Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Di sản dùng vào việc thờ cúng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành...

Tài liệu Di sản dùng vào việc thờ cúng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành

.PDF
84
1013
120

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TỐNG VIẾT NAM DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH Chuyên ngành: Luật Dân sự Mã số: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS BÙI ĐĂNG HIẾU HÀ NỘI - 2012 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN TỐNG VIẾT NAM MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu .............................................................................. 3 3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................ 4 4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 4 5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ..................................... 5 6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn ......................................... 5 Kết cấu của luận văn ............................................................................... 6 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN DÙNG VÀO 7. VIỆC THỜ CÚNG ................................................................................ 7 1.1. Khái niệm di chúc, quyền của người lập di chúc.................................... 7 1.1.1. Khái niệm di chúc ................................................................................... 7 1.1.2. Quyền của người lập di chúc .................................................................. 9 1.2. Khái niệm di sản ................................................................................... 12 1.3. Khái niệm về thờ cúng và di sản dùng vào việc thờ cúng .................... 13 1.3.1. Khái niệm về thờ cúng .......................................................................... 13 1.3.2. Di sản dùng vào việc thờ cúng .............................................................. 18 1.4. Khái lươ ̣c qui đinh ̣ của pháp luật dân sự Việt Nam về di sản dùng vào việc thờ cúng qua các thời kỳ ........................................................ 19 1.5. Ý nghĩa qui đinh ̣ của pháp luâ ̣t về di nsảdùng vào việc thờ cúng ............ 28 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG .................................. 33 2.1. Căn cứ xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng theo Bộ luật dân sự năm 2005 ............................................................................................... 33 2.2. Tỉ lệ di sản dùng vào việc thờ cúng ...................................................... 34 2.3. Di sản dùng vào việc thờ cúng theo di chúc ......................................... 38 2.4. Người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng ...................................... 40 2.4.1. Về người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng được chỉ định trong di chúc ................................................................................................... 40 2.4.2. Về người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng không được chỉ định trong di chúc mà do những người đồng thừa kế cử ra .................. 43 2.5. Quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng ........ 46 2.6. Căn cứ thay đổi người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng và người có quyền yêu cầu thay đổi .......................................................... 52 2.7. Căn cứ chấm dứt di sản dùng vào việc thờ cúng .................................. 54 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG, NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN NHỮNG TRANH CHẤP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG ................................................. 59 3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về di sản dùng vào việc thờ cúng trong những năm qua ...................................................................................... 59 3.2. Nguyên nhân dẫn đế nnhững tranh chấ p về di sản dùng vào việc thờ cu ..́ ng 71 3.3. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về di sản dùng vào việc thờ cúng................................................................... 73 KẾT LUẬN .................................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tín ngưỡng dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm: Tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Trong tín ngưỡng sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ cúng tổ tiên, nó gần như trở thành một tôn giáo của người Việt Nam (ở miền Nam gọi là đạo ông bà). Việt Nam trọng ngày mất là dịp cúng giỗ hơn ngày sinh. Nhà nào cũng thờ Thổ công, là vị thần trông coi gia cư, giữ gìn họa phúc cho cả nhà. Làng nào cũng thờ Thành hoàng, là vị thần cai quản, che chở cho cả làng (thường tôn vinh những người có công khai phá, lập nghiệp cho dân làng, hoặc các anh hùng dân tộc đã được sinh ra hay mất ở làng). Cả nước thờ vua Tổ, hằng năm có ngày giỗ Tổ chung (Hội đền Hùng, vua Hùng Vương). Với đời sống tâm linh của dân tộc Á Đông, sự tuân thủ các quy tắc gia phong, tinh thần dòng tộc đã ăn sâu vào máu thịt người dân. Khi còn sống, mỗi người đều được dạy bảo về nề nếp sống, đạo đức thảo hiếu làm con, tôn ti trật tự của mỗi gia đình. Theo đó, việc thờ cúng tổ tiên ông bà luôn là trách nhiệm thiêng liêng của con cháu từ đời này sang đời khác, người già chết thì người trẻ phải tuân thủ trách nhiệm đó. Nhân dân ta, nhất là vùng nông thôn, việc thờ cúng không chỉ là tục lệ tổ tiên để lại mà còn là một hình thức của đời sống tâm linh không thể thiếu. Thật vậy, gia đình Việt Nam được quan niệm trước hết như là một tập hợp các truyền thống văn hóa, kinh tế và các giá trị đạo đức, được tạo ra bởi người sáng lập và được gìn giữ, phát huy bởi các thế hệ con cháu. Phát huy các truyền thống gia đình là một nghĩa vụ đặc biệt thiêng liêng đối với con cháu trực hệ. Vả lại, theo tín ngưỡng truyền thống thì ông, bà, cha, mẹ quá cố, mặc dù đã kết thúc kiếp sống vật chất, nhưng luôn tồn tại trong tâm tưởng của 1 con cháu. Sự thành đạt của những người còn sống thể hiện kết quả tích lũy phúc đức của người đã chết. Vì thế, cần bày tỏ lòng biết ơn đối với người đã chết bằng cách chăm sóc nơi yên nghỉ cũng như thỏa mãn những nhu cầu của họ trong “cuộc sống của thế giới bên kia”. Riêng việc thỏa mãn nhu cầu của người đã chết được thực hiện một cách tượng trưng dưới hình thức tổ chức lễ giỗ. Tục lệ thừa nhận rằng, người đã chết chỉ có những nhu cầu “tối thiểu”. Điều đó giải thích việc tiến hành lễ giỗ theo các nghi thức long trọng: Các món ăn nóng đặt trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh những nén hương và những ngọn nến thắp sáng..., người thân thuộc càng đông thì lễ giỗ càng tốn kém. Để người tổ chức cúng viếng không bị đẩy vào tình thế khó khăn do phải sử dụng tài sản riêng vào việc ấy, “tổ tiên” - người đã mất đều luôn có trách nhiệm chuẩn bị một khả năng vật chất cụ thể để đảm bảo sự hòa thuận và ổn định trách nhiệm của con cháu đời sau, từ đó khái niệm di sản dùng vào việc thờ cúng manh mún ra đời. Trong suốt quá trình phát triển của đời sống kinh tế - xã hội con người, cho đến nay, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của xã hội loài người đã phát triển một cách vượt bậc. Thêm vào đó, ở nước ta hiện nay, sự đa dạng và phức tạp của nền kinh tế thị trường đã tác động mạnh mẽ đến nề nếp sống của mỗi gia đình, dòng tộc nên đôi lúc vấn đề thờ cúng không còn nguyên nghĩa “bản chất đời sống tâm linh nữa” mà ở một khía cạnh nào đó nó bị xen lẫn các mối quan hệ kinh tế. Vì thế, trong những năm gần đây, các cơ quan tư pháp đã “vất vả” với vấn đề này trong việc giải quyết tranh chấp di sản thừa kế. Do sự phát triển nhanh của xã hội nên đất “hương hỏa” ngày càng trở thành một trong những “điểm nóng” về tranh chấp thừa kế. Hơn nữa, do sự đa dạng về tính chất cũng như diện tích đất “hương hỏa” cho nên loại đất này, những người thừa kế không chỉ dùng vào việc thờ cúng mà còn tận dụng nó để khai thác lợi ích kinh tế. Trong điều kiện giá đất bất thường 2 trong những năm vừa qua, cộng với sự tác động của lợi ích kinh tế đã khiến không ít người có trách nhiệm thờ cúng không những không làm tròn nghĩa vụ của mình mà còn gây ra nhiều việc mâu thuẫn, tranh chấp giữa những người thừa kế trong gia đình. Nhận thức được sự phức tạp của vấn đề này, Nhà nước ta đã có những quy định tương đối cụ thể về di sản dùng vào việc thờ cúng, tuy nhiên do sự phát triển quá nhanh của đời sống xã hội khiến lĩnh vực này mau chóng thay đổi và trở nên quá phức tạp. Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Di sản dùng vào việc thờ cúng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành” làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Do tầm quan trọng của vấn đề thừa kế nên nội dung này đã được rất nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm, nghiên cứu, như các đề tài: "Thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam" của Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện là tác giả của 2 cuốn "Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam" và "Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân sự Việt Nam"; Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Thanh - Trần Hữu Biền có tác phẩm "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế"; Tiến sĩ Phùng Trung Tập với cuốn sách chuyên khảo Luật Thừa Kế Việt Nam và Th.S Trần Thị Huệ với "Di sản thừa kế trong pháp luật dân sự của một số nước trên thế giới". Ngoài ra, còn có nhiều bài viết về đề tài này được đăng tải trên các sách báo, tạp chí. Đặc biệt, còn có rất nhiều cử nhân, học viên chọn nội dung này làm đề tài cho các luận văn tốt nghiệp của mình. Ở nước ta, việc nghiên cứu đề tài về thừa kế cũng như vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng đã có từ xa xưa. Chúng ta có thể kể đến nhiều bộ luật như: Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long, Dân luật Bắc Kỳ, Dân luật Trung Kỳ, Dân luật Nam Kỳ... 3 Tất cả các công trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, mang tính toàn diện, bao quát cả chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra những kiến nghị để ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về thừa kế. Riêng với đề tài ""Di sản dùng vào việc thờ cúng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành", ", chúng tôi tập trung đi sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung, bản chất cũng như thực tiễn áp dụng vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng được quy định trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị mang tính giải pháp để ngày càng hoàn thiện hơn những quy định về nội dung này trong pháp luật Việt Nam hiện hành. 3. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi đề tài, nội dung của luận văn tập trung nghiên cứu chuyên sâu những quy định của pháp luật về di sản dùng vào việc thờ cúng cũng như liên hệ qua các thời kỳ của đất nước để thấy rõ hơn vấn đề này dựa trên cơ sở những tài liệu nghiên cứu liên quan đến đề tài. 4. Phương pháp nghiên cứu Nhằm đáp ứng mục đích nghiên cứu đề tài, chúng tôi dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về pháp luật. Đặc biệt là quan điểm của Đảng và Nhà nước về thừa kế trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập. Để hoàn thiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp: phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp khoa học chuyên ngành khác như: phương pháp logíc, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích và các phương pháp khoa học khác để giải quyết những vấn đề mà đề tài đã đặt ra. Ngoài ra, chúng tôi còn chọn lọc một số vụ án giải quyết tranh chấp về di sản dùng vào việc thờ cúng để bình luận nhằm giúp việc nghiên cứu được toàn diện và sâu sắc hơn. 4 5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích: Việc nghiên cứu đề tài không ngoài mục đích học hỏi, rèn luyện, nâng cao trình độ của bản thân. Đồng thời thông qua đề tài, chúng tôi hy vọng có thể đóng góp một vài ý kiến giúp giải quyết những bất hợp lý còn tồn tại trong lý luận và thực tiễn của vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Nhiệm vụ: Đề tài hướng đến việc nghiên cứu một cách có hệ thống từ cơ sở lý luận đến thực tiễn trong việc áp dụng những quy phạm pháp luật trong lĩnh vực thừa kế, đặc biệt là vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng. Qua đó, thấy được những vướng mắc thường gặp phải trong quá trình áp dụng pháp luật và tìm ra những nguyên nhân dẫn đến việc tranh chấp về thừa kế. Trên cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm góp phần xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng chúng trong thực tiễn. 6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực thừa kế. Có những công trình khoa học nghiên cứu vấn đề này một cách toàn diện, bao quát, nhưng cũng có những công trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của chế định thừa kế trong luật. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chi tiết, cụ thể về di sản dùng vào việc thờ cúng theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đây là luận văn ở cấp độ thạc sĩ đầu tiên nghiên cứu về di sản dùng vào việc thờ cúng gắn với từng quy định của mỗi giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, chúng tôi nghiên cứu làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hiện hành để tìm ra những vướng mắc còn tồn tại trên thực tế và đề xuất một số kiến nghị để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành những văn bản hướng dẫn cần thiết, sửa đổi điều luật nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về di sản dùng vào việc thờ cúng theo Bộ luật dân sự 2005. 5 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về di sản dùng vào việc thờ cúng Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về di sản dùng vào việc thờ cúng Chương 3: Thực tiễn áp dụng, nguyên nhân dẫn đến những tranh chấp và kiến nghị hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam về di sản dùng vào việc thờ cúng 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG 1.1. Khái niệm di chúc, quyền của người lập di chúc 1.1.1. Khái niệm di chúc Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của cá nhân để định đoạt tài sản của mình khi còn sống cho người khác sau khi chết. Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về Di chúc như sau: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Di chúc là sự thể hiện ý chí của một người định đoạt tài sản của mình, toàn bộ hoặc một phần tài sản của người đó sẽ chuyển cho ai hoặc những ai sau khi người đó chết. Sự bày tỏ ý chí này được thể hiện, hoặc bằng giấy tờ để viết (hay chúc thư), hoặc bằng lời nói miệng mà thường là lời dặn dò, lời trăn trối khi hấp hối (di chúc miệng). Hành vi bày tỏ ý chí này bằng giấy tờ, hoặc lời nói miệng được gọi là lập di chúc. Từ định nghĩa nêu trên có thể rút ra một vài nhận xét về đặc điểm của di chúc trong luật thực định. - Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương. Tức là, chỉ có sự thể hiện ý chí của một bên là người lập di chúc, chứ không phải bởi sự “gặp gỡ” của hai hay nhiều ý chí tại một thời điểm như trong quan hệ hợp đồng. Nó là giao dịch pháp lý một bên, theo đó người có tài sản quyết định chuyển giao không có đền bù một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình cho một hay nhiều người khác mà không cần biết đến ý chí của người thụ hưởng việc chuyển giao ấy. Ngay cả trong trường hợp di chúc do vợ chồng cùng lập, tính chất một bên của giao dịch vẫn không mất nếu di chúc được lập vì lợi ích của người thứ ba. Về mặt lý thuyết, không loại trừ khả năng vợ và chồng, khi lập di chúc chung chỉ định lẫn nhau làm người hưởng di sản của người chết trước. Khi đó, di chúc 7 trở thành một hợp đồng mà việc phát sinh hiệu lực của hợp đồng ấy bị hoãn lại cho đến thời điểm mở thừa kế của một trong hai bên giao kết, đây có thể xem là một trường hợp ngoại lệ. - Di chúc chỉ được thực hiện sau khi người lập di chúc chết. Cần hiểu rằng, cho đến khi người lập di chúc chết, người được thụ hưởng di sản theo di chúc không có bất cứ một quyền nào trên bất kỳ tài sản nào của người lập di chúc và họ cũng không chắc được hưởng di sản về sau này. Di chúc chỉ ghi nhận cho họ một quyền nào đó trong di sản của người lập di chúc, tức là một quyền đối với các tài sản mà người sau này sẽ để lại (nếu có để lại). Người thừa kế theo di chúc không thể đòi hỏi sự bảo đảm quyền lợi gắn liền với tư cách đó và thậm chí, cả sự bảo đảm cho việc duy trì tư cách đó, vì di chúc có thể bị sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ theo ý chí của người lập ra nó. - Di chúc có thể bị sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc hủy bỏ. Quyền này được chính thức thừa nhận trong điều 662 Bộ luật dân sự năm 2005. Đó là hệ quả của một trong những đặc điểm cơ bản của di chúc: sự bày tỏ ý chí sau cùng của người có di sản. Trừ khi trút hơi thở cuối cùng, người có di sản có quyền sửa đổi những dự tính của mình, những quyết định của mình mà chưa có hiệu lực và chưa được công bố. Tuy nhiên, trong trường hợp vợ và chồng lập di chúc chung, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế và hủy bỏ di chúc chỉ có thể được thực hiện với sự đồng ý của cả hai người. Nếu một người đã chết, thì người còn sống chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc có liên quan đến phần tài sản của mình và nhất là không thể thay thế hoặc hủy bỏ di chúc chung được nữa (theo điều 664 Bộ luật dân sự năm 2005). Quy định trên có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn như sau: - Người lập di chúc không bị ràng buộc bởi di chúc đã lập ra. Người đó có thể sửa đổi di chúc hoặc hủy bỏ di chúc đã lập bằng một di chúc khác lập ra sau này. 8 - Không có sự ràng buộc giữa người lập di chúc và người được chỉ định là người thừa kế theo di chúc, trong thời gian người lập di chúc còn sống. - Sau khi người lập di chúc chết, người được chỉ định là người thừa kế theo di chúc đó sẽ bày tỏ ý chí của mình nhận hay không nhận tài sản của người lập di chúc để lại. Đây là hành vi pháp lý đơn phương của người thừa kế nhận di sản theo di chúc. Người lập di chúc chỉ định một hoặc nhiều người trong di chúc và cho họ hưởng một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình. Nếu trong di chúc có nhiều người, mỗi người được hưởng bao nhiêu phụ thuộc vào ý chí của người có tài sản. Người có tài sản thể hiện ý chí của mình (bằng việc lập di chúc) nhưng ý chí đó có được thực hiện hay không phụ thuộc vào hình thức biểu lộ ý chí. Vì vậy, một người muốn định đoạt tài sản của mình bằng di chúc, cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc. Căn cứ quy định của pháp luật về thừa kế thì di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Việc lập di chúc phải tuân theo trình tự, thủ tục luật định. 1.1.2. Quyền của người lập di chúc Quyền của người lập di chúc được quy định tại Điều 648 và Điều 662 Bộ luật dân sự năm 2005, người lập di chúc có các quyền sau đây: 1. Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; Người lập di chúc có quyền để lại di sản cho bất cứ cá nhân hoặc tổ chức nào. Người được nhận di sản có thể là cá nhân trong hay ngoài diện thừa kế theo quy định của pháp luật hoặc cũng có thể là Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,... Quyền định đoạt của người lập di chúc còn được thể hiện thông qua việc họ có thể truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật như: cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, em ruột... mà không nhất thiết phải nêu lý do, tức là trong di chúc, người lập di chúc có thể chỉ định một hay nhiều người thừa kế theo pháp luật không được hưởng di sản thừa kế của mình. 9 2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế; Quyết định người thừa kế theo di chúc được hưởng di sản như thế nào (một phần di sản là bao nhiêu, một số hiện vật nhất định hoặc một số tiền nhất định trong khối di sản,...). Nếu chỉ định nhiều người thừa kế theo di chúc thì người lập di chúc cần phân định rõ mỗi người được hưởng một phần di sản trong khối di sản như thế nào? Người lập di chúc có quyền phân chia di sản cho mỗi người không nhất thiết phải ngang nhau mà không cần phải nêu lý do tại sao. Nếu người lập di chúc không phân định rõ phần quyền của mỗi người thừa kế, thì những người thừa kế được hưởng phần tài sản ngang nhau trong khối di sản thừa kế. 3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; Dành một phần tài sản trong khối di sản để tặng cho người khác sau khi người lập ra di chúc chết. Tài sản tặng cho này gọi là vật di tặng. Người lập di chúc còn có thể dành một phần tài sản trong khối di sản để dùng vào việc thờ cúng (vấn đề này được đề cập ở phần sau). 4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản; Người lập di chúc có quyền giao nghĩa vụ cụ thể cho người thừa kế (như giao cho người thừa kế phải trả một khoảng nợ của Nhà nước mà người để lại di sản chưa trả,...). Người lập di chúc có thể giao nghĩa vụ cho một người mà không cho họ hưởng di sản. Trường hợp này không bắt buộc người được giao nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đó. Nếu giao nghĩa vụ và cho hưởng di sản thì người được giao nghĩa vụ đó phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản được thừa kế. 5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản; Để đảm bảo di chúc không bị thất lạc, nhất là sau khi người lập di chúc chết, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định người lập di chúc có quyền chỉ định trong di chúc người giữ di chúc đó. Thông thường, sau khi người để lại di sản 10 chết một thời gian, di sản mới được phân chia cho những người thừa kế. Để giữ gìn tài sản không bị hư hỏng, để đề phòng trường hợp tài sản có thể bị người khác tẩu tán, chiếm đoạt thì người lập di chúc có thể chỉ định trong di chúc người quản lý di sản sau khi người lập di chúc chết và cũng có thể chỉ định cả người phân chia di sản. Việc chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản là hoàn toàn theo ý chí tự nguyện của người lập di chúc. Người lập di chúc có thể cử một người vừa giữ di chúc, đồng thời vừa quản lý di sản và phân chia di sản. Nhưng người lập di chúc vẫn có thể cử nhiều người, mỗi người làm một việc riêng (như cử ông A giữ di chúc, anh B quản lý tài sản, chị C phân chia di sản,...). Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế, người được chỉ định có thực hiện hay không tùy thuộc ý chí chủ quan của họ. Đây không phải là nghĩa vụ pháp lý mà nó biểu hiện tinh thần tự nguyện, đoàn kết giúp đỡ người khác. 6. Ngoài ra người lập di chúc còn có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy di chúc. - Sửa đổi di chúc: Là việc người lập di chúc thay thế một phần quyết định cũ của mình đối với các phần trong di chúc trước đó. - Bổ sung di chúc: Người lập di chúc có quyền “bổ sung” di chúc đã lập. Phần bổ sung là phần thêm vào nội dung của di chúc. Nếu người lập di chúc bổ sung di chúc, mà phần di chúc bổ sung vẫn hợp pháp, thì di chúc đã lập và phần di chúc bổ sung đều có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, trong trường hợp: nếu phần di chúc đã lập và phần di chúc bổ sung mâu thuẫn với nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. - Thay thế di chúc: Là việc người để lại di sản lập di chúc khác thay thế cho di chúc cũ vì họ cho rằng những quyết định của mình trong di chúc trước không còn phù hợp với ý chí của họ nữa. Do đó, di chúc trước coi như không có vì chính người lập di chúc hủy bỏ (nếu như việc thay thế di chúc trong lúc 11 họ còn minh mẫn sáng suốt). Trong trường hợp một người lập nhiều di chúc vào các thời điểm khác nhau mà nội dung của các di chúc không phủ định lẫn nhau thì tất cả di chúc đều có hiệu lực. Ngược lại, nếu nội dung phủ định lẫn nhau thì coi đó là thay thế di chúc. - Hủy bỏ di chúc: Là việc người để lại thừa kế từ bỏ di chúc của mình bằng cách không công nhận di chúc do mình lập ra là có giá trị. Trường hợp này được coi như là không có di chúc. Do vậy, di sản thừa kế sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật. Việc hủy bỏ di chúc có thể được thực hiện dưới các hình thức sau: + Người lập di chúc tự tiêu hủy tất cả di chúc đã lập. + Người lập di chúc lập một di chúc khác tuyên bố hủy di chúc đã lập (văn bản hủy bỏ di chúc chỉ cần thiết khi người lập di chúc yêu cầu cơ quan Nhà nước, công bố di chúc). 1.2. Khái niệm di sản Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Điều 634. Di sản: Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Theo Từ điển Luật học của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, di sản là "Tài sản mà người đã chết để lại, bao gồm: 1. Tài sản mà người đã chết chủ sở hữu, gồm có: a. Tài sản riêng như: tư liệu sinh hoạt (ví dụ: Quần áo, chăn màn, giường tủ, máy thu thanh, máy thu hình, vv.); tư liệu sản xuất, vốn sản xuất hoặc kinh doanh hợp pháp; nhà ở; tài sản được thừa kế, tặng cho; tiền mua trái phiếu; tiền tiết kiệm gửi ngân hàng hoặc quỹ tín dụng; các thu nhập khác (ví dụ: Tiền công lao động, tiền nhuận bút, tiền thưởng, tiền trúng xổ số, vv.). b. Phần tài sản của người đã chết trong khối tài sản chung với người khác (ví dụ: Sở hữu chung một ngôi nhà, một cơ sở sản xuất, kinh doanh, vv.). 12 c. Những quyền về tài sản do người chết để lại (ví dụ: Đòi nợ, đòi tài sản cho thuê hoặc cho mượn, chuộc lại tài sản đã cầm cố, đòi bồi thường thiệt hại trong hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng,...). 2. Quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật (X. Thừa kế quyền sử dụng đất)". Khái niệm di sản trong Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam: Di sản là "Tài sản (tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, các thu nhập hợp pháp khác) của người chết để lại, gồm: những tài sản thuộc sở hữu của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác, quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Người chết không những để lại các quyền về tài sản (như quyền đòi nợ, quyền đòi bồi thường thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ...) mà còn có thể để lại cả những nghĩa vụ về tài sản (như phải trả nợ, phải trả công lao động hoặc bồi thường thiệt hại). Tuy nhiên, người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi di sản mà mình đã nhận được. Trong trường hợp vợ hoặc chồng chết thì một nửa tài sản chung của vợ chồng thuộc về Di sản của người chết (được quy định tại Điều 637 Bộ luật dân sự)". Theo chúng tôi, di sản không bao gồm cả nghĩa vụ về tài sản. Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam đưa nghĩa vụ về tài sản vào trong khái niệm di sản là không hợp lý và không đúng với ý nghĩa của Bộ luật dân sự quy định về di sản. Bởi lẽ, theo quy định tại Điều 634 thì di sản chỉ bao gồm tài sản của người chết để lại. Điều 163 quy định tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền về tài sản. Như vậy, nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại chỉ có thể là quyền về tài sản của những người mà người chết có nghĩa vụ đối với họ, chứ không thể là di sản. 1.3. Khái niệm về thờ cúng và di sản dùng vào việc thờ cúng 1.3.1. Khái niệm về thờ cúng Thờ cúng tổ tiên đã xuất hiện từ xa xưa của lịch sử nhân loại, đã từng 13 tồn tại ở nhiều châu lục và các quốc gia. Ở nước ta đã và đang dung dưỡng một hệ thống tín ngưỡng dân gian rất phong phú, đa dạng, nhưng tiêu biểu hơn cả vẫn là tín ngưỡng Thờ cúng tổ tiên. Tín ngưỡng này, tồn tại ở các thành phần dân tộc; ở nhiều giai tầng, xuyên suốt các giai đoạn lịch sử, thu hút đại đa số dân cư. Thờ cúng tổ tiên đan xen vào các tôn giáo, thậm chí trở thành những thành tố quan trọng của một số tôn giáo; thẩm thấu vào các loại hình tín ngưỡng dân gian. Ở nước ta, dù là tín đồ của tôn giáo nào, Cao đài hay Hòa Hảo, Phật giáo hay Khổng giáo, kể cả Công giáo - đã là người dân gốc Việt - họ đều hướng về vùng đất Tổ, đều coi trọng người sinh thành và dưỡng dục mình nên người. Thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam là một tín ngưỡng có sức sống lâu bền, có gốc rễ sâu xa trong cộng đồng người Việt. Do đó, Thờ cúng tổ tiên là hiện tượng xã hội có tính phổ biến. Một thời gian không ngắn, tín ngưỡng Thờ cúng tổ tiên chưa được hiểu đầy đủ, nên ứng xử với loại hình tín ngưỡng này chưa thật thỏa đáng. Cho dù có thời kỳ lịch sử, ai đó đã từng phê phán, thậm chí còn liệt kê thờ cúng tổ tiên vào loại “mê tín dị đoan” đi nữa thì cho đến đầu thế kỷ XXI, thờ cúng tổ tiên lại trỗi dậy. Điều đó nói lên sức sống trường tồn của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong lòng dân tộc. Cùng với sự đổi mới tư duy về tôn giáo nói chung, gần đây thờ cúng tổ tiên được xã hội nhìn nhận, đánh giá theo quan điểm mới. Trong Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/03/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, có ghi: "Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân”. Tuy nhiên, khái niệm thờ cúng Tổ tiên đang còn nhiều ý kiến khác nhau. Một số người cho rằng, thờ cúng tổ tiên là một phong tục, là luật tục. Phan Kế Bính coi mỗi nước có phong tục riêng. Phong tục ấy ban đầu thuộc một vài người rồi bắt chước nhau thành thói quen… dần dần tiêm nhiễm thành tục. Cụ khẳng định: "Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là 14 thành kính, ấy cũng là một lòng bất vong bản, ấy cũng là một việc nghĩa của người. Cây có gốc mới nở ngành xanh ngọn, nước có nguồn mới bề rộng sông sâu" [Theo http://truongtoc.vn/info/Ban-sac-van-hoa-Viet/Khai-niem-va-giatri-cua-tho-cung-to-tien-145/]. Toan Ánh và một số tác giả khác khẳng định thờ cúng tổ tiên là một phong tục [Theo http://truongtoc.vn/info/Ban-sac-vanhoa-Viet/Khai-niem-va-gia-tri-cua-tho-cung-to-tien-145/]. Trong Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/03/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, coi là “truyền thống”. Còn Giáo sư Hà Đình Cầu cho rằng: “Việc Thờ cúng tổ tiên không phải là một tôn giáo mà là một luật tục” [Theo http://truongtoc.vn/info/Ban-sac-van-hoa-Viet/Khai-niem-va-gia-tri-cua-thocung-to-tien-145/]. Trong khi ở miền Nam nước ta, thờ cúng tổ tiên được nhiều người gọi chung với một cái tên là đạo ông bà, còn Nguyễn Đình Chiểu gọi là đạo nhà: “Thà đui mà giữ đạo nhà còn hơn sáng mắt ông cha không thờ”. Ở miền Bắc nước ta, nhiều người gọi thờ cúng tổ tiên hay là đạo thờ tổ tiên. Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu cho rằng, dân chúng quan niệm “đạo” ở đây không có nghĩa là một tôn giáo, như đạo Công giáo, đạo Phật, đạo Hồi... mà phải hiểu nó như là đạo lý làm người, đạo làm con, đạo hiếu nghĩa. Trong tác phẩm Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, tác giả Ngô Đức Thịnh nêu lý do ông gọi Thờ cúng tổ tiên là đạo vì: “Khái niệm đạo ở đây, theo ý nghĩa là “con đường”, “cách thức” đưa con người đạt tới niềm tin vào cái thiêng liêng, siêu nhiên. Như vậy, đạo theo nghĩa rộng nó có thể bao gồm cả một số hình thức tín ngưỡng và tôn giáo, còn đạo theo nghĩa hẹp hơn là chỉ một số hình thức tín ngưỡng phát triển có xu hướng trở thành tôn giáo sơ khai hay là tôn giáo dân gian” [Theo http://truongtoc.vn/info/Ban-sacvan-hoa-Viet/Khai-niem-va-gia-tri-cua-tho-cung-to-tien-145/]. Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, Thờ cúng tổ tiên là một tôn giáo. Chẳng hạn, nhà dân tộc học nổi tiếng người Nga - X.A. Tocarev khẳng định: “Sự Thờ 15 cúng tổ tiên là một hình thức tôn giáo, từ lâu đã được thừa nhận trong khoa học. Vì thế không cần phải chứng minh sự tồn tại của nó với tư cách là một hình thức tôn giáo riêng biệt” [Theo http://truongtoc.vn/info/Ban-sac-vanhoa-Viet/Khai-niem-va-gia-tri-cua-tho-cung-to-tien-145/]. Theo quan điểm trên của X.A.Tôcarev thì thờ cúng tổ tiên là một loại hình tôn giáo nguyên thuỷ mang tính sơ khai. GS. Đặng Nghiêm Vạn cho rằng, thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam nằm trong hệ thống tôn giáo dân tộc. Ông còn khẳng định, đó chính là một tôn giáo chính thống của người Việt Nam, tuy nó: “Không có tổ chức chặt chẽ, nhưng dường như toàn bộ cộng đồng quan niệm tiến hành các lễ thức giống nhau và là tâm linh chủ yếu của cộng đồng là lực hút các yếu tố ngoại sinh hay là những yếu tố ra nhập vào các tôn giáo khác”. Cùng quan điểm này, còn có Gôxe Lanh (người Pháp) đầu thế kỷ XX nhận xét: “Thờ cúng tổ tiên là tôn giáo thân thiết nhất với người Việt” [Theo http://truongtoc.vn/info/Ban-sac-van-hoa-Viet/Khai-niem-va-gia-tri-cua-thocung-to-tien-145/]. Có tác giả khẳng định thờ cúng tổ tiên: “Đích thực là một tôn giáo bản địa”. Thậm chí có học giả khuyên nên coi Thờ cúng tổ tiên là quốc đạo(!). Cũng có người tỏ ra thận trọng hơn khi nhận xét: “Đạo gốc ở nước ta có vẻ là Thờ cúng tổ tiên, về mặt tôn giáo học thì còn phải tranh luận, nhưng về thực tiễn thì rất rõ nét”. Cũng có người còn phân vân mà coi thờ cúng tổ tiên: “Gần như một thứ tôn giáo”. Nhưng cũng lại có ý kiến cho rằng: “Có thể coi thờ cúng tổ tiên là một phong tục đã được tôn giáo hóa, hoặc những hành vi có tính chất tôn giáo được thế tục hóa để trở thành phong tục”. Nhưng rồi tác giả lại phải dùng thuật ngữ có tính thỏa hiệp là: “Hiện nay có một cách dùng, một thuật ngữ mang tính chất “trung hòa”, đó là Đạo (nghĩa là con đường và cách thức) Đạo thờ tổ tiên”. GS. Phan Đại Doãn quan niệm thờ cúng tổ tiên như một tín ngưỡng gắn liền với sự củng cố quan hệ họ hàng, gia đình. Không ít người 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan