hiệu không đầu tư vào chất lượng, duy trì và cải tiến sản phẩm, dịch vụ thì khó có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng cũng như giữ vững được thị phần trên thị trường. * Chức năng quảng cáo và tiếp thị Nhãn hiệu là cách thức cô đọng dùng để chỉ sản phẩm, dịch vụ nên luôn được coi là công cụ tiếp thị hữu hiệu, phương tiện quảng cáo, xúc tiến thương mại nhằm khuếch trương sản phẩm, dịch vụ mang nhãn hiệu. Trong quảng cáo, việc sử dụng nhãn hiệu sẽ góp phần giảm lượng thông tin cần truyền đạt cũng như chí phí liên quan. Đồng thời, sự phát triển của nhãn hiệu được quảng cáo sẽ mang lại động lực cho chủ sở hữu nhãn hiệu trong việc đảm bảo chào bán hàng hóa có chất lượng cao, tạo ra cảm giác tin tưởng của người tiêu dùng về quảng cáo trung thực 1.1.3. Phân loại * Căn cứ vào tính chất của hàng hóa, dịch vụ; nhãn hiệu bao gồm: Nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ. Nhãn hiệu hàng hóa: Là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau hay nói cách khác NHHH là dấu hiệu được đăng ký bảo hộ cho sản phẩm. Trước khi LSHTT năm 2005 có hiệu lực, NHHH được hiểu là bao gồm cả nhãn hiệu dịch vụ. Nhãn hiệu dịch vụ: Là những dấu hiệu dùng để phân biệt dịch vụ này với dịch vụ khác hoặc giữa các dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Dịch vụ được coi là dạng hàng hóa đặc biệt có tính chất vô hình mà khi người có nhu cầu sử dụng dịch vụ trả tiền sẽ thu được một lợi ích nhất định tương ứng với chi phí đã bỏ ra. Hiện nay, để phục vụ cho công tác thẩm định nhãn hiệu, các quốc gia trên thế giới đang áp dụng Bảng phân loại quốc tế về hàng hóa và dịch vụ NICE với 45 nhóm khác nhau, trong đó có 34 nhóm sản phẩm và 11 nhóm dịch vụ. * Căn cứ vào số lượng chủ thể quyền, nhãn hiệu được chia thành: nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu thuộc về một chủ sở hữu Nhãn hiệu thuộc về một chủ sở hữu là nhãn hiệu được cấp văn bằng bảo hộ cho một tổ chức, cá nhân duy nhất và chỉ có tổ chức, các nhân đó mới có quyền sở hữu nhãn hiệu. Đây là dạng nhãn hiệu phổ biến nhất, thường gặp nhất trong quá trình thẩm định nhãn hiệu. Nhãn hiệu tập thể (NHTT) là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các thành viên của tổ chức là chủ sở hữu nhãn hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của tổ chức đó (Khoản 17 Điều 4 LSHTT). Tổ chức tập thể được thành lập hợp pháp có quyền đăng ký NHTT để các thành viên của mình sử dụng theo quy chế chung mang tính chất ràng buộc. Quy chế sử dụng NHTT là lài liệu không thể thiếu trong đơn đăng ký và bất kỳ sự thay đổi nào cũng phải được thông báo với cơ quan đăng ký nhãn hiệu. Trong trường hợp chủ giấy chứng nhận đăng ký NHTT không kiểm soát hoặc kiểm soát không có hiệu quả việc thực hiện quy chế thì văn bằng bảo hộ có thể bị chấm dứt hiệu lực (Điều 95 LSHTT). Tại một số quốc gia như Đức, Phần Lan, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ, NHTT có thể bị hủy bỏ nếu nhãn hiệu được sử dụng trái với quy chế hoặc có tính chất lừa dối công chúng. Bởi vậy, NHTT đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ người tiêu dùng, chống lại các hành vi gian dối. Điểm đặc trưng của NHTT là từng thành viên đều có quyền sử dụng NHTT trong nhãn hiệu riêng của mình. Ví dụ: VINATABA là NHTT được đăng ký cho sản phẩm thuốc lá của Tổng công ty thuốc lá Việt Nam, các thành viên của Tổng công ty đều sử dụng nhãn hiệu này bên cạnh các thành phần khác do họ thiết kế. Điều này cho phép phân biệt hàng hóa của chính doanh nghiệp với hàng hóa của các đối thủ cạnh tranh khác, trong khi cùng thu được lợi ích từ sự tin tưởng của người tiêu dùng đối với hàng hóa hoặc dịch vụ mang NHTT. NHTT thường gắn liền với các chủng loại hàng hóa nhất định của nhiều doanh nghiệp khác nhau trong một liên kết kinh tế, kỹ thuật và tính đại diện được phát triển chủ yếu theo chiều sâu. Kể từ sau khi LSHTT có hiệu lực, dấu hiệu có chứa chỉ dẫn nguồn gốc địa lý được đăng ký dưới dạng NHTT ngày càng tăng, chẳng hạn như: nhãn hiệu "Chè Thái Nguyên", "Hồ tiêu Chư Sê, "Hủ tiếu Mỹ Tho" Đăng bạ quốc gia số 77941 cấp ngày 26/12/2006 Đăng bạ quốc gia số 86138 cấp ngày 14/08/2007 Đăng bạ quốc gia số 116255 cấp ngày 16/12/2008 * C¨n cø vµo møc ®é næi tiÕng cña nh·n hiÖu, nh·n hiÖu ®-îc chia thµnh nh·n hiÖu næi tiÕng vµ nh·n hiÖu th-êng víi nh÷ng ®iÒu kiÖn, ph¹m vi b¶o hé kh¸c nhau ThuËt ng÷ "nh·n hiÖu næi tiÕng" lÇn ®Çu tiªn ®-îc ®Ò cËp tại Điều 6bis Công ước Pari 1883 về bảo hộ quyền SHCN. Theo đó, các nước thành viên phải có nghĩa vụ bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng theo một chế độ đặc biệt. Năm 1994, Hiệp định TRIPS đã được ký kết và có hiệu lực từ ngày 1.1.1995 đã tái khẳng định các quy định bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng mà Điều 6 bis của Công ước Paris đã quy định, đồng thời đưa việc bảo hộ nhãn hiệu này lên một mức cao hơn và cụ thể hơn. Trên cơ sở đó, hầu hết các nước trên thế giới là thành viên của Công ước Paris đều quy định bảo hộ các nhãn hiệu nổi tiếng, nhưng nội dung và cách thức bảo hộ không đồng nhất. Một số quốc gia phân chia mức độ nổi tiếng thành nhiều cấp độ, chẳng hạn như: Cộng đồng châu Âu có "nhãn hiệu nổi tiếng" và "nhãn hiệu có danh tiếng"; Nhật Bản có "nhãn hiệu nổi tiếng" và "nhãn hiệu rất nổi tiếng"… Tuy nhiên, đa số các nước đều sử dụng một khái niệm "nhãn hiệu nổi tiếng". Ở Việt Nam, bên cạnh nhãn hiệu nổi tiếng còn tồn tại khái niệm nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên nội hàm khái niệm và tiêu chí bảo hộ vẫn chưa được quy định cụ thể tại bất kỳ văn bản luật và dưới luật. Khoản 20 Điều 4 LSHTT Việt Nam quy định: "Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam" [35]. Một nhãn hiệu được coi là nổi tiếng có thể được sử dụng trên thị trường Việt hoặc chưa từng được sử dụng hoặc đăng ký tại Việt Nam. Trước đây, "quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng phát sinh trên cơ sở quyết định công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền" [9, Khoản 3 Điều 8], nhưng sau khi LSHTT có hiệu lực, quyền sở hữu xác lập trên cơ sở sử dụng và không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Như vậy, có thể thấy rằng: khác với nhãn hiệu thường, nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ không thông qua thủ tục xác lập quyền SHCN. Khi một nhãn hiệu được coi là nổi tiếng, phạm vi bảo hộ sẽ rộng hơn so với nhãn hiệu thường. Điều 6 bis Công ước Paris khẳng định: Một nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng có thể coi là xâm phạm nhãn hiệu này kể cả trường hợp hàng hóa, dịch vụ được sử dụng không trùng với hàng hóa, dịch vụ của nhãn hiệu nổi tiếng nếu có nguy cơ làm hiểu lầm là có sự liên quan với chủ nhãn hiệu nổi tiếng và có nguy cơ gây tổn hại cho lợi ích của chủ thể này. Trong thực tế, nhiều cá nhân, tổ chức do không nhận thức được vấn đề này nên đã đăng ký các dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng và đương nhiên bị từ chối cấp văn bằng bảo hộ. Trên thế giới, cơ quan có thẩm quyền công nhận nhãn hiệu nổi tiếng thường là cơ quan SHCN quốc gia và tòa án. Hầu như các nước không luật hóa các tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng mà giải quyết theo từng vụ việc cụ thể trong quá trình cấp đăng ký nhãn hiệu hoặc xét xử tranh chấp tại tòa. * LSHTT còn xây dựng những quy định tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, trong đó có nhãn hiệu liên kết và nhãn hiệu chứng nhận Với chức năng phân biệt sản phẩm, dịch vụ của các chủ thể kinh doanh khác nhau, giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu chỉ được cấp cho một cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, quá trình hội nhập và phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần đã mang lại những phương thức sử dụng nhãn hiệu ngày càng đa dạng. Từ thực tiễn đó, pháp luật Việt Nam đã thừa nhận những biến thể của nhãn hiệu và bổ sung các quy định về NHTT, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu liên kết. Nhãn hiệu chứng nhận được quy định khá hoàn chỉnh tại Khoản 18 Điều 4 LSHTT với nội dung: Nhãn hiệu chứng nhận là nhãn hiệu mà chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng trên hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân đó để chứng nhận các đặc tính về xuất xứ, nguyên liệu, vật liệu, cách thức sản xuất hàng hóa, cách thức cung cấp dịch vụ, chất lượng, độ chính xác, độ an toàn hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu [35]. Như vậy, nhãn hiệu chứng nhận không đóng vai trò phân biệt nguồn gốc thương mại sản phẩm, dịch vụ như nhãn hiệu thông thường mà nhằm xác định một nhãn hiệu đáp ứng những tiêu chuẩn cụ thể mà chủ sở hữu đã đặt ra. Đăng bạ quốc gia số 106507 Đăng bạ quốc gia số 111615 Đăng bạ quốc gia số 124661 cấp ngày 05/08/2008 cấp ngày 21/10/2008 cấp ngày 12/05/2009 Còng gièng nh- NHTT, c¸c chñ thÓ kinh doanh cã thÓ g¾n nh·n hiÖu chøng nhËn vµo nh·n hiÖu riªng cña m×nh vµ ®¨ng ký t¹i c¬ quan nhµ n-íc cã thÈm quyÒn. Tuy nhiªn, NHTT chỉ có thể được sử dụng bởi các chủ thể là thành viên của hiệp hội sở hữu NHTT, trong khi nhãn hiệu chứng nhận thường được sử dụng bởi bất kỳ đối tượng nào đáp ứng các tiêu chuẩn xác định và được chủ sở hữu chấp thuận mà không có hạn chế bất kỳ về tư cách thành viên. Trong hoạt động kinh doanh, mọi cá nhân, tổ chức có thể sản xuất một hoặc nhiều loại sản phẩm hoặc cung cấp một hoặc nhiều hình thức dịch vụ tương tự nhau tùy thuộc vào khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật, nhu cầu của thị trường. Để tạo điều kiện cho các chủ thể đó, pháp luật dành cho họ khả năng đăng ký bảo hộ nhãn hiệu liên kết. Ở Việt Nam, nhãn hiệu liên kết lần đầu tiên được ghi nhận tại Nghị định 63/CP được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 06/NĐ-CP: Nhãn hiệu liên kết là các nhãn hiệu hàng hóa tương tự với nhau do cùng một chủ thể đăng ký để dùng cho các sản phẩm, dịch vụ cùng loại, tương tự với nhau hoặc có liên quan tới nhau, và các nhãn hiệu hàng hóa trùng nhau do cùng một chủ thể đăng ký để
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan