Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đề tài công tác tuyên truyền phổ biến và giáo dục pháp luật ở địa phương...

Tài liệu đề tài công tác tuyên truyền phổ biến và giáo dục pháp luật ở địa phương

.PDF
32
99
86

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa “thống nhất trong đa dạng”. Nền văn hóa đó là sự hội tụ các giá trị văn hóa của 54 dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Trong lịch sử hình thành và phát triển, mỗi dân tộc đều sáng tạo ra các giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng cho tộc người đó. Mỗi tộc người có những giá trị văn hóa riêng, qua lịch sử, các giá trị văn hóa ấy trở thành bản sắc văn hóa của từng tộc người, góp phần hình thành nền văn hóa Việt Nam đa sắc thái. Đặc trưng văn hóa là một trong 3 tiêu chí để xác định thành phần các dân tộc ở Việt Nam. Như vậy, sự tồn tại của mỗi tộc người gắn liền với bản sắc văn hóa. Khi các giá trị văn hóa của một dân tộc mất đi sẽ dần kéo theo sự biến mất của dân tộc đó. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập hiện nay, vấn đề văn hóa các dân tộc ngày càng được quan tâm. Một yêu cầu bức thiết đặt ra là hội nhập không đồng nghĩa với hòa tan. Chúng ta hội nhập cùng xu thế chung của quốc tế nhưng vẫn phải giữ được những giá trị dân tộc truyền thống. Giá trị dân tộc ấy là bản sắc văn hóa. Và bản sắc văn hóa Việt Nam chính là các giá trị văn hóa riêng của mỗi tộc người sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam mà cụ thể là của dân tộc Kinh và 53 dân tộc thiểu số còn lại. Việc tìm hiểu, nghiên cứu bản sắc văn hóa Việt Nam không thể không gắn liền với vấn đề tìm hiểu bản sắc văn hóa của từng tộc người riêng trong cộng đồng 54 dân tộc ở Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta cũng rất coi trọng đến vấn đề bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa của các dân tộc. Năm 1991, với “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội”, Đảng đã xác định: tôn trọng lợi ích truyền thống văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc, đồng thời kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức, thẩm mĩ, các di sản văn hóa nghệ thuật của dân tộc. Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, người Sán Dìu hay còn được gọi là Sơn Dao Nhân (người Dao ở trên núi), tập trung sinh sống ở các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái... Đến Việt Nam và ở Thái Nguyên cách đây khoảng 3 thế kỷ, nhưng người Sán Dìu trong quá trình sinh sống và lao động đã sáng tạo ra những giá trị văn hóa riêng cho tộc người mình, đồng thời có sự tiếp thu văn hóa của các tộc người cộng cư, tạo nên một đặc trưng văn hóa truyền thống cho dân tộc mình. Có thể khẳng định rằng các nghi lễ vòng đời là một trong những biểu hiện sâu đậm về bản sắc văn hóa tộc người, đặc biệt là đời sống tâm linh, tâm lý và phong tục tập quán của mỗi dân tộc. Đồng thời đây cũng là mảng văn hóa đặc sắc được lưu giữ bền lâu và chậm biến đổi. Bởi chính trong bản thân trong các nghi lễ vòng đời chứa đựng các giá trị nhân văn đầy sâu sắc. Điều này là nền tảng cho sự hưng thịnh của văn hóa tộc người. Mỗi thành viên thuộc về tộc người Sán Dìu, từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, đều trải qua các nghi lễ đời người của tộc người mình. Chính những nghi thức được thực hiện gắn với chu kỳ đời người của người Sán Dìu đó đã góp phần tạo nên những giá trị văn hóa của dân tộc. Việc nghiên cứu các giá trị văn hóa của tộc người Sán Dìu không thể bỏ qua những nghi lễ vòng đời người. Các mốc quan trọng chính trong cuộc đời con người được trải qua các nghi lễ cơ bản sau: cưới xin, sinh đẻ và tang ma. Đây là những dịp đánh dấu các bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời con người. Nó tạo ra trong bản thân mỗi người một sự phát triển phù hợp với quy luật của tự nhiên đồng thời cũng chịu sự chi phối của các quy luật xã hội. Vấn đề tìm hiểu văn hóa tộc người Sán Dìu nói chung và lý giải những biến đổi trong nghi lễ vòng đời người nói riêng còn nhiều vấn đề cần được giải đáp. Với ý nghĩa đó, chúng tôi quyết định chọn đề tài Những biến đổi văn hóa trong phong tục cưới xin và tang ma của người Sán Dìu trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên làm đề tài nghiên cứu với hy vọng đưa ra được những biến đổi sâu sắc trong phong tục cưới xin và tang ma của người Sán Dìu nơi đây, góp phần tìm hiểu các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói riêng, làm nền tảng cho việc tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam nói chung. Với đề tài này, chúng tôi mong rằng sau khi hoàn thành, kết quả của công trình sẽ đóng góp vào việc tìm hiểu văn hóa tộc người Sán Dìu cũng như văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Từ đó có những chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa thể hiện qua phong tục cưới xin và tang ma trong nghi lễ chu kỳ đời người người Sán Dìu trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên nói riêng và tộc người Sán Dìu nói chung. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trong những năm gần đây, xu hướng tìm hiểu, nghiên cứu văn hóa tộc người đã, đang và rất được quan tâm. Mặc dù chỉ chiếm khoảng 13% tổng số dân cả nước nhưng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, mỗi dân tộc lại có một nền văn hóa riêng, độc đáo, tạo nên một nền văn hóa chung, thống nhất trong đa dạng - một nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tộc người Sán Dìu ở Việt Nam cũng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu dân tộc học và nhiều tác giả dày công nghiên cứu. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về người Sán Dìu, cả về sách báo cũng như các tạp chí: Cuốn Người Sán Dìu ở Việt Nam của tác giả Ma Khánh Bằng, xuất bản năm 1983 là một bức tranh toàn cảnh về người Sán Dìu ở Việt Nam. Tác giả đã nghiên cứu và trình bày một cách khái quát tổng thể về dân tộc Sán Dìu: từ tên gọi, lịch sử hình thành và phát triển đến cách tổ chức đời sống, văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần cùng các phong tục tập quán làm nên các giá trị văn hóa riêng của tộc người Sán Dìu ở Việt Nam. Tác giả đã khẳng định tộc người Sán Dìu là “Một tộc người với dân số ít, tiếp thu văn hóa của nhiều dân tộc khác, song vẫn luôn ý thức được mình là một dân tộc”. Tác giả Diệp Trung Bình với Phong tục và nghi lễ chu kỳ đời người của người Sán Dìu ở Việt Nam (2005) đã mô tả một cách toàn diện các nghi lễ trong chu kỳ đời người người Sán Dìu nói chung từ khi sinh ra đến khi mất đi. Đồng thời tác giả cũng đã có những ý kiến đánh giá về giá trị văn hóa và những biến đổi về văn hóa của tộc người Sán Dìu được thể hiện qua nghi lễ vòng đời người. Trong Tri thức dân gian trong chu kỳ đời người Sán Dìu ở Việt Nam, nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, 2011, tác giả Diệp Trung Bình cũng đã giới thiệu những đặc trưng văn hóa của tộc người Sán Dìu ở Việt Nam qua hệ thống những tri thức dân gian của đồng bào liên quan đến sinh đẻ, nuôi dạy con cái và sự trưởng thành, cưới xin, tang ma. Diệp Thanh Bình cũng đã sưu tầm và biên dịch những làn điệu dân ca của tộc người Sán Dìu trong đời sống sinh hoạt hàng ngày và những lời hát đối đáp trong đám cưới. Tất cả được tập trung trong cuốn Dân ca Sán Dìu, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, năm 1987. Cuốn Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc) cũng trình bày một cách khái quát nhất về bức tranh tộc người Sán Dìu ở Việt Nam. Các tác giả đã giới thiệu những nét cơ bản về lịch sử tộc người, văn hóa mưu sinh, văn hóa vật chất qua nhà ở, trang phục, ẩm thực và văn hóa tinh thần: cưới xin, ma chay... Ngô Văn Trụ và Nguyễn Xuân Cần (Chủ biên), Dân tộc Sán Dìu ở Bắc Giang, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2003. Cuốn sách là một bức tranh toàn cảnh về người Sán Dìu ở Bắc Giang: Từ nguồn gốc, tên gọi, địa bàn cư trú… đến các hoạt động kinh tế truyền thống, ẩm thực, trang phục truyền thống, các phong tục nghi lễ liên quan đến chu kỳ đời người… Tác giả Nguyễn Ngọc Thanh trong tác phẩm Văn hóa truyền thống dân tộc Sán Dìu ở Tuyên Quang, xuất bản năm 2011 cũng trình bày một cách tổng quan nhất từ lịch sử tộc người, địa bàn cư trú cùng những đặc trưng văn hóa của tộc người này ở tỉnh Tuyên Quang. Những công trình nghiên cứu trên đây cũng là một điều kiện về cơ sở lý luận, tạo thuận lợi cho tác giả có một cái nhìn khách quan, có sự đối sánh trong nghiên cứu những biến đổi văn hóa của người Sán Dìu ở Phú Bình – Thái Nguyên qua phong tục cưới xin và tang ma. Tác giả Nguyễn Thị Quế Loan cũng đã dày công nghiên cứu một khía cạnh văn hóa của người Sán Dìu Thái Nguyên trong luận án tiến sĩ Tập quán ăn uống của người Sán Dìu ở Thái Nguyên. Luận án đã trình bày về nguồn gốc lương thực và thực phẩm truyền thống của người Sán Dìu ở Thái Nguyên, cách chế biến các món ăn, đồ uống, đồ hút truyền thống, sự tiếp thu các món ăn, đồ uống, đồ hút của các dân tộc khác, các yếu tố xã hội trong ăn uống, những biến đổi trong tập quán ăn uống của người Sán Dìu trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Cùng một vấn đề trên, tác giả Nguyễn Thị Quế Loan còn có bài viết Biến đổi trong tập quán ăn uống của người Sán Dìu tỉnh Thái Nguyên trên Tạp chí Dân tộc học, số 2, trang 13, năm 2008. Lê Minh Chính cũng có công trình nghiên cứu về người Sán Dìu huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên dưới góc độ y học: Thực trạng thiếu máu ở phụ nữ Sán Dìu trong thời kỳ mang thai tại huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên và hiệu quả của biện pháp can thiệp. Trên tạp chí Dân tộc và thời đại, số 89, năm 2006, hai tác giả Đàm Thị Uyên và Nguyễn Thị Hải có bài viết Tín ngưỡng trong cư trú của người Sán Dìu ở Thái Nguyên. Bài báo đề cập đến vấn đề tổ chức xã hội và những quan niệm tâm linh của đồng bào Sán Dìu trong tập quán cư trú. Tạp chí Dân tộc và thời đại số 87, năm 2006 đăng tải bài viết của tác giả Nguyễn Thị Mai với nội dung nghiên cứu là Lễ hội cầu mùa của người Sán Dìu. Tác giả Chu Thái Sơn, nhà nghiên cứu dân tộc học, có cuốn Dân tộc Sán Dìu theo chương trình “Sách Nhà nước tài trợ cho thiếu nhi các trường trung học cơ sở miền núi - vùng sâu - vùng xa”, nhà xuất bản Kim Đồng, 2011. Tác phẩm đã giới thiệu sơ lược lịch sử dân tộc, cuộc sống lao động, tập quán sinh hoạt, phong tục cổ truyền, đời sống tâm linh và cuộc sống hiện nay của dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam. Các công trình nêu trên đã phản ánh một bước tiến lớn trong lịch sử nghiên cứu về văn hóa của người Sán Dìu nói chung; bước đầu hình thành những kết quả nghiên cứu về tộc người Sán Dìu cả nước nói chung và người Sán Dìu ở từng địa phương nói riêng. Tuy nhiên, vấn đề tìm hiểu người Sán Dìu ở Phú Bình – Thái Nguyên nói chung và đi sâu nghiên cứu những biến đổi văn hóa trong phong tục tập quán cưới xin và tang ma nói riêng vẫn còn nhiều bỏ ngỏ. Những công trình nghiên cứu trên đây là cơ sở để tôi đi sâu tìm hiểu, làm sáng rõ hơn những biến đổi văn hóa trong phong tục cưới xin và tang ma của người Sán Dìu ở Phú Bình – Thái Nguyên. 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn Những biến đổi văn hóa trong phong tục cưới xin và tang ma của người Sán Dìu trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên được thực hiện nhằm mục đích tìm hiểu, nghiên cứu các giá trị văn hóa của tộc người Sán Dìu trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên được biểu hiện qua một số nghi lễ trong chu kỳ đời người. Trên cơ sở đó đề xuất một vài kiến nghị trong việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của người Sán Dìu ở địa bàn nghiên cứu nói riêng và tộc người Sán Dìu ở Việt Nam nói chung. - Việc tìm hiểu phong tục cưới xin và nghi lễ tang ma liên quan đến các quan niệm tâm linh, về vũ trụ và cuộc sống con người. Vì vậy, nghiên cứu những biến đổi của dạng thức này là tiếp cận với các quan niệm về cưới xin và tang ma của người Sán Dìu. - Việc nghiên cứu những biến đổi phong tục cưới xin và tang ma trong nghi lễ vòng đời hiện nay đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Dựa vào đó, có những đề xuất nhằm phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp và giảm thiểu những hủ tục lạc hậu còn tồn tại trong đời sống tinh thần đồng bào Sán Dìu. 3.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là những biến đổi cơ bản và những nguyên nhân gây nên sự biến đổi trong phong tục cưới xin và tang ma của người Sán Dìu huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên hiện nay, dựa trên cơ sở so sánh với phong tục truyền thống trước đây. Qua đó, các giá trị văn hóa trong các nghi lễ của dân tộc, các mối quan hệ giữa con người, giữa các thành viên trong gia đình và cộng đồng được bộc lộ rõ. - Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, tập trung nghiên cứu tại 2 xã có số lượng người Sán Dìu sinh sống đông nhất là Bàn Đạt và Tân Khánh. Về thời gian: đề tài nghiên cứu đặc trưng văn hóa trong phong tục cưới xin và tang ma của người Sán Dìu trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên từ truyền thống đến hiện tại dưới cái nhìn đối sánh. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận Đề tài thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc và về văn hóa dân tộc. Theo đó, đề tài luôn xem xét và đánh giá các sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động liên tục trong không gian và thời gian. Đề tài cũng kế thừa thành tựu nghiên cứu, lý luận và phương pháp luận của các nhà dân tộc học tại thực địa. - Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là khảo sát điền dã dân tộc học, tiếp xúc trực tiếp với các đối tượng thông qua phỏng vấn sâu, phỏng vấn nhóm, đồng thời quan sát, ghi chép, ghi hình, ghi âm ở 2 xã (Bàn Đạt và Tân Khánh) trong huyện Phú Bình; nghiên cứu tài liệu văn bản; phương pháp liên ngành: dân tộc học, văn hóa học, lịch sử, xã hội học, so sánh, đối chiếu… - Nguồn tài liệu: Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tập hợp các tư liệu từ các nguồn: khảo sát, điền dã dân tộc học; trao đổi với các nhà khoa học; tìm hiểu các tài liệu, sách báo ấn phẩm về dân tộc Sán Dìu, các nghi lễ vòng đời của dân tộc Sán Dìu và của các dân tộc khác ở Việt Nam. 5. Đóng góp của đề tài - Góp thêm nguồn tư liệu điền dã mới, qua đó thấy được những thay đổi rõ nét trong phong tục cưới xin và tang ma người Sán Dìu trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên hiện nay so với truyền thống. - Là đề tài nghiên cứu mang tính hệ thống, chi tiết về hai phong tục trong số các nghi lễ vòng đời còn được duy trì và bảo tồn trong cộng đồng người Sán Dìu trên địa bàn huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên và những biến đổi của mỗi nghi lễ trong giai đoạn hiện nay. - Góp phần nghiên cứu, bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân Sán Dìu ở Việt Nam nói chung và ở huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên nói riêng. - Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính sách xã hội, văn hóa giáo dục, trong đó ưu tiên cho việc giữ gìn, bảo tồn các nghi lễ mang yếu tố tích cực, hạn chế những nghi lễ mang tính chất tiêu cực, tốn kém về vấn đề vật chất, hạn chế về trình độ nhận thức, gây cản trở sự phát triển xã hội. Điều này được gắn với việc xây dựng nếp sống văn hóa mới của cộng đồng ở địa phương trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 6. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về tự nhiên và con người huyện Phú Bình – tỉnh Thái Nguyên. Chương 2: Truyền thống và biến đổi trong phong tục cưới xin và tang ma của người Sán Dìu trên địa bàn huyện Phú Bình – tỉnh Thái Nguyên. Chương 3: Một số giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị trong phong tục cưới xin và tang ma của người Sán Dìu trên địa bàn huyện Phú Bình – tỉnh Thái Nguyên. NỘI DUNG Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỰ NHIÊN VÀ CON NGƯỜI HUYỆN PHÚ BÌNH – TỈNH THÁI NGUYÊN 1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên 1.1.1. Vị trí địa lý Thời Lý, vùng đất huyện Phú Bình ngày nay có tên gọi là huyện Tư Nông, thuộc châu Thái Nguyên. Thời Minh, thuộc phủ Thái Nguyên. Thời Lê, thuộc Thái Nguyên thừa tuyên, Ninh Sóc thừa tuyên. Đầu thế kỷ XX, Toàn quyền Đông Dương đổi tên huyện Tư Nông thành phủ Phú Bình. Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, phủ Phú Bình là một trong bảy phủ, huyện, châu của tỉnh Thái Nguyên gồm 9 tổng, 46 xã, 7 thôn và 1 phường. Ngày 25 tháng 3 năm 1948, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra Sắc lệnh 148/SL quy định bãi bỏ các danh từ phủ, châu, quận; cấp trên xã và dưới cấp tỉnh thống nhất gọi là cấp huyện. Từ đó phủ Phú Bình gọi là huyện Phú Bình1 [22, tr. 6]. Đến nay, huyện Phú Bình có 21 đơn vị hành chính, bao gồm 20 xã và 1 thị trấn (Tân Khánh, Hà Châu, Tân Hoà, Đồng Liên, Lương Phú, Dương Thành, Tân Thành, Bảo Lý, Nhã Lộng, Tân Kim, Đào Xá, Tân Đức, Xuân Phương, Thanh Ninh, Kha Sơn, Úc Kỳ, Bàn Đạt, Điềm Thuỵ, Nga My, Thượng Đình và Thị trấn Hương Sơn) với 315 xóm và 4 tổ dân phố. Trong đó có 7 xã được xếp vào diện xã miền núi. Ngày 1/7/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 268 SL thành lập khu tự trị Việt Bắc, huyện Phú Bình được tách khỏi tỉnh Thái Nguyên, sát nhập vào Bắc Giang, sau gần 1 năm, ngày 15/6/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định trả huyện Phú Bình về tỉnh Thái Nguyên. 1 Huyện Phú Bình có toạ độ địa lý là: 21o23' - 21o35' vĩ Bắc; 105o51' 106o02' kinh Đông. Phía Bắc và Tây Bắc giáp huyện Đồng Hỷ. Phía Tây và Tây Nam giáp huyện Phổ Yên và Thành phố Thái Nguyên. Phía Đông giáp huyện Yên Thế (Bắc Giang). Phía Nam giáp huyện Hiệp Hoà (Bắc Giang). Phú Bình là địa đầu phía Nam tỉnh Thái Nguyên. Phú Bình không xa thành phố Thái Nguyên (trung tâm huyện lỵ cách Thành phố Thái Nguyên 28 km), Khu công nghiệp Gang thép, thủ đô Hà Nội, lại liền đường giao thông nên việc tiếp cận kinh tế thị trường, giao lưu kinh tế, xã hội giữa Phú Bình với Thái Nguyên, Hà Nội khá nhanh nhạy. Đó là cơ sở, là thế mạnh để Phú Bình tiến nhanh, tiến vững chắc trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thế kỷ XXI. 1.1.2. Điều kiện tự nhiên Tổng quỹ đất của huyện là 249,36 km2, trong đó diện tích đất dùng cho nông nghiệp là lớn nhất: 13.845,93 ha chiếm tỷ trọng 55,52% diện tích tự nhiên [30, tr.1]. - Địa hình: Có độ dốc giảm dần theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, với độ dốc khoảng 0,04%, độ chênh cao trung bình là 14m, thấp nhất là 10m (xã Dương Thành), đỉnh cao nhất là đỉnh đèo Bóp xã Tân Kim với độ cao là 250m so với mực nước biển. Nhìn chung, địa hình của huyện tương đối bằng phẳng, vùng đồi núi chủ yếu là đồi bát úp thoải và thấp có độ cao dưới 100m. Diện tích có độ dốc nhỏ hơn 8o chiếm đa số (chiếm 67,56% tổng diện tích tự nhiên). Đây là điều kiện tự nhiên thuận lợi phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất cây lương thực. - Khí hậu, thuỷ văn: Do nằm ở Bắc chí tuyến, trong vành đai Bắc bán cầu nên khí hậu của huyện mang tính chất của khí hậu nhiệt đới gió mùa (Thuộc vùng khí hậu nóng của tỉnh). Khí hậu mang đặc điểm của khí hậu trung du miền núi Bắc Bộ lại thuộc vùng Đông Bắc nên gió mùa dễ dàng xâm nhập. + Nhiệt độ trung bình năm: 23,1o - 24,4oC. Nhiệt độ chênh lệch giữa tháng nóng nhất với tháng lạnh nhất là 13,7oC. + Lượng mưa trung bình năm 2000 - 5000 mm, lượng mưa cao nhất vào tháng 8 và thấp nhất vào tháng 1. + Tổng số giờ nắng trong năm dao động 1.206 - 1.570 giờ + Độ ẩm trung bình năm: 81 - 82% + Gió: Mùa hè có gió Đông Nam thịnh hành. Mùa đông có gió Đông Bắc nên thời tiết lạnh, khô. Vì thế sản xuất gặp không ít khó khăn. Phú Bình là một huyện thuộc vùng khí hậu ấm của tỉnh thuận lợi cho sản xuất nông, lâm nghiệp và đời sống cư dân, thuận lợi cho việc phát triển một hệ sinh thái đa dạng bền vững nói chung và ngành nông lâm nghiệp nói riêng. - Sông ngòi: Huyện Phú Bình có 2 con sông và 3 dòng suối chảy qua nên nguồn nước ở đây khá phong phú. Sông Cầu nằm trong hệ thống sông Thái Bình, bắt nguồn từ huyện Chợ Đồn của tỉnh Bắc Kạn chảy qua Bạch Thông, Phú Lương, Võ Nhai rồi vòng theo hướng Tây Bắc - Đông Nam về thành phố Thái Nguyên, trôi về Phú Bình, Phổ Yên và chạy vào địa phận tỉnh Bắc Giang. Đoạn sông Cầu chảy qua huyện Phú Bình có chiều dài 29 km, chảy từ đập Thác Huống (xã Đồng Liên) qua 9 xã, rồi đổ về Chã (Huyện Phổ Yên). Lòng sông rộng trung bình khoảng 120 m. Đây là điều kiện thuận lợi cho giao thông đường sông và cung ứng nước tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp. Sông Đào (Còn gọi là sông Máng) bắt nguồn từ đập Thác Huống (xã Đồng Liên) chảy qua địa phận 9 xã và đổ về sông Thương (Bắc Giang) với chiều dài 31 km. Đây là con sông nằm trong hệ thống đại thuỷ nông, hàng năm cung cấp nước tưới cho 1.800 ha ruộng của Phú Bình và hàng ngàn ha ruộng của các huyện Hiệp Hoà, Tân Yên, Yên Thế thuộc tỉnh Bắc Giang. Phú Bình còn có 3 dòng suối chính bắt nguồn từ phía Đông Bắc của huyện chảy qua các xã Bàn Đạt, Đào Xá, Tân Khánh, Tân Kim, Tân Thành đổ vào sông Cầu. Với hệ thống sông ngòi như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp của huyện. 1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội * Kinh tế Nhân dân Phú Bình sống chủ yếu bằng nghề sản xuất nông nghiệp. Diện tích đất nông nghiệp là 13.845,93 ha, trong đó, có 10.085,14 ha đất trồng cây hàng năm, 2.296,55 ha đất vườn tạp, 1.060,43 ha đất trồng cây lâu năm [32, tr.1, 2]. Với tiềm năng đất đai như vậy, nhân dân cần cù lao động, giàu kinh nghiệm sản xuất, Phú Bình có điều kiện phát triển nông nghiệp. Ngoài việc cấy trồng lương thực, rau màu, Phú Bình còn có 400,8 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản. Sản xuất nông nghiệp tuy còn khó khăn, phụ thuộc vào thiên nhiên nhưng từ xưa đến nay, Phú Bình vẫn được coi là vựa lúa, kho người, kho của ở Thái Nguyên. Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, Phú Bình cũng có nhiều nghề thủ công. Đáng chú ý là nghề làm đồ gốm ở Lang Tạ, nghề đan lát đồ mây tre đều có rải rác ở các thôn xã (xã Thượng Đình, Điềm Thụy)... Do vị trí địa lý, giao thông thuận tiện cho việc giao lưu hàng hóa, đặc biệt thuận tiện trong cung cấp lương thực, thực phẩm cho thị trường Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hà Nội nên buôn bán ở Phú Bình có vị trí đáng kể. Huyện Phú Bình còn có một số chợ lớn nằm sát đường giao thông, đó chính là những cầu giao lưu hàng hóa với các vùng xung quanh, như Chợ Đồn, Chợ Cầu, chợ Tân Đức, Chợ Hanh. Thị trấn Hương Sơn ngày càng được mở rộng, dân cư hội tụ về đây làm ăn buôn bán ngày một sầm uất. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Phú Bình thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo (1986) qua các kỳ Đại hội Đảng bộ huyện (Từ Đại hội XIX năm 1986 đến Đại hội lần thứ XXIV giai đoạn 2005- 2010) đã thu được nhiều kết quả trên mọi lĩnh vực và từng bước phát huy được tiềm năng của địa phương. Năm 2011, chính quyền và nhân dân huyện Phú Bình phải đối mặt với những thách thức trong bối cảnh khó khăn chung của cả nước, nhưng việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của huyện đã đạt được những thành tựu đáng kể sau: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) trên địa bàn ước đạt 11,5%. Thu nhập bình quân đầu người ước đạt 13 triệu đồng/người/năm. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản năm 2011 tăng 3,9%, trong đó giá trị sản xuất ngành trồng trọt tăng 5,2% (Do được mùa cả 2 vụ lúa, là năm có năng suất lúa cao nhất từ trước tới nay, các cây trồng khác tương đối ổn định và thuận lợi). Tổng sản lượng lương thực có hạt cả năm đạt. Sản lượng lương thực có hạt 75.877 tấn, tăng 3,7% so với năm 2010. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 48,5 tỷ đồng. Giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp (theo giá cố định năm 1994) ước đạt 75 tỷ đồng. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 17.000 tấn, tăng 6,25% so với năm 2010. Diện tích trồng rừng toàn huyện đạt 351 ha, tăng 56,5% so với năm 2010. Giá trị sản phẩm/1ha đất nông nghiệp trồng trọt (theo giá thực tế) ước đạt 67 triệu đồng, tăng 9 triệu đồng so với kế hoạch. Tỷ lệ che phủ rừng ước đạt 25%. * Xã hội Theo kết quả sơ bộ cuộc Tổng điều tra Dân số của huyện tính đến ngày 01- 4 - 2009 dân số huyện Phú Bình là 133.322 người, 34.963 hộ. Trong đó: Dân số khu vực nông thôn là 125.887 người, dân số thành thị là 7.435 người. Mật độ dân số trung bình là 556 người/km2 đứng thứ 2 sau Thành phố Thái Nguyên. Ngoài tiềm năng về đất đai và tài nguyên, tiềm năng về lao động là điểm đáng chú ý của Phú Bình. Trong năm đã tạo việc làm mới cho 3.100 lao động, bằng 103% chỉ tiêu kế hoạch năm, trong đó đi lao động có thời hạn tại nước ngoài 130 người, bằng 108,3% kế hoạch năm; Trung tâm dạy nghề huyện đã đào tạo và liên kết đào tạo nghề cho trên 702 người, bằng 140% kế hoạch năm, trong đó 96,8% lao động có việc làm ngay sau đào tạo. Giảm tỷ suất sinh thô trên địa bàn ước đạt 0,30/oo, vượt 0,10/oo so với kế hoạch. Giảm tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn 5,07%, vượt 2,07% so với kế hoạch. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc được cải thiện rõ rệt, nhiều chính sách xã hội hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo, vùng khó khăn được chú trọng thực hiện. Các chính sách của Đảng và Nhà nước được triển khai đồng bộ, kịp thời, có hiệu quả. Toàn huyện có 21 trường Mầm non, 21 trường Tiểu học và 21 trường Trung học cơ sở, 03 trường Trung học phổ thông, 01 Trung tâm giáo dục thường xuyên, 01 Trung tâm hướng nghiệp, 01 Trung tâm dạy nghề và các xã, thị trấn đều có Trung tâm học tập cộng đồng, đến nay huyện đã hoàn thành công tác xoá mù chữ, hoàn thành công tác phổ cập giáo dục Trung học cơ sở, toàn huyện có 25 trường học đạt Chuẩn Quốc gia. Cơ sở vật chất của các trường phổ thông trên địa bàn cơ bàn đã được xây dựng kiên cố. Công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân: Bệnh viện huyện đang tiếp tục được đầu tư cơ sở vật chất; 100% các trạm y tế cấp xã có bác sỹ, cơ sở vật chất, y dụng cụ được tăng cường; đội ngũ cộng tác viên Dân số - kế hoạch hoá gia đình và cán bộ y tế thôn bản được bố trí ở hầu hết các xóm, tổ dân phố. Do đó, cơ bản đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống còn 21,4%. Tỷ lệ số hộ dân cư ở nông thôn sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 75%. Đảm bảo an ninh trật tự xã hội và công tác quân sự địa phương, hoàn thành 100% các chỉ tiêu đề ra. Cơ sở hạ tầng: Hệ thống giao thông được quan tâm đầu tư, dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 37 đã hoàn thành, các tuyến đường liên xã được đầu tư mở rộng và nhựa hoá: Tuyến đường Cầu Mây - Tân Kim - Tân Khánh, Cầu Mây Đồng Liên, tuyến đường Úc Sơn - Tân Thành - Hợp Tiến và có nhiều tuyến đường đang được thi công và chuẩn bị đầu tư xây dựng. Cơ sở vật chất trường, lớp học, bệnh viện, trạm xá tiếp tục được quan tâm đầu tư. 100% số xóm có điện lưới quốc gia để sử dụng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Đây là điều kiện thuận lợi để khơi dậy tiềm năng, thế mạnh, thúc đẩy kinh tế của các xã miền núi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống và phát triển. Hệ thống giao thông trên địa bàn Phú Bình tương đối dày đặc. Quốc lộ 37 từ thành phố Thái Nguyên chạy qua suốt chiều dài của huyện đến thị xã Bắc Giang. Quốc lộ 38 từ Điềm Thụy qua Hà Châu, Kha Sơn đi Nhã Nam (Bắc Giang). Ngoài 2 tuyến quốc lộ trên, Phú Bình còn có 120 km đường liên xã, 198 km đường liên thôn, đảm bảo cho xe ô tô đi lại thuận tiện đến các thôn, xã trong huyện. Tình hình an ninh - trật tự: Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện luôn ổn định, nhân dân các dân tộc thiểu số trong huyện tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền. Các xã Tân Khánh, Tân Hoà, Tân Kim, Tân Khánh, Bàn Đạt, Đồng Liên trong những năm qua luôn làm tốt công tác an ninh trật tự vùng giáp ranh. 1.3. Người Sán Dìu trên địa bàn huyện Phú Bình – tỉnh Thái Nguyên 1.3.1. Tộc danh, nguồn gốc lịch sử, dân số Ở Việt Nam, dân tộc Sán Dìu là một trong những dân tộc thiểu số có số dân ít phân bố chủ yếu ở miền Bắc nước ta: Với khoảng 4 vạn người, cư trú ven các triền núi thấp, trên các gò đồi thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Hưng Yên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang và một bộ phận ở Thanh Hoá [4, tr 87]. Người Sán Dìu tự nhận là Sán Déo Nhín, âm Hán Việt là “Sơn Dao Nhân”, tức là người Dao ở trên núi hay người Sán Dìu. Còn các tộc người khác căn cứ vào những đặc điểm như cách ăn mặc, loại hình nhà ở... mà gọi người Sán Dìu bằng nhiều tên gọi khác nhau: Mán quần cộc, Trại cộc, Mán váy xẻ, Trại đất... Đến tháng 3 năm 1960, Tổng cục thống kê Trung ương mới khẳng định tên Sán Dìu. Và cũng từ đó, Sán Dìu trở thành tên gọi chính thức được ghi trong các văn bản Nhà nước. Đến nay, tên Sán Dìu đã phổ biến trong toàn quốc. Lai lịch của người Sán Dìu còn chưa được làm sáng rõ, vì rằng chúng ta chưa có một cứ liệu lịch sử có thể tin cậy được mà chỉ là phỏng đoán. Để nói về nguồn gốc của mình, đồng bào Sán Dìu ở huyện Phú Bình, Thái Nguyên cũng có huyền thoại “Truyện Vua Cóc”. Huyền thoại này được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Do ách áp bức tàn bạo của phong kiến Trung Quốc (từ cuối đời nhà Minh đến đầu nhà Thanh vào khoảng thế kỷ XVII), dân tộc Sán Dìu bị tan nát nhà cửa, số người sống sót ít ỏi tập hợp lại, di cư đến các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Tuy không xác định được nguồn gốc của mình nhưng người Sán Dìu luôn có ý thức dân tộc với cái tên tự nhận là Sán Dìu. Quá trình phiêu bạt trên đất nước ta như thế nào thì không ai còn nhớ tường tận, mà chỉ còn đọng lại trong kí ức của họ nỗi bi thảm và hãi hùng. Nhưng quá trình vào chung sống với các dân tộc ở Việt Nam thì đồng bào còn nhớ rõ. Trong tác phẩm "Người Sán Dìu ở Việt Nam" của Ma Khánh Bằng có viết "Vào Việt Nam, người Sán Dìu đã vượt dãy Hoàng Chúc Cao Sơn tới Hà Cối, Tiên Yên rồi toả đi các nơi. Một bộ phận đã dọc theo bờ biển đến Đầm Hà, Móng Cái, Hoành Bồ, Mạo Khê, Đông Triều và một số nhỏ đi sang Chí Linh (Hải Dương). Còn phần lớn đã theo dãy Yên Tử để vào Lục Nam, Lục Ngạn, Lạng Giang, Yên Thế (Bắc Giang) rồi lại từ đó chuyển lên Vĩnh Yên, Phúc Yên (Vĩnh Phúc), Tuyên Quang (Hà Tuyên), Thái Nguyên (Bắc Thái). Như vậy người Sán Dìu đã cư trú trên suốt một dải bán sơn địa rộng lớn từ tả ngạn sông Hồng trở về phía Đông. Ngoài những cư dân sống tập trung trong một số xã thuộc các huyện Bắc Giang cũ, đại bộ phận còn lại sống bao quanh phía Đông - Nam và Đông Bắc dãy Tam Đảo, thuộc phần đất các tỉnh Vĩnh Phú, Hà Tuyên và Bắc Thái ngày nay" [2, tr 17]. Phú Bình là huyện tập trung nhiều dân tộc khác nhau cùng sinh sống: người Hoa, Tày, Nùng, Sán Chay, Dao, Hmông... Dân số của huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên theo tổng điều tra dân số 01/04/2009 là 134.150 người, trong đó người Sán Dìu là 3.115 người, chiếm 2.3% dân số toàn huyện2. Bảng 1.1: Dân số huyện Phú Bình chia theo dân tộc, giới tính và khu vực thành thị, nông thôn Dân tộc Tổng số Tổng % Thành thị Nam Nữ Tổng Nam số Tổng số Nông thôn Nữ Tổng số Nam Nữ số 134150 66 67 7 3 3 126 756 62 259 892 394 617 777 62 7 3 3 208 974 202 531 671 61 33 28 1 743 929 64 114 642 Chia ra 1.Kinh 124182 92.57 61 116 980 57 59 303 677 2.Tày 1804 1.34 962 842 3.Nùng 4594 3.42 2 361 2 233 108 44 64 4 486 2 317 2 169 4.Sán Dìu 3115 2.32 1 521 1 594 7 1 6 3 108 1 520 1 588 5.Sán Chay 19 0.01 3 16 2 0 2 17 3 14 6.Dao 103 0.08 29 74 3 1 2 100 28 72 7.Hmông 24 0.02 15 9 0 0 0 24 15 9 8.Hoa 207 0.15 123 84 0 0 0 207 123 84 (Hán) 2 Tổng điều tra dân số và nhà ở tỉnh Thái Nguyên năm 2009 814 9.Các dân 102 0.08 37 65 11 7 4 91 30 tộc khác Nguồn: [27, tr.119] Người Sán Dìu ở Phú Bình, Thái Nguyên có mặt ở hầu hết các xã nhưng tập trung chủ yếu ở hai xã Bàn Đạt và Tân Khánh, chiếm lần lượt là 81% và 11.7% so với tổng số người Sán Dìu toàn huyện. Tuy có sự phân bố dân cư rải rác ở các xã trong huyện nhưng văn hóa của người Sán Dìu ở Phú Bình là thống nhất. Vì vậy, đề tài chúng tôi được thực hiện dựa trên cơ sở nghiên cứu thực tế tại hai địa bàn người Sán Dìu tập trung đông nhất trong cả huyện nhằm khái quát những nét văn hóa được thực hành trong hai nghi lễ cưới xin và tang ma hiện nay trong thế đối sánh với phong tục truyền thống, từ đó tìm ra nguyên nhân dẫn đến những biến đổi trong việc thực hành hai phong tục ấy hiện nay của đồng bào. Bảng 1.2: Dân số người Sán Dìu ở huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên Tổng số hộ STT Tên xã (hộ) Tổng số khẩu Dân số Sán Dìu (người) (người) Tỉ lệ người Sán Dìu (%) 1 Đồng Liên 1104 4569 32 2 Bàn Đạt 1431 6194 2224 81 3 Tân Khánh 1789 7372 322 11.7 4 Tân Kim 1774 7646 21 5 Tân Thành 1293 5472 5 6 Tân Hoà 1962 8289 8 7 Tân Đức 2065 8651 11 61
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan