Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Địa vị pháp lý của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự...

Tài liệu Địa vị pháp lý của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự

.PDF
97
250
125

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân, chưa từng công bố trong một công trình khoa học của người khác. Các tài liệu tham khảo được trích dẫn một cách hợp pháp. Ngƣời viết Lê Thị Thanh Loan 2 LỜI CẢM ƠN Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Tiến sĩ Luật học Nguyễn Ngọc Khánh – Viện khoa học kiểm sát – Viện kiểm sát nhân dân tối cao, người đã hướng dẫn khoa học và tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành Luận văn này. Tôi cũng xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô giảng viên Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội và các thầy, cô cộng tác viên giảng dạy tại Khoa, những người đã tận tình dìu dắt và truyền đạt lại những kiến thức khoa học pháp lý bổ ích cho tôi trong suốt khoá học. Xin cảm ơn gia đình, người thân và các bạn đồng môn, đồng nghiệp đã luôn ở bên cạnh động viên và cổ vũ tôi trong quá trình thực hiện Luận văn này. Lê Thị Thanh Loan 3 MỤC LỤC Trang bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục Danh mục bảng biểu PHẦN MỞ ĐẦU Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIẾM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ máy Nhà nước 1.2. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự 1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự 1.2.2. Vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự 1.2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Chương 2. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Trang 1 2 3 4 6 7 12 12 15 15 17 22 26 TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1.Khái quát quá trình phát triển của pháp luật nước ta về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự 2.1.1. Giai đoạn từ 1945 – 1959 2.1.2. Giai đoạn từ 1959 – 1989 2.1.3. Giai đoạn từ 1989 – 2002 2.1.4. Giai đoạn từ 2002 - trước khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 2.2. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành 2.2.1. Vị trí, chức năng, phạm vi tham gia phiên toà của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự hiện hành 2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Viện kiểm sát trong 4 26 26 27 29 39 40 42 46 tố tụng dân sự hiện hành 2.2.2.1. Thẩm quyền tham gia tố tụng tại phiên toà, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự 2.2.2.2. Thẩm quyền kháng nghị các bản án, quyết định của toà án 2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân 2.3.1. Những kết quả đã đạt được 2.3.2. Những bất cập trong việc áp dụng pháp luật về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự hiện hành Chương 3. HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT 48 50 54 54 58 66 NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 3.1. Những vấn đề đặt ra đối với việc hoàn thiện địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự 3.1.1. Hoàn thiện địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp 3.1.2. Hoàn thiện địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự trên cơ sở đòi hỏi từ thực tiễn cuộc sống 3.1.3. Hoàn thiện địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự trên cơ sở tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài 3.2. Những đề xuất cụ thể 3.2.1. Về thẩm quyền của Viện kiểm sát khi tham gia tố tụng nhằm bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng, lợi ích của những cá nhân không có khả năng tự thực hiện quyền dân sự và/hoặc không thể tự bảo vệ mình 3.2.2. Về thẩm quyền của Viện kiếm sát khi tham gia tố tụng với vị trí là người bảo vệ luật pháp và lợi ích của luật 66 PHẦN KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91 93 5 66 68 72 84 85 87 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1 Bảng số liệu về sự tham gia của Viện kiểm sát trong các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình cấp sơ thẩm. Bảng 2.2 Bảng số liệu về sự tham gia của Viện kiểm sát trong các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình ở cấp phúc thẩm. Bảng 2.3 Bảng số liệu về sự tham gia phiên toà của Viện kiểm sát trong các vụ án kinh doanh, thương mại và lao động ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Bảng 2.4 Bảng số liệu về sự tham gia phiên toà của Viện kiểm sát trong các vụ án kinh doanh, thương mại và lao động ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm. 6 PhÇn më ®Çu 1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài. Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt nam qua các thời kỳ, Bộ máy Nhà nước và hệ thống pháp luật của nước ta cũng không ngừng phát triển và ngày càng được hoàn thiện để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong mỗi giai đoạn cụ thể. Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng non trẻ, Viện công tố (tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân ngày nay) đã được thành lập nằm trong hệ thống Toà án nhân dân với những chức năng, nhiệm vụ hết sức quan trọng góp phần bảo vệ thành quả và chính quyền cách mạng. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong bộ máy nhà nước và trong các hoạt động tố tụng đã có nhiều thay đổi lớn lao cùng với sự thay đổi của đất nước và đòi hỏi của xã hội. Nếu như quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự tương đối ổn định, dường như không có thay đổi gì nhiều thì trong tố tụng dân sự lại có những chuyển biến sâu sắc, tạo nên nét đặc sắc trong tổ chức và thực thi quyền lực của nước ta. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là một chế định có từ sớm trong lịch sử lập pháp nước ta nhưng chưa thực sự đi vào cuộc sống khi đất nước còn đang trong giai đoạn chiến tranh, lúc này nhiệm vụ trung tâm là giải quyết các vụ án hình sự, cho nên các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự được quy định chặt chẽ và đầy đủ hơn. Trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế mà nước ta đang tiến hành hiện nay thì vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là một nội dung rất quan trọng, một mắt xích quan trọng trong công cuộc cải cách tư pháp. Do vậy, nghiên cứu một cách cụ thể và toàn diện về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là một việc làm cần thiết góp phần thực hiện thành công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt nam xã hội chủ nghĩa. Việc xác định địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự có ý nghĩa quan trọng, xét cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn, bởi điều đó 7 không những góp phần vào việc xây dựng một hệ thống lý luận về hoạt động tư pháp nói chung và tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng mà còn góp phần vào việc xây dựng các văn bản pháp luật về Viện kiểm sát, về tố tụng dân sự cũng như việc hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ của ngành kiểm sát. Trong tố tụng dân sự, chế định địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân không chỉ liên quan và ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân mà còn liên quan đến những chế định quan trọng khác như chế định Toà án nhân dân, chế định chứng cứ và chứng minh, trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên toà. Vì thế, có thể nói rằng thành công hay hiệu lực, hiệu quả của thủ tục tố tụng dân sự phụ thuộc một phần vào việc xác định đúng đắn chế định địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Trong khoa học pháp lý hiện nay, mô hình lý luận về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự vẫn chưa được xây dựng một cách thống nhất. Giữa các nhà khoa học vẫn diễn ra các cuộc tranh luận chưa dứt về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Một khi địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự vẫn chưa được nhận thức một cách đúng đắn, phù hợp với bản chất của quan hệ dân sự thì hiệu quả điều chỉnh của pháp luật cũng sẽ khó đạt được. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là một trong những nội dung quan trọng nhưng không kém phần phức tạp của khoa học luật tố tụng dân sự song thực tế chưa được quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống. Trong sách báo pháp lý ở nước ta có một số ít bài viết có đề cập tới chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự ở những góc độ khác nhau nhưng chưa đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Trong các giáo trình giảng dạy ở bậc cử nhân của các trường chuyên ngành Luật thì vấn đề địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự mới chỉ trình bày ở mức độ khái quát nhất về mặt lý luận mà chưa đi sâu nghiên cứu các nội dung cụ thể : Trong thời gian qua, đã có nhiều văn bản Pháp luật mới được ban hành có liên quan đến chế định Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự như Hiến 8 pháp năm 1992 sủa đổi năm 2002, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, và đặc biệt là sự ra đời của Bộ luật tố tụng dân sự ngày 15/06/2004 có hiệu lực ngày 01/01/2005 theo đó, địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự có sự thay đổi cơ bản về chất và một số vấn đề pháp lý liên quan đến chế định này đã được làm rõ. Tuy nhiên, tính thống nhất và đồng bộ giữa các văn bản Pháp luật với Bộ luật tố tụng dân sự vẫn chưa được đảm bảo, do vậy vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu xây dựng các quy định về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa các văn bản Pháp luật. Mặt khác, trong thực tiễn hoạt động kiểm sát đã gặp phải không ít những vướng mắc, khó khăn khi áp dụng các quy định về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự ngay cả việc ban hành Bộ luật tố tụng dân sự cũng chưa giải quyết được triệt để. Bộ luật tố tụng dân sự đã có hiệu lực gần một năm với rất nhiều những thay đổi quan trọng về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân nhưng những văn bản hướng dẫn thực hiện những quy định này vẫn chưa đủ do vậy cũng gây khó khăn trong quá trình điều chỉnh Pháp luật và áp dụng Pháp luật nên cần nghiên cứu, hoàn thiện làm tiền đề cho việc xây dựng các văn bản hướng dẫn một cách đầy đủ, toàn diện và thống nhất. Các luận điểm nêu trên chính là cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài "Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự" mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Trong thời gian qua, số lượng đề tài nghiên cứu về “Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự” rất ít, chỉ có thể kể đến đề tài khoa học cấp Bộ của Trường Cao đẳng Kiểm sát: “Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự” (năm 2000). Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các sách, báo, tạp chí trong nước xung quanh vấn đề vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Ở một góc độ nào đó, những bài viết, công trình nghiên cứu này đã đề 9 cập đến những khía cạnh nhất định về địa vị của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều đề tài khoa học nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự, nhất là trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ của trường Cao đẳng Kiểm sát được thực hiện đã lâu. Hiện tại, quan điểm lý luận cũng như quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đã có nhiều thay đổi. Vì lẽ đó, việc nghiên cứu đề tài này với mong muốn tiếp cận các quy định cụ thể về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự, phân tích những tồn tại, vướng mắc của quy định pháp luật hiện hành nhằm góp phần hoàn thiện quan điểm lý luận là việc làm cần thiết. 3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài: Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm góp phần hoàn thiện quy định về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có nhiệm vụ: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. - Phân tích các quy định của pháp luật nước ta từ năm 1945 đến nay về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. - Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự ở nước ta thời gian vừa qua. - Làm sáng tỏ về mặt lý luận, chỉ ra những điểm bất cập, thiếu sót về mặt xây dựng pháp luật tố tụng dân sự, từ đó đóng góp hoàn thiện quy định về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu trên đây, dựa trên nền tảng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, chứng minh, so sánh đối chiếu; phương pháp đánh giá, khái quát hoá và hệ thống hóa vấn đề và một số phương pháp nghiên cứu khác. 10 5. Bố cục của Luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, bản Luận văn gồm 3 chương: Chƣơng 1: Một số vấn đề chung về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Chƣơng 2: Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng. Chƣơng 3: Hoàn thiện địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. 11 CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ. 1.1. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƢỚC. Có thể khẳng định rằng Viện kiểm sát hay Viện công tố mặc dù có tên gọi khác nhau nhưng đều chỉ một cơ quan không thể thiếu trong bất kỳ Bộ máy Nhà nước của một quốc gia nào. Với mỗi mô hình tổ chức quyền lực, nhà cầm quyền quy định cho cơ quan này địa vị pháp lý không giống nhau. Tại các quốc gia như Anh, Mỹ, Phần Lan, Nhật Bản… Viện Công tố được đặt trong hệ thống hành pháp thuộc chính phủ, còn ở một số quốc gia khác như Cộng hòa Pháp, Argentina, Sri Lanka… cơ quan Công tố được tổ chức bên cạnh hệ thống tòa án; Riêng ở một số nước như Liên bang Nga, Hungari, Bồ Đào Nha, Estonia… thì Viện Công tố không thuộc các cơ quan hành pháp hay tư pháp mà có một vị trí độc lập, do cơ quan quyền lực Nhà nước là Quốc hội thành lập ra, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Vai trò của Viện Công tố các nước thể hiện cũng rất khác nhau, có nước Viện Công tố chỉ đạo hoạt động điều tra, trực tiếp điều tra, quyết định việc phân công điều tra viên, có nước vai trò của Viện Công tố hạn chế hơn, thể hiện chủ yếu ở giai đoạn xét xử, khi đó Công tố viên đóng vai trò như là một bên trong tranh tụng. Pháp luật một số nước như Liên bang Nga, Pháp, Nhật Bản… lại quy định Viện Công tố không chỉ thực hành quyền công tố, giám sát việc điều tra mà còn thực hiện nhiệm vụ khởi tố một số vụ án dân sự để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng. Có thể nói, mô hình tổ chức và hoạt động của Viện Công tố trên thế giới rất đa dạng và không đồng nhất, bởi lẽ cũng như những chế định pháp luật khác, chế định Viện Công tố chịu sự chi phối của rất nhiều yếu tố như truyền thống văn hoá, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế, xã hội, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước mỗi quốc gia. Tại Việt Nam, quyền lực Nhà nước được tổ chức và thực hiện theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa có sự phân công, phân nhiệm: theo đó 12 toàn bộ quyền lực Nhà nước tập trung trong tay Quốc hội và có sự phân công, phân nhiệm giữa Quốc hội và các cơ quan Chính phủ, Tòa án, Viện kiểm sát để mỗi cơ quan thi hành có hiệu lực chức năng, nhiệm vụ của mình. Theo Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 của Quốc hội (sau đây gọi tắt là Hiến pháp 1992 sửa đổi) thì bộ máy Nhà nước ta gồm 4 hệ thống cơ quan: các cơ quan quyền lực (Quốc hội và Hội đồng nhân dân địa phương), các cơ quan quản lý (Chính phủ và Uỷ ban nhân dân địa phương), các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án nhân dân địa phương) và các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân địa phương). Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống cơ quan có vị trí độc lập trong bộ máy Nhà nước ta, là một trong 4 cơ quan cấu thành bộ máy Nhà nước. Theo quy định của Điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, Viện kiểm sát nhân dân có 2 chức năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Với quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi cho phép nhận thức rằng, so với Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại Hiến pháp năm 1992 sửa đổi về cơ bản là không thay đổi, vẫn là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật1. Bởi lẽ đó, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi vẫn giữ nguyên tên gọi cũng như vị trí của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đáng lưu ý là Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 sửa đổi và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đều có Căn cứ vào nội dung Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) chúng ta thấy sự điều chỉnh chức năng của Viện kiểm sát chỉ có hệ quả là phạm vi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của hệ thống cơ quan này bị thu hẹp lại chứ bản thân hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật vẫn tiếp tục được duy trì. Cụ thể là: Theo Hiến pháp năm 1992 Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên các lĩnh vực: hành chính, kinh tế, xã hội, điều tra, xét xử, thi hành án, giam giữ và cải tạo. Nay, theo Điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, Viện kiểm sát nhân dan chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp (điều tra, xét xử, thi hành án, giam, giữ và cải tạo), không kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội nữa. Như vậy, phạm vi thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân được giới hạn trong hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tư pháp. 1 13 chung một cách thể hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân, đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Cách đảo ngược nội dung trình bày so với cách thể hiện cũ hoàn toàn không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà có lý do rất cụ thể của nó. Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 đặt chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trước chức năng thực hành quyền công tố là thể hiện theo cách truyền thống từ khi Viện kiểm sát nhân dân ra đời (năm 1960). Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật là chức năng chính diện, là cái hồn thể hiện ngay ở tên gọi của hệ thống cơ quan này. Có thể nói, trong suốt hơn 40 năm qua, từ khi Viện kiểm sát nhân dân ra đời, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đã trở thành chức năng bao trùm, đến mức người ta coi Viện Kiểm sát duy nhất chỉ có một chức năng là kiểm sát việc tuân theo pháp luật, còn thực hành quyền công tố chỉ là một quyền năng nhằm thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Nay, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định rõ Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Sự “đảo” vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân cho thấy mặc dù Viện kiểm sát nhân dân vẫn có hai chức năng, nhưng chức năng công tố được đưa lên trước, được nhấn mạnh để Viện kiểm sát nhân dân tập trung thực hiện cho hiệu quả. Đây là chức năng ưu tiên. Cùng với chức năng công tố, Viện kiểm sát nhân dân còn có chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Mặc dù cho đến nay chưa có một tài liệu nào giải thích chính thức về các cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp, nhưng căn cứ vào Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và trên cơ sở các tài liệu mà chúng ta có được về hoạt động này thì có thể hiểu một cách khái quát nhất rằng các hoạt động tư pháp là các hoạt động tố tụng (tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng lao động, tố tụng kinh tế). Và như vậy, kiểm sát các hoạt động tư pháp là kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ trong hành vi của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng. Mục đích của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp là nhằm 14 bảo đảm cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng được thực hiện trên cơ sở và theo quy định của pháp luật. Nội dung các quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tư pháp là tất cả các quyền năng pháp lý do pháp luật quy định mà Viện kiểm sát nhân dân được sử dụng để phát hiện vi phạm và yêu cầu xử lý vi phạm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng, nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. 1.2. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ. 1.2.1 Khái niệm địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Địa vị pháp lý nói chung theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng là “Tổng thể các điều kiện pháp lý mà pháp luật đòi hỏi để xác định cho một chủ thể có khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập"2 Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân và của cơ quan Nhà nước nói chung được xác định bởi vị trí, vai trò của nó trong hệ thống các cơ quan nhà nước, tính chất quyền lực và chức năng nhà nước mà cơ quan đó được giao, mức độ phạm vi tham gia của nó vào quá trình thực hiện các chức năng nhà nước đó. Có thể khái quát rằng: địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là tổng thể các quy định của pháp luật về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Trong cuộc sống hàng ngày, khi phát sinh tranh chấp cá nhân hay tổ chức có thể phải yêu cầu Toà án giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đề giải quyết tranh chấp đó, Toà án và những người tham gia sẽ phải tiến hành những hành vi nhất định gọi là tố tụng. Tố tụng để giải quyết một tranh chấp dân sự được gọi là tố tụng dân sự. Tương tự như vậy có tố tụng 2 Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng – NXB Đại học Quốc gia, Tr150. 15 hình sự, tố tụng hành chính…. Tố tụng dân sự được hiểu theo nghĩa rộng đó là toàn bộ trình tự được tiến hành để giải quyết một số tranh chấp dân sự, bao gồm cả trình tự hoà giải (ngoài Toà án) và trọng tài. Quan niệm này được nhiều nước trên thế giới công nhận và được thể hiện trong Bộ luật tố tụng dân sự của họ. Ở nước ta, tố tụng dân sự thường được hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ bao gồm trình tự giải quyết tranh chấp tại toà án (bao gồm cả trình tự hoà giải tại toà án và trình tự trọng tài có liên quan đến toà án). Và như vậy, với tư cách là một ngành luật có đối tượng điều chỉnh là tố tụng dân sự, pháp luật tố tụng dân sự bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật quy định trình tự, thủ tục xem xét và giải quyết vụ án dân sự tại Toà án, hay nói khác đi, pháp luật tố tụng dân sự là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những hành vi tố tụng và quan hệ pháp luật tố tụng phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án dân sự giữa Toà án, cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. Từ đó có thể thấy nội hàm địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự được phản ánh và thể hiện ở những phương diện: - Các quy định của pháp luật về vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. - Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Cũng như nhiều chế định pháp lý khác ở nước ta, địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân nói chung, trong hoạt động giải quyết các vụ án dân sự nói riêng được quy định rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Trước hết phải nói đến là Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 137 Hiến pháp 1992 sửa đổi quy định “Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định”. 16 Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã quy định một cách khái quát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự (Điều 20 – 25 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Sau khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 ra đời, địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự được quy định rất cụ thể trong Bộ luật này và có nhiều nội dung mới mà các quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân chưa thay đổi kịp cho phù hợp. Sự ra đời của Bộ luật tố tụng dân sự đánh dấu một bước pháp điển hoá cao trong kỹ thuật lập pháp của nước ta, phần nào đã tập trung được những nội dung cơ bản nhất , quan trọng nhất thể hiện cụ thể và rõ nét nhất địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực tố tụng dân sự. 1.2.2. Vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Việc xác định vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, bởi lẽ điều đó không những góp phần vào việc xây dựng một hệ thống cơ sở lý luận về hoạt động tư pháp nói chung và tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng mà còn góp phần quan trọng vào việc xây dung các văn bản pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân, về tố tụng dân sự …cũng như việc hướng dẫn chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ của ngành kiểm sát. Trong tố tụng dân sự, nếu vị trí, vai trò của Toà án và các bên đương sự được xác định một cách rõ ràng và hiển nhiên thì vị trí, vai trò của Viện kiểm sát không phải lúc nào cũng rõ ràng và hiển nhiên như vậy. Sở dĩ có tình trạng này là do quan niệm quyền lực nhà nước, nguyên tắc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở mỗi quốc gia khác nhau, từ đó có những quy định khác nhau về mô hình tổ chức, vị trí, vai trò của Viện kiểm sát, đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự. Trong lĩnh vực hình sự, mặc dù quan niệm về vị trí, chức năng của Viện công tố cũng không hoàn toàn đồng nhất nhưng về cơ bản, các nước đều cho rằng cơ quan Công tố giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là bên nhân danh Nhà nước truy tố và buộc tội kẻ phạm tội trước toà. Còn trong lĩnh vực dân sự, phần lớn các quốc gia đều quan niệm rằng vị trí, vai trò của Viện công tố hạn 17 chế hơn, do ảnh hưởng từ nguyên tắc tự định đoạt của các bên trong quan hệ dân sự. Viện công tố chỉ can thiệp vào quan hệ dân sự khi một bên bị mất năng lực hành vi (tâm thần), hạn chế năng lực hành vi (người chưa thành niên), không thể có mặt ( tuyên bố chết hoặc mất tích) hoặc khi mà quyền tự định đoạt của các bên xâm hại hoặc có khả năng xâm hại đến lợi ích công hay trật tự pháp luật nhằm bảo vệ những lợi ích và trật tự đó mà thôi. Đây là sự kết hợp vừa nhằm đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên, vừa đảm bảo sự can thiệp từ phía nhà nước trong trường hợp cần thiết. Các nước theo truyền thống luật án lệ (Common law) thì cho rằng trong quan hệ dân sự càng ít sự can thiệp của công quyền càng tốt và vì thế, Viện công tố những nước này hầu như không tham gia vào tố tụng dân sự. Đối với các nước theo truyền thống luật dân sự, khi tham gia vào tố tụng dân sự, thông thường, Viện công tố có ba vị trí khác nhau: là nguyên đơn, là người giám sát và là bị đơn. Tương ứng với mỗi vị trí đó, Viện công tố có những nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau. Khi khởi kiện vì lợi ích công, Viện công tố là một bên trong tố tụng dân sự, có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn khác, trừ quyền hoà giải và nghĩa vụ nộp án phí và chi phí tố tụng. Khi tham gia tố tụng dân sự với vai trò giám sát (thường trong các vụ án mà một bên là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần hoặc các trường hợp tuyên bố chết, tuyên bố mất tích, tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự …), Viện công tố có trách nhiệm giám sát việc áp dụng pháp luật và có nghĩa vụ phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án. Sự tham gia của Viện công tố trong hai trường hợp này xuất phát từ nhu cầu bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ lợi ích công cộng và đảm bảo công bằng xã hội. Viện công tố không có một lợi ích vật chất nào liên quan tới vụ án cũng như không bị ràng buộc chỉ vì lợi ích từ phía các đương sự. Thậm chí, ngay cả trong trường hợp quyền của người chưa thành niên, người bị nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần bị xâm phạm thì việc Viện công tố tham gia tố tụng cũng không chỉ nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân cho họ mà trước hết là bởi bản chất những vụ việc này có tính chất công và mang ý nghĩa xã hội. Còn khi là 18 bị đơn (pháp luật một số nước quy định: khi Nhà nước hoặc các pháp nhân công pháp bị kiện thì Viện công tố sẽ tham gia với tư cách bị đơn), Viện công tố có quyền và nghĩa vụ như bị đơn. Ở Việt Nam, là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (Điều 137 Hiến pháp và Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân), Viện kiểm sát có vị trí và vai trò tương đối đặc biệt trong tố tụng dân sự. Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì Viện kiểm sát không chỉ là cơ quan bảo vệ lợi ích xã hội và trật tự công cộng mà còn là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vụ tố tụng dân sự. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đã bị thu hẹp đi nhưng những quyền đặc thù như tham gia phiên toà (trong một số trường hợp luật định), kháng nghị bản án, quyết định dân sự của Toà án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm …vẫn tiếp tục được quy định. Mặc dù các quy định về vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự đã được xác định ngay từ khi thành lập ngành kiểm sát nhân dân (năm 1960) và hầu như không có những thay đổi lớn trong những lần sửa đổi Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân sau này nhưng cho tới nay, xung quanh vấn đề này vẫn có nhiều quan điểm rất khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, Viện kiểm sát chỉ có một chức năng là kiểm sát việc tuân theo pháp luật và toàn bộ thẩm quyền của Viện kiểm sát nói chung và trong tố tụng dân sự nói riêng đều xuất phát từ chức năng này. Quyền công tố mà trong tố tụng dân sự được thể hiện bằng việc khởi tố vụ án dân sự, vụ án lao động … chỉ là một quyền năng, một nội dung hay một bộ phận của chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát mà thôi. Quan điểm thứ hai cho rằng: trong tố tụng, bao gồm cả tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, kinh tế, lao động… Viện kiểm sát luôn có hai chức năng độc lập với nhau, đó là chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Chức năng công tố trong tố tụng dân sự được thể hiện bằng thẩm quyền khởi tố, đó là việc nhân danh quyền lực 19 công đưa vụ kiện ra tòa. Còn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp được thể hiện bằng thẩm quyền khởi tố, đó là việc nhân danh quyền lực công đưa vụ kiện ra toà. Còn chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp được thể hiện bằng các thẩm quyền còn lại. Mặc dù là hai chức năng riêng biệt trong tố tụng dân sự nhưng chúng có quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau, đan xen, không tách rời, chức năng này làm tiền đề, tạo điều kiện và hỗ trợ cho chức năng kia và đảo ngược lại. Theo quan điểm này, không thể tách bạch hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật, và vì vậy nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự đều xuất phát từ hai chức năng này. Quan điểm thứ ba lại cho rằng: trong tố tụng dân sự Viện kiểm sát chỉ có một chức năng duy nhất là kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chức năng thực hành quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự vì quyền công tố là quyền của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người đã thực hiện hành vi tội phạm. Đối tượng của quyền công tố không có trong lĩnh vực dân sự mà chỉ có thể là tội phạm và người phạm tội. Vì vậy, mọi thẩm quyền của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đều xuất phát từ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Các quan điểm trên, theo chúng tôi, phần lớn đều dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật. Quan điểm thứ nhất dựa trên các quy định của Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Quan điểm thứ hai dựa vào các quy định của Hiến pháp năm 1980 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981. Quan điểm thứ ba dựa vào các quy định của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. Chính vì dựa trên các quy định của pháp luật nên khi pháp luật thay đổi, các quan điểm về Viện kiểm sát nói chung và trong tố tụng dân sự nói riêng cũng thay đổi theo. Nhưng không lẽ vì vậy mà vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự cũng thay đổi, khi thì thuộc chức năng này, khi thì chuyển sang thuộc chức năng khác? Hơn nữa, thật khó khi phải tin rằng quyền công tố xuất phát từ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, là một nội dung của chức năng 20 kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Cũng là rất khó khi phải lý giải rằng thẩm quyền khởi tố các vụ án dân sự của Viện kiểm sát (theo quy định của pháp luật trước đây) xuất phát từ chức năng công tố hoặc chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chúng tôi cho rằng, sẽ là không phù hợp nếu quy tất cả các lĩnh vực hoạt động, các nhiệm vụ và thẩm quyền mà pháp luật giao cho Viện kiểm sát vào chức năng của cơ quan này. Không phải mọi thẩm quyền, mọi lĩnh vực hoạt động của Viện kiểm sát nói riêng và của các cơ quan Nhà nước nói chung đều xuất phát từ chức năng với nghĩa là “hoạt động đặc trưng” (từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 1989) của cơ quan đó. Ngoài lĩnh vực hoạt động chính, đặc trưng, các cơ quan còn có thể có những thẩm quyền khác, lĩnh vực hoạt động khác. Những thẩm quyền, lĩnh vực hoạt động này thường liên quan hoặc gần gũi với chức năng nhưng đôi khi chẳng có liên quan gì đến chức năng của cơ quan đó cả. Ở Pháp, Viện công tố được giao nhiệm vụ giám sát hộ tịch, một nhiệm vụ chẳng có liên quan gì đến chức năng công tố cả. Ở Việt Nam, Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhưng điều đó không có nghĩa là mọi thẩm quyền, mọi lĩnh vực hoạt động của Viện kiểm sát đều xuất phát từ chức năng này, đều phục vụ chức năng này (ví dụ như thống kê tội phạm chẳng hạn). Trong tố tụng dân sự, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp nhưng không có nghĩa là thẩm quyền khởi tố các vụ án dân sự (nay theo BLTTDS năm 2004 thì Viện kiểm sát nhân dân không còn chức năng này, nhưng nếu có thì cũng không làm thay đổi chức năng của Viện kiểm sát) cũng thuộc chức năng này. Đây chỉ là một thẩm quyền mà pháp luật nước ta và một số nước khác giao cho Viện kiểm sát mà thôi, nó hoàn toàn không thuộc chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp (bởi vì nếu coi thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự thuộc chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp thì không giải thích được tại sao Viện kiểm sát – Viện Công tố một số nước có chức năng thực hành quyền công tố nhưng lại không có thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự hoặc cũng như tại 21
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan